Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

tiểu luận môn giới thiệu tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa mác lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.71 KB, 44 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử hình thành và phát triển của Chủ nghĩa xã hội là lịch sử của sự tìm
tòi và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin trong đó các tư tưởng về chính trị là những
nội dung quan trọng nhất. Bằng hệ thống những tác phẩm của mình các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác đã cung cấp những hiểu biết chính xác nhất, khoa học nhất và
khách quan nhất về sự vận động và phát triển của xã hội cũng như những cách
thức, biện pháp để giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị trong đó cốt lõi nhất là
xây dựng nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc vận dụng những tư tưởng về
chính trị trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin luôn có tính chất
hai mặt, vận dụng đúng và sáng tạo thì sẽ tạo động lực cho sự ổn định và phát triển
của hệ thống chính trị còn vận dụng sai thì sẽ đem lại hậu quả không thể lường
trước được mà điển hình là Liên Xô và Đông Âu trong những thập niên cuối thế kỷ
XX.
Trong thực tiễn đổi mới đất nước ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay, nhất là trong đổi mới lĩnh vực chính
trị đã có rất nhiều vấn đề phức tạp đặt ra và cần có những giải đáp đúng đắn.
Vì vậy, việc tìm hiểu, vận dụng đúng đắn và sáng tạo những quan điểm
chính trị của chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn đổi mới ở đất nước ta là một đòi
hỏi cấp bách mang tính tất yếu. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang
trong giai đoạn đẩy mạnh mạnh công nghịêp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chính vì vai trò quan trọng như vậy nên tác giả tiểu luận này chọn đề tài:
"Quan điểm về chính trị trong một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa MácLênin” nhằm góp phần vào việc làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin về chính trị và đề xuất một số phương hướng, giải pháp vận dụng quan
1


điểm chính trị của các nhà kinh điển vào đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chính trị không phải là một đề tài


mới mẻ nữa, từ trước cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu tập trung
làm rõ mặt này trong lý luận của chủ nghĩa Mác-lênin. Những công trình này đã
được đề cập đến rất nhiều trong các cuốn sách, tạp chí về chuyên ngành lý luận
chính trị cũng như trong rất nhiều các đề tài khoa học, luận văn, khóa luận…
Tiêu biểu cho những công trình viết về khía cạnh này của chủ nghĩa Mác
phải kể đến cuốn sách “chính trị từ quan điểm Mác-Lênin đến thực tiễn Việt Nam”
do Trần Ngọc Linh, Nguyễn Thanh Tuấn và Lê Kim Việt đồng chủ biên được xuất
bản năm 2006. Trong cuốn sách này, các tác giả đã đề cập đến một số những quan
điểm của các nhà sáng lập ra Chủ nghĩa xã hội khoa học về chính trị dưới dạng
những lời trích dẫn, những câu nói trong các bài viết của Mác, Ăngghen và Lênin
về chính trị.
Năm 2009, nhà xuất bản chính trị Quốc gia cho xuất bản cuốn sách “Chính
trị học những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Văn Huyên chủ biên. Trong
cuốn sách này cũng đã đề cập đến những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về
chính trị ở mức độ khái quát.
Ngoài những công trình nghiên cứu của các tác giả trên, những quan điểm
của chủ nghĩa Mác- Lênin về chính trị còn được đề cập đến trong nhiều cuốn sách,
tạp chí chuyên ngành thuộc bộ môn chính trị học như: Chính trị học đại cương của
khoa chính trị học- Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Tập bài giảng chính trị học
của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh chủ biên…
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những quan điểm về chính trị
của chủ nghĩa Mác- Lênin ở nhiều mức độ, khía cạnh khác nhau một cách tương
2


đối hoàn chỉnh đồng thời đã nêu lên thực tiễn đổi mới và nhiều phương hướng để
vận dụng những quan điểm này vào thực tế Việt nam. Đề tài của tác giả chỉ góp
phần hệ thống hóa lại những nội dung này đồng thời cố gắng bổ sung những vấn đề
về thực tiễn đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở làm rõ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin về
chính trị trong một số tác phẩm kinh điển, tiểu luận đưa ra những phương pháp,
tiêu chí và thực trạng vận dụng những tư tưởng này vào việc đổi mới hệ thống
chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu.
Với đề tài này, tiểu luận tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận sau:
Khái quát các quan điểm, khái niệm về chính trị trong lịch sử xã hội.
Hệ thống hóa những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin về chính
trị.
Nêu lên những phương pháp, tiêu chí vận dụng những tư tưởng chính trị vào
việc đổi mới hệ thốn chính trị và thực trạng đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam
hiện nay.
Nêu lên một số hạn chế trong việc vận dụng những tư tưởng chính trị của
Chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc đổi mới hệ thống chính trị.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận.
Tiểu luận được thực hiện trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta về
chính trị
Phương pháp nghiên cứu.
3


Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin đó là phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong quá
trình nghiên cứu những quan điểm về chính trị.
Ngoài ra, tiểu luận còn sử dụng một số phương pháp khác nhau trong nghiên
cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp…và các phương pháp đặc thù như:
phương pháp lôgíc- lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá, khái quát hoá…
5. Kết cấu của tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Tiểu luận gồm

có: 2 chương với 6 tiết.
Chương 1: Khái quát những quan điểm chung của chủ nghĩa Mác-Lênin về
chính trị
Chương 2: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào đổi mới hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay.

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT NHỮNG QUAN ĐIỂM CHUNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN VỀ CHÍNH TRỊ.
1.1 Khái niệm chính trị.
Từ trước đến nay trong lịch sử loài người, đã có nhiều người đưa ra những
định nghĩa khác nhau về chính trị.
Theo cuốn “Từ điển chính trị” của B. N. Pô- nô- ma- ép chính trị được hiểu là:
“Mục đích nhiệm vụ của các giai cấp theo đuổi trong cuộc đấu tranh cho quyền lợi
của giai cấp mình; những giải pháp phương tiện để gìn giữ và bảo vệ quyền lợi đó”
[15, tr. 147]
Theo cuốn “Chính trị học đại cương” do Dương Xuân Ngọc chủ biên:
“Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, cũng như giữa các dân
tộc và các quốc gia trong vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà
nước; là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái chính trị, các nhà nước
nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và mục tiêu đã đề ra nhằm
thoả mãn lợi ích” [14, tr.10]
Theo quan điểm của Mác và Ph. Ăngghen: “Mọi lĩnh vực tư nhân đều có tính
chất chính trị hoặc đều là lĩnh vực chính trị; nói cách khác chính trị cũng là tính
chất của những lĩnh vực tư nhân” [13, tr.7]
Hay như trong “lời tựa cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888” Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản, Ph. Ăngghen có viết: “Trong mỗi thời đại lịch sử, phương

thức sản xuất chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do
phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời
đại”[12, tr.21]. Luận điểm hạt nhân đó xuyên suốt “Tuyên ngôn”, cho chúng ta
thấy nhận thức nhất quán của Mác và Ph. Ăngghen về chính trị. Ở đây chính trị
5


như một thành tố của kiến trúc thượng tầng được quyết định bởi cơ sở hạ tầngphương thức sản xuất và cơ cấu xã hội của nó.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của Mác và Ăngghen về chính trị với tư
duy sâu sắc và biện chứng, Lênin đã nêu ra luận điểm của ông về chính trị mà cho
đến nay vẫn được khẳng định là đúng đắn:
“Chính trị là sự tham gia vào công việc của nhà nước, là vạch hướng đi cho
nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà
nước” [7, tr.33].
Hay: “Trong chính trị, nghĩa là trong lĩnh vực quan hệ giữa người với người,
người ta không tính đến từng cá nhân mà tính đến hàng triệu người, thì sự thành
thực có nghĩa là lời nói và việc làm đi đôi với nhau, và lúc nào sự đi đôi đó cũng
có thể kiểm nghiệm được” [10, tr.32]. Như vậy, chính trị dù hiểu theo cách nào thì
nó cũng được xem là lĩnh vực hoạt động rộng lớn có tính chất quyết định trong
phát triển xã hội. Chính trị ra đời từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp, hình thành
nhà nước, đấu tranh giai cấp và xây dựng nhà nước, nhằm bảo vệ lợi ích, quyền lợi
của các giai cấp, bảo vệ chủ quyền và phát triển quốc gia.
1.2 Một số tư tưởng về chính trị trước chủ nghĩa Mác- Lênin.
1.2.1 Tư tưởng phương Tây về chính trị.
Ngay từ thời cổ đại, ở phương Tây đã xuất hiện rất nhiều nhà triết học đồng
thời với đó là những nhà chính trị lỗi lạc như: Hêrôđốt, Platon, Aritot, Xixêrôn…
sau này được J. Lốccơ, Môngtétkiơ, Rútxô kế thừa và phát triển.
Khái quát lịch sử tư tưởng về chính trị của phương Tây là lịch sử của những
cuộc đấu tranh tư tưởng của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị xoay quanh vấn đề
giành, giữ, sử dụng và thực thi quyền lực.

Theo họ, chính trị là lĩnh vực liên quan đến việc lãnh đạo và điều khiển. Vì
vậy, chính trị phải là sự thống trị của trí tuệ tối cao. Thứ chính trị thiếu trí tuệ chỉ
còn là bạo lực cưỡng chế đơn giản, sự cưỡng bức mà nhà nước phải là sự áp đặt
6


của lý trí phổ biến của trí tuệ phát triển cho mọi người, mọi xã hội. Áp đặt cương
bức thô bạo không phải là chính trị chân thật. Muốn có xã hội dân chủ và quản lý
được quốc gia thì phải có một trí tuệ siêu việt.
1.2.2 Tư tưởng phương Đông về chính trị.
Ở phương Đông tiêu biểu nhất là Trung Quốc ngay từ thời chiến quốc đã
xuất hiện rất nhiều trường phái chính trị khác nhau, dẫn đến quan điểm của họ về
chính trị cũng khác nhau, trong đó những nhà tư tưởng chính trị lớn như: Khổng
tử, Mặc tử, Lão tử, Hàn phi tử…Tuy những tư tưởng chính trị này còn sơ khai
nhưng nó đã đặt nền móng cho cho sự phát triển của những luồng tư tưởng chính
trị sau này.
Tuy có nhiều điểm khác biệt và tư tưởng, song họ cũng có những điểm
chung nhau đó là mong muốn cho xã hội ổn định và phát triển nên những tri thức
chính trị đó có giá trị chung cho nhiều thời đại về sau này.
Tất cả những luồng tư tưởng về chính trị của phương Đông và phương Tây
đều có vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn đối với sự hình thành và phát triển tư
tưởng về chính trị của chủ nghĩa Mác- Lênin. Nó được coi như những tiền đề cơ sở
thúc đẩy sự hình thành của chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung và tư tưởng về chính
trị nói riêng.
1.3 Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin về chính trị.
1.3.1 Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là kinh tế cô đọng lại.
Chủ nghĩa Mác- Lênin quan niệm chính trị và kinh tế là những loại quan hệ
xã hội: Một bên là quan hệ giữa các tập đoàn xã hội (Nhóm xã hội, dân tộc, quốc
gia) xung quanh việc giành, giữ chính quyền, xây dựng thể chế (Tổ chức, cơ cấu,
chính sách) hoạt động của nhà nước đối với toàn bộ đời sống xã hội cũng như quan

hệ giữa người với người trong sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng, dựa trên
một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất; được biểu hiện một cách cụ thể qua
7


quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, tổ chức, quản lý lao động và phân phối;
trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò có tính quyết định đối với toàn bộ các quan
hệ kinh tế nói chung.
Thực chất của quan hệ chính trị là dựa trên các quan hệ kinh tế là cơ bản
nhamừ thực hiện lợi ích kinh tế. Thực tế có tính phổ biến của đời sống xã hội loài
người là tương ứng với trình độ các quan hệ kinh tế nhất định bao giờ cũng có một
hình thức chính trị nhất định. Kinh tế thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của chính trị.
Trong tác phẩm “Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và về những
sai lầm của các đồng chí Tơrôtxki và Bukharin”, trong phần kinh tế và chính trị.
Lênin viết:
“Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, tôi đã nhắc lại như vậy
trong bài nói chuyện của tôi…chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so
với kinh tế. Lập luận một cách khác đi, tức là quên mất những điều sơ đẳng của
chủ nghĩa Mác” [3, tr566].
Chính trị là kinh tế cô đọng lại thì yêu cầu đặt ra là chính trị phải đáp ứng
được những quy định khách quan của kinh tế, phải có những thể chế có khả năng
điều tiết và thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo hướng tiến bộ đồng thời khắc phục,
hạn chế những lực cản đối với sự vận động, phát triển của kinh tế. Nói cách khác
chính trị không phản ánh thụ động, mà phải phản ánh tích cực thì mới nắm bắt
được cái cốt lõi, cái tập trung của kinh tế.
Chủ nghĩa Mác- Lênin khi quan niệm về chính trị là sự phản ánh (biểu hiện)
tập trung của kinh tế thì cũng đồng thời chỉ ra tính độc lập tương đối và tác động
của chính trị đối với kinh tế. Ph. Ăngghen nhấn mạnh rằng:
“Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật…đều dựa trên sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng

lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế. Vấn đề hoàn toàn không phải là chỉ có
8


hoàn cảnh kinh tế mới là nguyên nhân, chỉ có nó là tích cực, còn tất cả những cái
còn lại chỉ là hậu quả thụ động” [12, tr.39].
Vị trí độc lập của chính trị đối với kinh tế thể hiện ở sự tác động của quyền
lực nhà nước đối với sự phát triển của kinh tế theo ba hướng sau: Có thể tác động
cùng chiều hướng, đồng thuận với sự phát triển của kinh tế. theo hướng tác động
này chính trị sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn; có thể chính trị tác động
ngược lại sự phát triển kinh tế, do đó có thể khiến cho nền kinh tế- xã hội của một
quốc gia bị suy thoái , khủng hoảng; Có thể chính trị gây cản trở sự phát triển kinh
tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát triển ở những hướng khác…
Ở xu hướng tác động thứ nhất, nguyên nhân là do chính trị từ chỗ phản ánh
tập trung đời sống kinh tế đã có những nhận thức vượt trước kinh tế, dự báo được
xu thể vận động, phát triển của các quan hệ kinh tế trong tương lai, hoạch định và
thực thi được các chính sách kinh tế đáp ứng đòi hỏi khách quan của quy luật kinh
tế. Thông qua các thể chế chính trị, từ tổ chức, cơ chế cho đến chính sách kinh tế,
xã hội, văn hoá và môi trường chính trị, có thể khởi dậy các tiềm lực kinh tế trở
thành các nguồn lực tháo gỡ những khó khăn, ách tắc, giải phóng- phát triển lực
lượng sản xuất. Bằng cách này chính trị đã tạo ra mối quan hệ tương thích giữa các
quan hệ sản xuất đang tồn tại với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất xã hội.
Ở hai xu hướng tác động sau, do chính trị không phản ánh tập trung kinh tế,
không có khả năng cô đọng các quan hệ kinh tế, cho nên mắc các sai lầm chủ quan,
duy ý chí, không phù hợp, thậm chí đi ngược lại sự vận động khách quan của quy
luật kinh tế. Trong những trường hợp này, thường chính trị bị bảo thủ, lỗi thời,
phản động’ hoặc chí ít là có những tổ chức, chính sách, kể cả cơ chế, không phản
ánh đúng yêu cầu của thực tiễn kinh tế. Hậu quả có thể gây ra sự suy thoái, khủng
hoảng, kinh tế chính trị, thậm chí làm sụp đổ cả hệ thống chính trị. Thực tiễn điều
này đã xảy ra, kéo theo sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các

nước Đông Âu.
9


Chủ nghĩa Mác- Lênin quan niệm “Chính trị không thể không giữ địa vị ưu
tiên so với kinh tế” [6, tr.42]. là xuất phát từ lôgic: Chính trị phản ánh tập trung
kinh tế, có vị trí độc lập so với kinh tế. Ph. Ăngghen nhiều lần khẳng định nhà
nước cũng là một sực mạnh kinh tế. Một nền chính trị ổn định, là một nhà nước
mạnh, có chiến lược, có sách lược đúng, chắc chắn sẽ quản lý kinh tế tốt và thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế. Luận điểm này được chứng thực rõ nhất trong những
thời kỳ chiến tranh và cách mạng, khi giành hoặc giữ chính quyền trở thành vấn đề
quan trọng nhất và được ưu tiên hàng đầu. Nó cũng được thể hiện rõ trong thời kỳ
suy thoái, khủng hoảng kinh tế- xã hội phải ưu tiên những quyết sách chính trị, để
đổi mới tư duy, thay đổi cách nghĩ, cách làm, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế…
Luận điểm này còn được thực tế chứng minh là đúng khi ở những hoàn cảnh đặc
biệt, phải biết hi sinh một bộ phận lợi ích kinh tế nhất định có tính trước mắt cho
lợi ích chính trị chung lâu dài là giữ vững thành quả chính trị đã đạt được của một
dân tộc, quốc gia.
Chính trị giữ vài trò hàng đầu so với kinh tế, do đó, ưu tiên cho chính trị là
ưu tiên cho chính trị là ưu tiên cho cho những vấn đề căn bản, quyết định cho sự
phát triển của bản thân kinh tế.
Ngày nay, vấn đề là làm thế nào để phát huy được vai trò lãnh đạo của chính
trị đối với kinh tế vẫn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các chủ thể chính trị.
Việc nhận thức và hiểu đúng luận điểm nà, sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc và nhận
thức đúng về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
1.3.2 Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, là vận mệnh thực tế của hàng
triệu con người.
Chủ nghĩa Mác- Lênin quan niệm:
“Trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội- cơ cấu này
là tất yếu phải do kinh tế mà ra, cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị

và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy” [12, tr .21].
10


Chính trị tập trung phản ánh các quan hệ kinh tế thù tất yếu cũng biểu hiện
tập trung các quan hệ của cơ cấu xã hội, trong đó cơ bản là cơ cấu giai cấp. Cho dù
phạm vi của chính trị có được mở rộng đến đâu chăng nữa thì về nguyên tắc, nó
cũng không thể bao quát được tất cả các quan hệ xã hội của từng cá nhân. Thực
chất của quan hệ chính trị là lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, giữa các tập đoàn lớn
trong xã hội, tức là giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội trong quá trình giành, giữ và
thực hiện quyền lực nhà nước. Bởi lẽ địa vị kinh tế, xã hội, văn hoá của các giai
cấp, bị quy định bởi mối quan hệ trong xã hội, từ quan hệ đối với tư liệu sản xuất,
tổ chức và quản lý lao động đến thu nhập, “Cách thức hưởng thụ sự thu nhập”
hay lối sống. Chính trị, nếu không xuất phát và không hướng vào giải quyết các
mối quan hệ này của các giai cấp, tầng lớp xã hội thì không thể nắm bắt được thực
trạng, xu thế vận động, phát triển của quyền lực chính trị trong xã hội, nhất là
quyền lực nhà nước.
Suy cho cùng, các qua hệ kinh tế không tác động ngay vào quan hệ chính trị,
mà trước tiên, tác động trực tiếp vào các quan hệ trong nội bộ mỗi tập đoàn và giữa
các tập đoàn lớn trong xã hội. Từ trong quan hệ kinh tế- xã hội trong nội bộ mỗi
tập đoàn và giữa các tập đoàn lớn mới phát sinh các vấn đề chính trị.
Do chính trị phản ánh tập trung của các quan hệ kinh tế và quan hệ giữa các
tập đoàn lớn trong xã hội cho nên, nó là vận mệnh thực tế của hàng triệu con
người.
Lênin cho rằng: “Quần chúng có hàng triệu, mà chính trị bắt đầu từ nới nào
có hàng triệu người, không phải nới có hàng nghìn người, mà ở đâu có hàng triệu
người thì ở đó mới có một chính trị nghiêm túc” [6, tr.36]. Và cũng do chính trị là
vận mệnh của thực tế của hàng triệu con người cho nên, nó có lôgíc khách quan
riêng, không phụ thuộc vào dự tính cá nhâ này hay cá nhân khác, của nhóm xã hội
mày hay nhóm xã hội khác.

11


1.3.3 Chính trị là sự tham gia vào các công việc của nhà nước, là vạch hướng
đi cho nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của nhà
nước và quan hệ giữa các quốc gia.
Chủ nghĩa Mác- Lênin quan niệm rằng, vấn đề trung tâm, then chốt trực tiếp
nhất trong chính trị là vấn đề quyền lực nhà nước. Đây là công cụ cơ bản nhất để
giải quyết các quan hệ kinh tế, các quan hệ giai cấp theo hướng có lợi cho lực
lượng cầm quyền. Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phát triển tới một giai đoạn
nhất định:
“Lúc mà xã hội đã phân thành giai cấp không thể điều hoà, lúc mà xã hội
không thể tồn tại được nếu không có một quyền lực tựa hồ như đứng trên xã hội và
tách rời xã hội đến một mức độ nào đo” [6,tr.26]. Nó nảy sinh từ nhu cầu phải
kiềm chế sự đối lập giai cấp, làm dịu bớt xung đột giai cấp và giữ cho sự xung đột
đó nằm trong vòng “trật tự”. Thông thường:
“Nhà nước là sản phẩm và là biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hoà được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách
quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được thì nhà nước xuất hiện.
Và ngược lại: Sự tồn tại của nhà nước chúng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là
không điều hoà được” [9, tr.33]
Hay: “Nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của giai cấp
thống trị về kinh tế và nhờ có nhà nước giai cấp đó cũng trở thành giai cấp thống
trị về chính trị” [12, tr.252].
Chủ nghĩa Mác- Lênin quan niệm rằng, những người xã hội chủ nghĩa phải
sử dụng nhà nước hiện đại và các thiết chế của nó vào cuộc đấu tranh để giải
phóng giai cấp công nhân. Họ chủ trương sử dụng nhà nước là một hình thức quá
độ đặc biệt từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hình thức quá độ này là một
nhà nước, đó là chuyên chính vô sản.
12



Cho nên chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai
cấp giữa giai cấp công nhân thành thị và lao động công nghiệp nói chung, với đông
đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (Tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí
thức…). Thực chất của chuyên chính vô sản không chỉ dùng bạo lực, cũng không
phải chủ yếu là bạo lực, mà là tính tổ chức và kỷ luật của đội ngũ tiên tiến những
người lao động, của đội tiên phong của họ đó là giai cấp công nhân.
Mục đích của chuyên chuyên chính vô sản là thiết lập chủ nghĩa xã hội, xoá
bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp, biến tất cả những thành viên trong xã hội
thành người lao động, tiêu diệt cơ sở của mọi tình trạng người bóc lột người. Mục
đích đó không thể đạt được ngay tức khắc, muốn thay thế phải có thời kỳ quá độ
lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, thực hiện chuyên chính vô sản
là thực thi quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, tức là
thực thi quyền lực của đại đa số thành viên trong xã hội. Vì thế, phải lôi cuốn được
tất cả những người lao động tham gia vào các công việc xã hội, công việc nhà
nước. Chìa khoá giải quyết vấn đề này:
“Không phải nghiên cứu những động cơ của các cá nhân riêng lẻ, dù đó là
những cá nhân suất sắc đi nữa, mà là nghiên cứu những động cơ đã lay chuyển
những khối quần chúng đông đảo, những dân tộc trọn vẹn, rồi đến mỗi giai cấp
trọn vẹn trong mỗi dân tộc; những động cơ thúc đẩy họ không phải đến chỗ tiến
hành những cuộc nổi dậy, nhất thời theo kiểu lửa rơm chóng tắt, mà đến chỗ tiến
hành những biến đổi lịch sử vĩ đại” [12, tr.21,-438].
Đồng thời: “Chú ý tìm cho ra và thử thách một cách hết sức nhẫn nại, hết
sức thận trọng những người thực sự có tài tổ chức, những người có bộ óc sáng
suốt và có bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn, những người vừa trung thành với chủ
nghĩa xã hội lại vừa có năng lực lặng lẽ (bất chấp sự hỗn loạn và ồn ào) tổ chức
công tác chung vững chắc và nhịp nhàng của một khối người to lớn trong phạm vi
13



tổ chức Xô viết. Chỉ có những người như thế, chúng ta mới đề lên làm những chức
vụ lãnh đạo” [6, tr.36]
1.3.4 Chính trị là một khoa học, nghệ thuật và là văn hoá trong tư tưởng,
quan hệ, hoạt động và ứng xử chính trị.
Lênin cho rằng: “Một người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị:
trước hết phải dạy a, b, c cho họ đã. Không thế, thì không thể có chính trị; không
thế, thì chỉ có những tin đồn đại, những chuyện nhảm nhí, những chuyện hoang
đường, những thiên kiến, chứ không phải là chính trị” [6, tr.218]
Chính trị là một khoa học và là một nghệ thuật, vì nó có những lô gíc khách
quan riêng, không phụ thuộc vào những dự tính cá nhân hay toan tính của các
nhóm, phái trong xã hội. Chính trị chỉ là khoa học, nghệ thuật khi xây dựng được
mối quan hệ đúng đắn giữa con người và chính trị để không tuyệt đối hoá chính trị
hoặc không cắt xén chính trị thành những âm mưu, thủ đoạn. Chủ nghĩa xã hội
phát triển càng cao thì càng giải phóng con người khỏi chính trị. Lôgíc này được
hình thành và quy định bởi vận mệnh của hàng triệu con người. bởi quan hệ xã hội
giữa các tập đoàn lớn trong xã hội, bởi sự vận động và phát triển của các quan hệ
kinh tế.
Chính trị là một khoa học và nghệ thuật, như Lênin chỉ rõ: “Không phải tự
trên trời rơi xuống” mà đòi hỏi sự cố gắng đào tạo những lãnh tụ chính trị, những
đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo. Một trong những mục đích
của văn hoá chính trị xã hội chủ nghĩa là đào tạo nên những con người cộng sản
chân chính, có khả năng thắng được sự dối trá và các thiên kiến; có khả năng giúp
đỡ những người lao động khắc phục được tư tưởng, quan niệm, tâm lý, thói quen,
tập quán, cũ kỹ, lạc hậu do chế độ cũ để lại. Phải tổ chức phong trào thi đua để xây
dựng những điển hình, những tấm gương cụ thể, sinh động trong thực tế cuộc sống.
Theo Lênin, các lãnh tụ của công nhân không phải là những thiên thần,
không phải là thánh, không phải là anh hùng mà cũng là người như tất cả mọi
14



người khác. Họ cũng có khuyết điểm. Đảng sửa chữa cho họ. Vì thế xây dựng văn
hoá chính trị xã hội chủ nghĩa, Lênin thường nhấn mạnh phải chống những tệ nạn
xã hội, những thói hư, tật xấu nảy sinh trong hàng ngũ những người đại diện chính
quyền. Đó là tệ hối lộ, tệ quan liêu, mệnh lệnh, giấy tờ; là những thói xấu như
quanh co, kiêu ngạo, lên mặt cộng sản, thói cẩu thả, tắc trách, thói ngồi không, lười
biếng…
Lênin quan niệm, xây dựng nền văn hoá chính trị xã hội chủ nghĩa phải trên
cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc nền văn hoá, khoa học, kỹ thuật của xã hội cũ
để lại, nhất là của chủ nghĩa tư bản; phải quý trọng trí thức tư sản:
“Phải bao quanh lấy họ bằng bầu không khí tình đồng chí…và làm như thế
nào để họ cùng sát cánh đi với chính quyền công nông” [8, tr.39].
Điều quan trọng là phải học tập họ, nhưng không máy móc, rập khuôn, mà
phải trên cơ sở chủ động, sáng tạo với nghị lực và cách thức làm ăn mới, nhằm
đem lại kết quả tốt hơn so với chuyên gia tư sản và những cái của chủ nghĩa tư bản
để lại.

CHƯƠNG 2
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC–LÊNIN
VÀO ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 Tiêu chí và phương pháp vận dụng những quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin về chính trị ở Việt Nam hiện nay
2.1.1 Về tiêu chí:
15


Thực tiễn công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
đang đặt ra yêu cầu phải vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin nói
chung và quan điểm Mác-Lênin về chính trị nói riêng. Trước yêu cầu của thực tiễn
cuộc sống đã nảy sinh vấn đề: Có thể vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,

trong đó có các quan điểm về chính trị được không? Nếu có thì tiêu chí vận dụng
phát triển sẽ như thế nào?
Vể câu hỏi thứ nhất đã có rất nhiều câu trả lời của bản thân các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác-Lênin và của Hồ Chí Minh. Ph. Ăngghen viết: “Toàn bộ thế giới
quan của Mác không phải là một học thuyết, mà là một phương pháp. Nó không
đem lại những giáo điều có sẵn, mà đem lại điểm xuất phát cho việc tiếp tục
nghiên cứu và phương pháp cho việc nghiên cứu đó”. Điều này có thể lĩnh hội ra
rằng: hệ thống các học thuyết của chủ nghĩa Mác bao gồm ba phân hệ: học thuyết
triết học, học thuyết xã hội chủ nghĩa và học thuyết kinh tế học; học thuyết xã hội
chủ nghĩa là kết luận có tính phương pháp luận mà học thuyết triết học và học
thuyết kinh tế nhất định đưa đến. Cả học thuyết kinh tế và học thuyết xã hội chủ
nghĩa đều là sự chứng minh và vận dụng sáng tạo phương pháp luận duy vật biên
chứng. Chúng phản ánh hai phát hiện lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin: quy luật vận
động, phát triển của tư bản và quy luật vận động, phát triển của xã hội loài. Do đó
có thể coi toàn bộ thế giới quan của Mác là một phương pháp chứ không phải một
giáo điều.
Theo tinh thần này, Lênin xác định: “Chúng ta không hề coi lý luận của chủ
nghĩa Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng
ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội
chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành
lạc hậu với cuộc sống”.
Từ thực tế vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã đúc kết là cần phải nâng cao tu dưỡng về chủ nghĩa Mác16


Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác-Lênin mà tổng
kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích những đặc điểm của Đảng ta, để dần
dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, chứ không phải để học
thuộc lòng từng câu, từng chữ và áp dụng một cách máy móc. “Khi vận dụng thì
bổ sung, làm phong phú lý luận bằng những kết luận rút ra từ trong thực tiễn cách

mạng nước ta”.
Việc vận dụng sáng tạo các quan điểm Mác-Lênin về chính trị là phù hợp và
cũng là đòi hỏi của bản thân chủ nghĩa Mác-Lênin với tính chất là thế giới quan và
phương pháp giải thích gắn liền với cải biến thực tiễn.
Tiêu chí vận dụng sáng tạo các quan điểm Mác-Lênin về chính trị trong
điều kiện hiện nay gồm:
Một là, xuất phát từ thực tiễn và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chí xác định tính đúng đắng của quan điểm Mác-Lênin về
chính trị. Thực tiễn đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đặt ra yêu
cầu phải tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm Mác-Lênin về chính
trị. Do đó, phải xuất phát từ thực tiễn đó và việc vận dụng sáng tạo là nhằm đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn đó. Nếu trái lại, thì không có cơ sở để kiểm chứng động
cơ, mục đích của việc vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm chủ nghĩa MácLênin về chính trị.
Tiêu chí này xuất phát từ lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa
Mác-Lênin, trong đó nhấn mạnh rằng, lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy
cũng phải bắt đầu từ đó; sự vận động phát triển tiếp tục của tư duy chẳng qua là sự
phản ánh quá trình lịch sử nếu một hình thức trìu tượng và nhất quán về lý luận.
Quá trình tư duy là sự phản ánh hiện thực đã được uốn năn, nhưng uốn nắn theo
những yêu cầu mà bản thân thực tiễn đã cung cấp và quy định sự vận dụng sáng
tạo các quy luật này trong từng hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Ph. Ăngghen nhấn
mạnh: “Chủ nghĩa không phải là một học thuyết, mà là một cuộc hành động. Đó
17


xuất phát không phải từ những ngyên tắc mà từ những sự thật. Những người cộng
sản không lấy thứ triết học này nọ, mà lấy toàn bộ quá trình lịch sử trước đây và
đặc biệt là những kết quả thực tế trước mắt tại các nước văn minh làm tiền đề cho
họ”.
Nói khác đi, tiêu chí này phản ánh ngyên tắc thống nhất lý luận với thực tiễn
với tính chất đặc trưng là phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn đổi

mới trong lĩnh vực chính trị nói riêng và thực tiễn đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam nói chung đang thúc đẩy sự xuất hiện những cách làm khác
nhau, ý kiến khác nhau. Do đó, phải bám sát vào thực tiễn, nắm chắc những
khuynh hướng vận động, phát triển từ thực tiễn, tổng kết thực tiễn, để vận dụng
sáng tạo quan điểm Mác-Lênin về chính trị, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thực tiễn quy định việc vận dụng sán tạo các quan điểm Mác-Lênin về
chính trị trong những hoàn cảnh cụ thể của đời sống chính trị; kiểm chứng những
quan điểm này từ kinh nghiệm thực tế; liên hệ các quan điểm này không chỉ với
đời sống chính trị, mà cả đời sống kinh tế xã hội, văn hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Thực tiễn cũng đã giúp
tìm ra mối liên hệ giữa quan điểm Mác-Lênin về chính trị với truyền thống chính
trị của dân tộc và tinh hoa chính trị trong thế giới hiện đại.
Hai là, tính hệ thống và phát triển.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay khi chủ nghĩa xã hội hiện thực đang ở thời
kỳ thoái trào sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu,
đã và đang diễm ra xuyên tác cũng như nhận thức lại và phát triển những quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin tại nhiều nước trên thế giới. Trước những biến thái
phức tạp như vậy, quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghiã Mác-Lênin, cần phải đảm
bảo tính khách quan tư tưởng của các nhà kinh điển. Muốn vậy, phải coi trọng tiêu
chí về hệ thống và phát triển của các quan điểm Mác-Lênin về chính trị.
18


Nhìn chung tính hệ thống và phát triển của các quan điểm Mác-Lênin về
chính trị trước tiên thể hiện ở chỗ: chính trị phản ánh tập trung các quan hệ kinh tế
và các quan hệ xã hội, trong đó cơ bản là quan hệ giai cấp. Tức là phạm vi phản
ánh của nó bao quát toàn bộ hạ tầng cơ sở của xã hội. Và cơ bản nó thể hiện ở chỗ:
các quan điểm Mác-Lênin về chính trị xuất phát và nhằm vào phạm trù trung tâm
của chính trị là quyền lực nhà nước, để phản ánh, dự báo và vận dụng những vấn

đề có tính quy luật tác động vào quá trình vận động, phát triển của toàn bộ lĩnh vực
chính trị trong đời sống xã hội.
Tính hệ thống trong quan điểm Mác-Lênin về chính trị đòi hỏi khi vận dụng
và phát triển các quan điểm này không được quy các ý kiến về một trường hợp cụ
thể thành quan điểm chung của chủ nghĩa Mác-Lênin về chính trị. Và cũng không
được quy những quan điểm liên quan đến việc dành chính quyền của giai cấp công
nhân thành quan điểm tổ chức quyền lực khi giai cấp công nhân đã dành được
chính quyền và tổ chức xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Tính hệ thống đòi hỏi phải dựa vào những quan điểm nền tảng của chủ nghĩa
Mác-Lênin về chính trị để vận dụng sáng tạo. Bởi lẽ, những quan điểm nền tảng
này có tính phổ quát cao, ít bị biến đổi bởi điều kiện lịch sử - cụ thể theo không
gian (quốc gia, châu lục) và thời gian. Chúng tạo nên tính ổn định tương đối của hệ
thống quan điểm Mác-Lênin về chính trị.
Cùng với tính hệ thống thì các quan điểm của Mác-Lênin cũng có tính phát
triển. Nhận thức là một quá trình từ nông đến sâu để ngày càng tiếp cận chân lý.
Nhiều quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin cũng được chính các ông
hoàn thiện từng bước phù hợp với điều kiện thực tiễn và tiến trình nhận thức. Để
đạt được những quan điểm nền tảng, có tính phổ biến về chính trị không thể không
trải qua các nấc thang phát triển từ thấp đến cao. Tính phát triển các quan điểm
Mác-Lênin về chính trị tất nhiên phải dựa vào tính hệ thống của các quan điểm này
19


và tính phát triển không phá vỡ mối quan hệ nội tại giữa các quan điểm với nhau.
Chẳng hạn, việc phát triển quan điểm chuyên chính vô sản không thể không dựa
vào mối quan hệ nội tại giữa các quan điểm này với các quan điểm đấu tranh giai
cấp, liên minh giai cấp, Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức chính trị dân chủ
xã hội chủ nghĩa, v.v… Nhưng tính hệ thống của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung
và các quan điểm của Mác-Lênin về chính trị nói riêng có tính chất tầng nấc hay

tính chất đa tầng. Mỗi tầng nấc này có động thái riêng tương đối, cho nên có tính
mở - tính phát triển. Ví dụ, động thái các quan điểm chính trị trong triết học MácLênin (triết lý chính trị) khác tương đối với động thái các quan điểm chính trị trong
chủ nghĩa xã hội khoa học (chính trị - xã hội và cập nhật thực tiễn). Tính phát triển
các quan điểm Mác-Lênin về chính trị là khách quan, vì thực tiễn mà các quan
điểm này phản ánh, luôn có tính lịch sử - cụ thể, và quan trọng hơn, là luôn vận
động, phát triển.
Ba là, căn cứ vào kinh nghiệm vận dụng các quan điểm Mác-Lênin về chính
trị trong nước và quốc tế, trước hết là kinh nghiệm vận dụng, phát triển các quan
điểm Mác-Lênin về chính trị của Đảng và nhân dân ta.
Kinh nghiệm là những hiểu biết được tích lũy từ thực tế hàng ngày. Tri thức
kinh nghiệm tuy chưa thể đi sâu vào bản chất các sự vật, nhưng do tính trải
nghiệm, tính kiểm chứng thực tế của nó, cho nên nó là chỗ dựa khá tin cậy để vận
dụng, phát triển sáng tạo quan điểm Mác-Lênin về chính trị. Chẳng hạn, kinh
nghiệm “chết người” của tư duy chính trị M.X. Goócbachốp trong những năm tiến
hành cải tổ ở Liên Xô là một bài học vô giá trong quá trình vận dụng, phát triển
sáng tạo các quan điểm Mác-Lênin về chính trị hiện nay.
Nhìn chung kinh nghiệm tương đồng với thực tiễn; kinh nghiệm là một phần
của thực tiễn; nó cũng là kết quả của quá trình tổng kết của thực tiễn. Nhưng ở
chừng mực nào đó, nét khác biệt của kinh nghiệm so với thực tiễn ở chỗ; kinh
nghiệm là bài học cuả thực tiễn, là điểm “ghi nhớ” của thực tiễn.
20


Dựa vào kinh nghiệm quá khứ có thể đánh giá được thực trạng, phân tích
được xu hướng vận dụng, phát triển sáng tạo của các quan điểm chính trị, nhằm
hạn chế những sai lầm chủ quan những bột phát trính trị có thể phát sinh nếu chỉ
dựa vào những luận giải lý luận. Chính trị là vận mệnh thực tế của hàng triệu con
người, cho nên việc vận dụng, phát triển sáng tạo các quan điểm Mác-Lênin về
chính trị đòi hỏi phải có những lý luận và những kinh nghiệm thực tế trong và
ngoài nước.

Tất nhiên, trước hết và chủ yếu phải dựa vào những kinh nghiệm vận dụng,
phát triển sáng tạo các quan điểm Mác-Lênin về chính trị của Đảng và nhân dân ta.
Thực tế cho thấy, chúng ta có nhiều năm kinh nghiệm đa dạng, phong phú và có
những điển hình mà tiêu biểu là Hồ Chí Minh, trong việc vận dụng sáng tạo các
quan điểm Mác-Lênin về chính trị. Những kinh nghiệm trong cách mạng dân chủ
nhân dân, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung – bao cấp, trong thời kỳ đổi mới, là
bằng chứng về khả năng rộng lớn của Đảng, nhân dân ta trong quá trình vận dụng,
phát triển sáng tạo quan điểm Mác-Lênin về chính trị. Chúng ta có kinh nghiệm
vận dụng, phát triển quan điểm chính trị Mác-Lênin; ví dụ, xây dựng Đảng là đảng
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam; mở
rộng hệ thống chuyên chính vô sản thành hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa; từng
bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; từng bước xây dựng, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa v.v…
2.1.2 Về phương hướng:
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng xác định: “toàn bộ tổ chức và hoạt động của
hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Do đó phương hướng chung là vận dụng, phát
triển các quan điểm Mác-Lênin về chính trị, nhằm đổi mới, kiện toàn tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị theo hướng dân chủ hóa, để phát huy đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam.
21


Các phương hướng bao gồm:
Một là, vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đường lối
chính trị như cương lĩnh, nghị quyết, chiến lược, chính sách, pháp luật nhằm đổi
mới, hoàn thiện quy trình hoạch định, triển khai, thực hiện đường lối chính trị của
Đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phương
hướng này để đảm bảo sự đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị nói riêng và sự
nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, diễn ra trên cơ sở

đường lối chính trị của Đảng.
Hiện nay trọng tâm vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
đường lối chính trị là vấn đề thể chế hóa đường lối chính trị thành luật, thành chủ
trương, chính sách ở cấp quốc gia và địa phương và thực hiện đường lối chính trị
trong thực tế. Đường lối chính trị của Đảng được thể chế hóa thành luật, thành
chính sách công, và được công dân cũng như tất cả các thiết chế nhà nước và xã
hội thực hiện nghiêm minh, là tiêu chí xác định năng lực cầm quyền của Đảng
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Hai là, vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước xã
hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa, để nhà nước thực sự là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trọng tâm hiện nay là hướng vào vận dụng, phát triển các quan điểm MácLênin về nhà nước đại diện cho liên minh của giai cấp công nhân và khối đại đoàn
kết toàn dân trên lập trường cách mạng khoa học và nhân đạo của giai cấp công
nhân; về các thể chế lập pháp, hành pháp, tư pháp, về chức năng chính trị, kinh tế,
xã hội, văn hóa của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế; về phương thức quản lý bằng luật
pháp và nhân dân tham gia vào các công việc của nhà nước thông qua các hình
thức dân chủ đại diện và trực tiếp; về cách thức chuyên chính với các thế lực thù
địch trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật…
22


Ba là, vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng đảng
cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trọng tâm hiện nay là vận dụng, phát triển các quan điểm Mác-Lênin về
nguyên tắc xây dựng Đảng với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân và
nhân dân ta; về bộ máy của Đảng cầm quyền trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hộ chủ nghĩa; về tiêu chuẩn, quyền hạn, trách nhiệm của đảng viên
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp…

Bốn là, vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về các tổ chức
chính trị - xã hội, để hình thành xã hội công dân xã hội chủ nghĩa trong mối quan
hệ với xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trọng tâm hiện nay là hướng vào vận dụng, phát triển các quan điểm MácLênin về các tổ chức và các phong trào chính trị - xã hội; về các đoàn thể xã hội,
văn hóa, các tổ chức dân lập tự quản; về mối quan hệ giữa các tổ chức, đoàn thể,
phong trào chính trị - xã hội, chính trị - văn hóa với xã hội công dân nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Năm là, vận dụng các quan điểm Mác-Lênin về văn hóa chính trị xã hội chủ
nghĩa.
Trọng tâm hiện nay là vận dụng các quan điểm Mác-Lênin về mối quan hệ
giữa con người với chính trị dưới chủ nghĩa xã hội; về đào tạo, bồi dưỡng con
người chính trị, lãnh tụ chính trị vừa hồng vừa chuyên; về mối quan hệ chính trị tư
bản chủ nghĩa và chính trị xã hội chủ nghĩa; về tư tưởng, tập quán chính trị, truyền
thống dân tộc và văn hóa chính trị…
Như vậy, các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chính trị nói riêng và
chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, mới trở thành kim chỉ nam cho hành động cải
biến xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong
khuôn khổ tiểu luận này, tác giả chỉ trình bày việc vận dụng quan điểm chủ nghĩa
23


Mác-Lênin về chính trị vào đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng văn hóa chính
trị ở Việt Nam hiện nay.
2.2 Thành tựu đổi mới hệ thống chính trị
2.2.1 Đổi mới tư duy của hệ thống chính trị
Đại hội VI (1986) đã phân tích sâu sắc cả về thành tựu và hạn chế, nhấn
mạnh sai lầm về sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước trong bố trí cơ
cấu kinh tế, trong sự phân phối lưu thông, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa… và cho
rằng: “Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”.

Những sai lầm đó bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ
chức công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân…
Để khắc phục một trong những sai lầm trong tư duy chính trị ở thời kỳ trước
đổi mới là rơi vào tình trạng duy tâm chủ quan, duy ý chí khi hoạch định một số
chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI nhấn
mạnh rằng, phải nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc: thực hiện “dân
biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”.
Từ cuối năm 1988, công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
ở Đông Âu ngày càng chao đảo. Ở các nước này, việc thực hiện đa nguyên về
chính trị, đa đảng đối lập, phủ nhận quá khứ cách mạng, chỉa mũi nhọn phê phán
vào Đảng cộng sản, vào chủ nghĩa Mác-Lênin và tung biết bao quan điểm, tư
tưởng xa lạ khiến tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng và xã hội ngày
càng hỗn loạn… Trong bối cảnh đó, tại hội nghị trung ương 6 khóa VI Đảng ta đã
nêu ra năm nguyên tắc đổi mới, trong đó giữa vững định hướng Xã hội chủ nghĩa
là nguyên tắc đầu tiên; đổi mới chứ không đổi màu. Việc khẳng định nguyên tắc đó
đã góp phần ngăn chặn có hiệu quả nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VII năm 1991 thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định hai nội dung cơ bản: 1) Quan niệm
24


tổng quát nhất về chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng; 2) Những phương
hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Trong
hoàn cảnh khủng hoảng chủ nghĩa xã hội thế giới ngày càng trầm trọng, các nước
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã sụp đổ, Liên Xô cũng đang đứng trước ngưỡng cửa
của sự tan rã, việc Đảng ta neeu lên quan niệm về chủ nghĩa xã hội và phương
hướng xây dựng củ nghĩa xã hội ở nước ta là rất kịp thời và có ý nghĩa chiến lược
sâu sắc.
Để sự lãnh đạo của Đảng thực sự là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình đổi mới, Đảng phải kiên trì

phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận cách mạng và khoa học. Xuất phát từ nhận
thức mới về vấn đề này, Cương lĩnh của Đảng khẳng định vị trí tư tưởng Hồ Chí
Minh trong toàn bộ quá trình phát triển cách mạng Việt Nam: “Đảng lấy Chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1 năm 1994) tiếp
tục phát triển và cụ thể hóa tư tưởng của Đại hội VII, xác định mục tiêu tổng quát
của quá trình đổi mới riêng, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói
chung, là phấn đấu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trên ý nghĩa
nhất định, có thể xem đây là khái quát ngắn gọn, súc tích về xã hội xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Hội nghị cũng chỉ ra những nguy cơ mà đất
nước cần phải vượt qua. Đó là: tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và thế giới; chênh lệch hưỡng xã hội chủ nghĩa; tệ tham nhũng
và quan liêu;m “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Hội nghị đưa ra quan
điểm về công nghiệp hóa đất nước trong thời kỳ đổi mới… Quan niệm về chủ
nghĩa xã hội từng bước được bổ sung, phát triển trong các kỳ đại hội tiếp theo.
Nhiệm vụ của nước ta trong giai đoạn hiện nay là “độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
25


×