Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thực trạng và kiến thức thực hành trong công tác quản lý chất thải y tế tại bệnh viện lao và bệnh phổi hải phòng năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 87 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................................... 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................................................. 3
1.1. Các khái niệm ................................................................................................................. 3
1.2. Thực trạng quản lý chất thải y tế trên thế giới ................................................................ 3
1.3. Thực trạng quản lý chất thải y tế tại Việt Nam ............................................................... 6
1.4. Tác hại và nguy cơ của chất thải y tế đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng trên
thế giới ................................................................................................................................. 13
1.5. Thực trạng tình hình vệ sinh môi trường ngành y tế TP Hải Phòng ............................. 17
1.6. Kiến thức, thực hành về quản lý chất thải y tế.............................................................. 18
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................... 22
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu ............................................................... 22
2.2. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 22
2.3. Kỹ thuật thu thập số liệu ............................................................................................... 26
2.4. Vật liệu nghiên cứu ....................................................................................................... 29
2.5. Thu thập và xử lý số liệu .............................................................................................. 29
2.6. Đạo đức trong nghiên cứu............................................................................................ 30
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................................................. 32
3.1. Thực trạng quản lý chất thải y tế .................................................................................. 32
3.2. Thực trạng kiến thức, thực hành về quản lý chất thải y tế ............................................ 49
Chương 4 BÀN LUẬN ....................................................................................................... 58
4.1. Thực trạng quản lý chất thải y tế .................................................................................. 58
4.2. Kiến thức, thực hành về quản lý chất thải y tế.............................................................. 68
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 73
1. Thực trạng quản lý chất thải y tế ở Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Hải Phòng ................. 73
2. Kiến thức, thực hành trong công tác quản lý chất thải y tế tại Bệnh viện Lao và Bệnh
Phổi Hải Phòng………………………………………………………………………….....74
KIẾN NGHỊ........................................................................................................................ 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 76



DANH MỤC BẢNG
Bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1. Chất thải y tế theo giường bệnh trên thế giới . ....................................... 4
Bảng 1.2. Chất thải y tế phát sinh theo giường bệnh tại Việt Nam ...................... 6
Bảng 1.3. Các thông số ô nhiễm trong nước thải ................................................... 11
Bảng 1.4. Các loại nhiễm khuẩn, tác nhân gây bệnh và đường lây nhiễm .....15
Bảng 2.1. Giá trị giới hạn các thông số và nồng độ chất ô nhiễm. ..................... 28
Bảng 3.1. Kết quả công tác quản lý hành chính về quản lý CTYT .................... 32
Bảng 3.2. Lượng chất thải rắn y tế phát sinh tại bệnh viện .................................. 34
Bảng 3.3. Kết quả về tiêu chuẩn, số lượng dụng cụ bao bì đựng và xe vận
chuyển chất thải rắn trong bệnh viện ......................................................................... 35
Bảng 3.4. Kết quả công tác phân loại chất thải rắn y tế ........................................ 38
Bảng 3.5. Kết quả công tác thu gom chất thải rắn y tế tại các khoa phòng...... 40
Bảng 3.6. Kết quả về vận chuyển chất thải rắn y tế từ các khoa phòng đến nơi
lưu giữ ................................................................................................................................ 41
Bảng 3.7. Kết quả về nơi lưu giữ chất thải rắn y tế ................................................ 42
Bảng 3.8. Kết quả công tác vận chuyển chất thải rắn ra ngoài bệnh viện ........ 44
Bảng 3.9. Kết quả về xử lý/tiêu hủy chất thải rắn y tế........................................... 44
Bảng 3.10. Kết quả công tác thu gom, xử lý nước thải y tế ................................. 46
Bảng 3.11. Kết quả công tác thu gom, xử lý chất thải khí.................................... 47
Bảng 3.12. Kết quả phân tích nước thải bệnh viện................................................. 48
Bảng 3.13. Nhân lực trực tiếp quản lý chất thải y tế tại bệnh viện..................... 49
Bảng 3.14. Tỉ lệ nhân viên y tế và vệ sinh viên được tập huấn quy chế quản lý
chất thải y tế ..................................................................................................................... 50
Bảng 3.15. Tình hình thực hiện quy chế quản lý chất thải y tế ........................... 51



Bảng 3.16. Kiến thức của nhân viên y tế và vệ sinh viên về phân loại chất thải
y tế theo nhóm chất thải. ............................................................................................... 52
Bảng 3.17. Kiến thức của nhân viên y tế và vệ sinh viên về mã màu dụng cụ
đựng chất thải y tế ........................................................................................................... 53
Bảng 3.18. Kiến thức về phân loại chất thải y tế của nhân viên y tế và vệ sinh
viên theo nhóm chất thải và mã màu .......................................................................... 54
Bảng 3.19.Liên quan giữa học tập với kiến thức về phân loại chất thải y tế của
nhân viên y tế và vệ sinh ................................................................................55
Bảng 3.20. Kiến thức của nhân viên y tế và vệ sinh viên về tác hại của chất
thải y tế đối với sức khỏe con người .......................................................................... 56
Bảng 3.21. Kiến thức của bệnh nhân với thực hành bỏ rác đúng quy định...... 57


DANH MỤC HÌNH
STT

Tên hình

Trang

Hình 3.1. Nhân lực trực tiếp quản lý chất thải y tế tại bệnh viện ....................... 48
Hình 3.2. Tỉ lệ nhân viên y tế và vệ sinh viên được tập huấn quy chế quản lý
chất thải y tế .................................................................................................................... 49
Hình 3.3. Kiến thức của nhân viên y tế và vệ sinh viên về phân loại chất thải y
tế theo nhóm chất thải ................................................................................................... 51
Hình 3.4. Kiến thức của nhân viên y tế và vệ sinh viên về mã màu dụng cụ
đựng chất thải y tế .......................................................................................................... 52
Hình 3.5. Kiến thức về phân loại chất thải y tế của nhân viên y tế và vệ sinh

viên theo nhóm chất thải và mã màu .......................................................................... 54
Hình 3.6. Kiến thức của bệnh nhân với thực hành bỏ rác đúng quy định......... 56


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe của nhân dân là nhiệm vụ
quan trọng của ngành Y tế. Nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh và chăm
sóc sức khỏe của nhân dân, các cơ sở y tế đã từng bước nâng cao, đổi mới và
hoàn thiện chất lượng khám chữa bệnh. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động
các cơ sở y tế đặc biệt là các bệnh viện đã thải ra môi trường một lượng chất
thải đáng kể.
Theo báo cáo của Cục Quản lý môi trường Bộ Y tế, tính đến năm
2012, cả nước có 13.511 cơ sở y tế các loại. Tổng lượng chất thải rắn phát
sinh từ các cơ sở y tế khoảng 450 tấn/ngày, trong đó có 47 tấn/ngày là
CTYTNH; lượng CT lỏng khoảng 150.000m3/ngày.đêm. Ước tính đến năm
2015, CTR y tế là 600 tấn/ngày và năm 2020 khoảng trên 800 tấn/ngày; lượng
nước thải y tế phải xử lý lên tới mức 300.000m3/ngày.đêm. Tỉ lệ bệnh viện có
hệ thống xử lí nước thải là 54.4%. Hiện nay chỉ có 1/3 lượng rác thải y tế ở
Việt Nam được đốt bằng lò đốt chưa có hệ thống xử lí khí thải, công suất lò
đốt không hợp lí, gây ô nhiễm môi trường và hiệu quả sử dụng chưa cao [9],
[10].
Thành phố Hải Phòng là một trong những thành phố có tốc độ phát
triển kinh tế và mật độ dân số cao, là trung tâm văn hóa giáo dục, y tế lớn của
cả nước. Ngành y tế Hải Phòng phát triển mạnh mẽ, đáp ứng tốt nhu cầu chăm
sóc sức khỏe cho người dân trên địa bàn Thành phố và dân cư các vùng lân
cận. Hàng ngày lượng rác thải từ các hoạt động y tế là khá lớn.
Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Hải Phòng là bệnh viện có quy mô 250
giường bệnh, mỗi năm bệnh viện tiếp nhận điều trị trên 2.500 lượt bệnh nhân

khám và điều trị. Trong quá trình hoạt động Bệnh viện đã phát sinh ra một


2

lượng lớn chất thải rắn y tế, tuy nhiên công việc thu gom, quản lý và xử lý
chất thải y tế tại Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Hải Phòng còn nhiều hạn chế.
Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do CTYT, ngày
01/10/2013, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1788/QĐ-TTg về việc phê
duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
đến năm 2020; bao gồm 10 bệnh viện gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
chưa hoàn thành xử lí triệt để theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg, trong đó
có bệnh viện Lao và bệnh phổi Hải Phòng.
Để đánh giá thực trạng công tác bảo vệ môi trường của Bệnh viện Lao
và Phổi Hải Phòng trong thời gian qua, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề
tài: “Thực trạng và kiến thức thực hành trongcông tác quản lý chất thải y
tế tại bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Hải Phòng năm 2014” với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng công tác thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý
chất thải y tế tại Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Hải Phòng năm 2014.
2. Mô tả kiến thức, thực hành trong công tác quản lý chất thải y tế tại
bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Hải Phòng năm 2014.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các khái niệm
Chất thải y tế là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường
và tác động xấu lên sức khỏe con người. Khi nhu cầu khám chữa bệnh của

con người càng tăng thì rác thải y tế cũng không ngừng phát triển. Theo Quy
chế Quản lý CTYT của Bộ Y tế ban hành tại Quyết định số 43/QĐ-BYT ngày
30/11/2007, quy định [6]:
Chất thải y tế là vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được thải ra từ các cơ sở
y tế bao gồm chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường.
Chất thải y tế nguy hại là CTYT chứa yếu tố nguy hại cho sức khoẻ con
người và môi trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng xạ, dễ cháy, dễ
nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc tính nguy hại khác nếu những chất thải này không
được tiêu huỷ an toàn.
Quản lý chất thải y tế là hoạt động quản lý việc phân loại, xử lý ban đầu,
thu gom, vận chuyển, lưu giữ, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy
CTYT và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
1.2. Thực trạng quản lý chất thải y tế trên thế giới
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về quản lý và xử lý chất thải y tế.
Nghiên cứu tại thành phố Irbid, Jordan tại 3 bệnh viện đã sử dụng mô hình
thống kê toán học để tính lượng chất thải rắn phát sinh tại 3 bệnh viện. Lượng
chất thải phát sinh được bằng kg/bệnh nhân /ngày /giường bệnh cho các khoa
như khoa phẫu thuật, khoa nội, khoa sản [19].
Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy mỗi ngày các bệnh viện thải ra 6600 tấn
chất thải và xấp xỉ 85% chất thải là lượng chất thải rắn không độc hại như
thức ăn, bìa cứng và chất dẻo. Việc xử lý các chất thải này có thể dẫn tới các


4

vấn đề môi trường đối với cộng đồng. Do vậy, để giảm thiểu lượng chất thải
phải xử lý cần có chương trình giảm lượng chất thải ở các bệnh viện [53].
Các nghiên cứu đã quan tâm đến nhiều lĩnh vực như tình hình phát
sinh; phân loại CTYT; quản lý CTYT (biện pháp làm giảm thiểu chất thải, tái
sử dụng chất thải, xử lý chất thải, đánh giá hiệu quả của các biện pháp xử lý

chất thải...); tác hại của CTYT đối với môi trường, sức khoẻ; biện pháp làm
giảm tác hại của CTYT đối với sức khỏe cộng đồng, sự đe dọa của chất thải
nhiễm khuẩn tới sức khỏe cộng đồng, ảnh hưởng của nước thải y tế đối với
việc lan truyền dịch bệnh; những vấn đề liên quan của y tế công cộng với
CTYT; tổn thương nhiễm khuẩn ở y tá, hộ lý và người thu gom rác; nhiễm
khuẩn bệnh viện, nhiễm khuẩn ngoài bệnh viện đối với người thu nhặt rác, vệ
sinh viên và cộng đồng; người phơi nhiễm với HIV, HBV, HCV ở nhân viên
y tế [43], [45], [49], [58].
1.2.1. Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Khối lượng CTYT phát sinh thay đổi theo khu vực địa lý, theo mùa và
phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như: cơ cấu bệnh tật, dịch bệnh, loại,
quy mô bệnh viện, phương pháp và thói quen của NVYT trong việc khám,
chữa bệnh và chăm sóc bệnh nhân và thải rác của bệnh nhân ở các khoa
phòng [25].
Bảng 1.1. Chất thải y tế theo giường bệnh trên thế giới [7].
Tổng lượng

CTYT nguy hại

CTYT(kg/GB)

(kg/GB)

Bệnh viện trung ương

4,1 - 8,7

0,4 - 1,6

Bệnh viện tỉnh


2,1 - 4,2

0,2 - 1,1

Bệnh viện huyện

0,5 - 1,8

0,1 - 0,4

Tuyến bệnh viện


5

1.2.2. Phân loại chất thải y tế
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (1992), ở các nước đang
phát triển có thể phân CTYT thành các loại sau: Chất thải không độc hại (chất
thải sinh hoạt gồm chất thải không bị nhiễm các yếu tố nguy hại); chất thải
sắc nhọn (truyền nhiễm hay không truyền nhiễm); chất thải nhiễm khuẩn
(khác với các vật sắc nhọn nhiễm khuẩn); chất thải hoá học và dược phẩm
(không kể các loại thuốc gây độc tế bào); chất thải nguy hiểm khác (chất thải
phóng xạ, các thuốc độc tế bào, các bình chứa khí có áp suất cao) [5], [66].
Ở Mỹ phân loại chất thải y tế thành 8 loại: Chất thải cách ly (chất thải
có khả năng truyền nhiễm mạnh); Những nuôi cấy và dự trữ các tác nhân
truyền nhiễm và chế phẩm sinh học liên quan; Những vật sắc nhọn được dùng
trong điều trị, nghiên cứu...; Máu và các sản phẩm của máu; Chất thải động
vật (xác động vật, các phần của cơ thể...); Các vật sắc nhọn không sử dụng;
Các chất thải gây độc tế bào; Chất thải phóng xạ [66].

Tuy nhiên theo kết quả nghiên cứu tại các bệnh viện nhỏ ở Ấn Độ cho
thấy phần lớn các chất thải y tế không được phân loại thành chất thải lây
nhiễm hay không lây nhiễm, mà chứa chung trong các container hở [48].
1.2.3. Quản lý chất thải y tế
Theo Tổ chức Y tế thế giới, có 18 - 64% cơ sở y tế chưa có biện pháp
xử lý chất thải đúng cách. Tại các cơ sở y tế, 12,5% công nhân xử lý chất thải
bị tổn thương do kim đâm xảy ra trong quá trình xử lý CTYT. Tổn thương
này cũng là nguồn phơi nhiễm nghề nghiệp, với máu phổ biến nhất, chủ yếu
là dùng hai tay tháo lắp kim và thu gom tiêu huỷ vật sắc nhọn. Có khoảng
50% số bệnh viện trong diện điều tra vận chuyển CTYT đi qua khu vực bệnh
nhân và không đựng trong xe thùng có nắp đậy [68].
Việc xử lý chất thải y tế hầu như đã được giải quyết ở các nước phát
triển với công nghệ đáng tin cậy như đốt rác bằng lò vi sóng. Dựa trên việc


6

đánh giá vòng đời cho thấy lò vi ba có hiệu suất sinh thái đạt hiệu quả tốt
nhất, tiếp theo là công nghệ hấp khử trùng [57]. Các nhà khoa học ở các nước
Châu Á đã tìm ra một số phương pháp xử lý chất thải để thay thế: như
Philipin đã áp dụng phương pháp xử lý khí, mùi của rác bằng các thùng rác có
nắp đậy; Nhật Bản đã khắc phục vấn đề khí thải độc hại thoát ra từ các thùng
đựng rác có nắp kín bằng việc gắn vào các thùng có những thiết bị cọ rửa;
Indonexia chủ trương nâng cao nhận thức trước hết cho các bệnh viện về mối
nguy hại của CTYT gây ra để bệnh viện có biện pháp lựa chọn phù hợp [43].
1.3. Thực trạng quản lý chất thải y tế tại Việt Nam
1.3.1. Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Theo kết quả khảo sát của Vụ Điều trị - Bộ Y tế tại 24 bệnh viện năm
1998, cho thấy tỉ lệ phát sinh chất thải y tế theo từng tuyến, loại bệnh viện, cơ
sở y tế rất khác nhau.

Bảng 1.2. Chất thải y tế phát sinh theo giường bệnh tại Việt Nam
Tổng lượng CTYT

CTYT nguy hại

(kg/GB)

(kg/GB)

Bệnh viện trung ương

0,97

0,16

Bệnh viện tỉnh

0,88

0,14

Bệnh viện huyện

0,73

0,11

Tuyến bệnh viện

Trong cùng một bệnh viện, các khoa khác nhau sẽ có lượng chất thải

rắn y tế phát sinh khác nhau, trong một bệnh viện đa khoa, khoa hồi sức cấp
cứu, khoa sản, khoa ngoại có lượng CTYT phát sinh lớn nhất [23], [8].
Tính riêng cho 36 bệnh viện thuộc Bộ Y tế quản lý, theo khảo sát năm
2009, tổng lượng CTR y tế phát sinh trong 1 ngày là 31,68 tấn, trung bình là
1,53 kg/giường/ngày. Lượng chất thải phát sinh tính theo giường bệnh cao
nhất là bệnh viện Chợ Rẫy 3,72 kg/giường/ngày, thấp nhất là bệnh viện Điều


7

dưỡng - Phục hồi chức năng Trung Ương và bệnh viện Tâm thần Trung Ương
2 phát sinh 0,01 kg/giường/ngày. Lượng CTR y tế phát sinh trong ngày khác
nhau giữa các bệnh viện tùy thuộc số giường bệnh, bệnh viện chuyên khoa
hay đa khoa, các thủ thuật chuyên môn được thực hiện tại bệnh viện, số lượng
vật tư tiêu hao được sử dụng [26].
1.3.2. Thành phần và phân loại chất thải y tế
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, trong thành phần CTYT có khoảng 10%
chất thải nhiễm khuẩn và khoảng 5% chất thải độc hại như chất phóng xạ,
chất gây độc tế bào và các hóa chất độc hại khác phát sinh trong quá trình
chẩn đoán, điều trị [68].
Căn cứ vào các đặc điểm lý, hoá, sinh học và tính chất nguy hại, chất
thải trong các cơ sở y tế được phân thành 5 nhóm dựa theo Quyết định số
43/2007/QĐ- BYT ngày 30/11/ 2007 của Bộ Y tế về quản lý CTYT [6]:
* Chất thải lây nhiễm: Nhóm này gồm các loại chất thải:
- Chất thải sắc nhọn (loại A): Là chất thải có thể gây ra các vết cắt
hoặc chọc thủng, có thể nhiễm khuẩn, bao gồm: bơm kim tiêm, đầu sắc nhọn
của dây truyền, lưỡi dao mổ, đinh mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh thuỷ tinh vỡ
và các vật sắc nhọn khác sử dụng trong các hoạt động y tế.
- Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (loại B): Là chất thải bị thấm
máu, thấm dịch sinh học của cơ thể và các chất thải phát sinh từ buồng bệnh

cách ly.
- Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao (loại C): Là chất thải phát sinh
trong các phòng xét nghiệm như: bệnh phẩm và dụng cụ đựng, dính bệnh
phẩm.
- Chất thải giải phẫu (loại D): Bao gồm các mô, cơ quan, bộ phận cơ
thể người, rau thai, bào thai và xác động vật thí nghiệm.
* Chất thải hoá học nguy hại: Nhóm này gồm các loại chất thải sau:


8

- Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng.
- Chất hoá học nguy hại sử dụng trong y tế.
- Chất gây độc tế bào, gồm: vỏ các chai thuốc, lọ thuốc, các dụng cụ
dính thuốc gây độc tế bào và các chất tiết từ người bệnh được điều trị bằng
hoá trị liệu.
- Chất thải chứa kim loại nặng: thuỷ ngân (từ nhiệt kế, huyết áp kế
thuỷ ngân bị vỡ, chất thải từ hoạt động nha khoa), cadimi (từ pin, ắc quy), chì
(từ pin tấm gỗ bọc chì hoặc vật liệu tráng chì sử dụng trong ngăn tia xạ từ các
khoa chẩn đoán hình ảnh, xạ trị).
* Chất thải phóng xạ: Gồm các chất thải phóng xạ rắn, lỏng và khí phát
sinh từ các hoạt động chẩn đoán, điều trị, nghiên cứu và sản xuất. Danh mục
thuốc phóng xạ và hợp chất đánh dấu dùng trong chẩn đoán và điều trị ban
hành kèm theo Quyết định số 33/2006/QĐ-BYT ngày 24 tháng 10 năm 2006
của Bộ trưởng Bộ Y tế.
* Bình chứa áp suất: Bao gồm bình đựng ôxy, CO2, bình ga, bình khí
dung. Các bình này dễ gây cháy, gây nổ khi thiêu đốt.
* Chất thải thông thường: là chất thải không chứa các yếu tố lây nhiễm,
hoá học nguy hại, phóng xạ, dễ cháy, nổ, bao gồm:
- Chất thải sinh hoạt từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh cách ly).

- Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như các chai lọ
thuỷ tinh, chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong gẫy xương
kín. Những chất thải này không dính máu, dịch sinh học và các chất hoá học
nguy hại.
- Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính: giấy, báo, tài liệu,
vật liệu đóng gói, thùng các tông, túi nilon, túi đựng phim.
- Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh.


9

1.3.3. Quản lý chất thải y tế
Ở nước ta CTYT đã được quản lý bằng hệ thống các văn bản pháp luật,
nhưng việc thực hiện chưa nghiêm túc theo quy định, hầu hết CTYT ở các
bệnh viện chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường. Nhiều
bệnh viện không có hệ thống thu gom, xử lý nước thải, hoặc có thì nhiều hệ
thống cống rãnh đã bị hư hỏng, xử lý xuống cấp; rác thải không được phân
loại, chôn lấp thủ công hoặc đốt thủ công tại chỗ. Thực trạng như sau [16],
[8], [ 27], [2]:
* Về quản lý rác thải:
Công tác thu gom, lưu trữ CTR y tế nói chung đã được quan tâm bởi
các cấp từ Trung Ương đến địa phương, thể hiện ở mức độ thực hiện quy định
ở các bệnh viện khá cao.
Chất thải y tế phát sinh từ các cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sự
quản lý của Bộ Y tế, phần lớn được thu gom và vận chuyển đến các khu vực
lưu giữ sau đó được xử lý tại các lò thiêu đốt nằm ngay trong cơ sở hoặc ký
hợp đồng vận chuyển và xử lý đối với các cơ sở xử lý chất thải đã được cấp
phép tại địa bàn cơ sở khám chữa bệnh đó.
Đối với các cơ sở khám chữa bệnh ở địa phương do các Sở Y tế quản
lý, công tác thu gom, lưu giữ và vận chuyển CTR chưa được chú trọng, đặc

biệt là công tác phân loại và lưu giữ chất thải tại nguồn (chất thải y tế thông
thường, chất thải y tế nguy hại...). Trong vận chuyển CTR y tế, chỉ có 53% số
bệnh viện sử dụng xe có nắp đậy để vận chuyển chất thải y tế nguy hại; 53,4%
bệnh viện có mái che để lưu giữ CTR... đây là những yếu tố để đảm bảo an
toàn cho người bệnh và môi trường. Thống kê mức độ phân loại, thu gom chất
thải trong các bệnh viện; có 95,6% bệnh viện đã thực hiện phân loại chất thải
trong đó 91,1% đã sử dụng dụng cụ tách riêng vật sắc nhọn. Theo báo cáo
kiểm tra của các tỉnh và nhận xét của đoàn kiểm tra liên Bộ, còn có hiện


10

tượng phân loại nhầm chất thải, một số loại chất thải thông thường được đưa
vào chất thải y tế nguy hại gây tốn kém trong việc xử lý [16].
Theo báo cáo của Viện Y học Lao động và Vệ sinh Môi trường năm
(2006), Kết quả khảo sát 834 bệnh viện [35]: có 63,6% bệnh viện sử dụng túi
nhựa làm bằng nhựa PE, PP. Chỉ có 29,3% sử dụng túi có thành dày theo
đúng quy chế. Chất thải y tế đã được chứa trong các thùng đựng chất thải.
Tuy nhiên, các bệnh viện có các mức độ đáp ứng yêu cầu khác nhau, chỉ có
một số ít bệnh viện có thùng đựng chất thải theo đúng quy chế (bệnh viện
trung ương và bệnh viện tỉnh).
Hầu hết ở các bệnh viện (90,9%) CTR được thu gom hàng ngày, một số
bệnh viện có diện tích chật hẹp nên gặp khó khăn trong việc thiết kế lối đi
riêng để vận chuyển chất thải. Chỉ có 53% số bệnh viện chất thải được vận
chuyển trong xe có nắp đậy. Có 53,4% bệnh viện có nơi lưu giữ chất thải có
mái che, trong đó có 45,3% đạt yêu cầu theo quy chế quản lý chất thải y tế
[35].
* Về nước thải
Mỗi bệnh viện có thể thải ra khoảng 0.4 – 0.95 m3 nước thải trên một
giường bệnh trong ngày, tùy thuộc vào khả năng cấp nước, dịch vụ bệnh viện,

số lượng bệnh nhân và người nhà… Tuy nhiên, nồng độ chất thải rắn lơ lửng
(SS), chất hữu cơ (như BOD5), và các chất dinh dưỡng (như Nitơ, phốt pho)
trong nước thải bệnh viện có thể không cao như nước thải đô thị. Nồng độ
BOD5 thay đổi từ 80-180 mg/l [11].
Kết quả kiểm tra của Bộ Y tế (2004) tại 175 bệnh viện ở 14 tỉnh, thành
phố thì có đến 31,5% bệnh viện không có hệ thống thoát nước thải, chủ yếu ở
các bệnh viện tuyến huyện. Trong số bệnh viện có hệ thống thoát nước thì có
tới 47,4% bệnh viện sử dụng hệ thống thoát nước chung gồm cả nước mưa,
nước thải sinh hoạt, nước thải y tế; chỉ có 21,1% bệnh viện có hệ thống thoát


11

nước thải riêng biệt; 26,3% bệnh viện có hệ thống thoát nước thải kín; 31,4%
hở và 42,3% vừa kín vừa hở [14].
Nhiều nghiên cứu về chất lượng của nước thải bệnh viện đã được thực
hiện và các phát hiện chính được tóm tắt trong bảng 1.3 dưới đây:
Bảng 1.3. Các thông số ô nhiễm trong nước thải [11]

TT

Bệnh
viện

pH

DO H2S
BOD5
mg/ mg/
mg/l

l
l

1

P
tổng
mg/l

N
tổng
mg/l

SS
mg/l

Theo tuyến

1.2

Trung
ương
Tỉnh

1.3

Ngành

1.1


COD
mg/l

6.97 1.89 4.05 119.8

263.2

2.555

46.1

218.6

6.91 1.34 7.48 163.9

314.4

1.71

38.9

210

7.12 1.59 4.84 139.2

279.9

1.44

38.9


246

2

Theo chuyên khoa

2.1

Đa khoa

6.91

5.61 147.6

301.4

1.57

37.2

238

2.2

Lao

6.72 1.63 2.98 143.3

307.3


1.15

46.1

222.2

2.3

Phụ sản

7.21 1.33 7.73

321.9

0.99

53.2

251.3

1.3

167

* Về xử lý khí thải bệnh viện: Chỉ có một số bệnh viện lớn có hệ thống xử lý
khí thải hoặc có hốt hút hơi khí độc tại các khoa/phòng Xét nghiệm, X quang,
còn đa phần các bệnh viện chưa có hệ thống xử lý khí thải.
1.3.4. Biện pháp xử lý chất thải y tế
*Về xử lý chất thải rắn y tế:

Theo báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam (2004) [1], Việt Nam đã
xây dựng được 43 lò đốt CTYT hiện đại, nâng công suất xử lý lên 28.840
kg/ngày. Công suất thiết kế của một lò đốt khoảng 40kg/h - 50 kg/h. Tuy
nhiên đại đa số các lò đốt chưa sử dụng hết công suất, khi so sánh tổng công
suất của các lò đốt với lượng CTYT phát sinh, đã cho thấy, các lò đốt được


12

lắp đặt đã đáp ứng đủ khối lượng phát sinh tại thời điểm. Qua đó đã chứng tỏ
rằng vẫn còn một khối lượng lớn CTYT phát sinh chưa được thu gom và xử
lý đúng cách. Thực trạng như sau:
- Thiêu đốt chất thải rắn y tế:
+ Thiêu đốt CTYT bằng lò đốt rác hiện đại: Tại Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh đã xử lý CTYT tập trung với công nghệ nhập của nước ngoài.
Một số bệnh viện đã lắp đặt lò đốt chất thải y tế Hoval MZ2 của Thuỵ Sĩ đảm
bảo an toàn về môi trường. Theo báo cáo của Bộ Y tế (2009), cả nước đã có
gần 200 lò đốt CTYT (chiếm 73,3%). Trong số các bệnh viện có lò đốt, ở
tuyến trung ương có 5/5 hoạt động thường xuyên và có bảo dưỡng định kỳ
theo đúng quy định; tuyến tỉnh là 79/106 lò. Thiết kế cơ bản của các lò đốt
hiện có đều thiếu hệ thống xử lý khí thải, gây ô nhiễm môi trường, công suất
lò đốt sử dụng chưa hợp lý [16].
+ Thiêu đốt CTYT bằng lò thủ công hoặc đốt ngoài trời: Hiện nay,
phần lớn các bệnh viện trong cả nước, nhất là bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến
huyện thiêu đốt CTYT bằng các lò đốt thủ công không có hệ thống xử lý khí
thải hoặc đốt ngoài trời. Nghiên cứu 6 bệnh viện tuyến tỉnh năm 2003 cho
thấy: chỉ có 2/6 bệnh viện xử lý rác bằng lò đốt chuyên dụng, còn 4/6 bệnh
viện chôn lấp hoặc sử dụng lò đốt thủ công và tuyến huyện là 97/201 lò đốt
[50].
- Chôn lấp chất thải rắn y tế:

Theo báo cáo của Bộ Y tế (2009), đến năm 2006, cả nước vẫn còn
26,7% bệnh viện đang thực hiện chôn lấp CTYT hoặc đốt thủ công ngoài trời, chủ
yếu tập trung ở các bệnh viện tuyến huyện và một số bệnh viện tuyến tỉnh [16].
* Về xử lý nước thải bệnh viện:
Hiện có khoảng 100-150 trong số 1100 bệnh viện (hay khoảng 10-15%
số bệnh viện) có trạm XLNT bệnh viện đưa vào hoạt động. Tại các bệnh viện


13

như BV Quân đội 108, BV Bạch Mai, BV Hai Bà Trưng, Hà Nội (Xây dựng
mới), BV Việt Tiệp, BV Nhi TP Hải Phòng, BV Đa khoa TP Huế, BV Nhi
Thuỵ Điển Hà Nội và BV Uông Bí, BV Nhi Thành phố Hồ Chí Minh ... có
trạm XLNT với công nghệ xử lý sinh học hiếu khí bằng bùn hoạt tính hoặc
kết hợp xử lý bằng phương pháp hóa học, Viện Khoa học Việt Nam nay là
Viện Khoa học và Công nghệ Quốc Gia đã xây dựng và vận hành trạm XLNT
bằng hóa học và sinh học [11].
1.4. Tác hại và nguy cơ của chất thải y tế đối với môi trường và sức khỏe
cộng đồng trên thế giới
Chất thải bệnh viện tồn tại ở ba dạng rắn, lỏng, khí và chúng có khả
năng chuyển từ pha này sang pha khác hoặc được cố định vào một pha nào đó
do quá trình biến đổi vật lý, hoá học và sinh học [29]. Mặc dù lượng chất thải
bệnh viện so với tổng lượng thải sản sinh từ sản xuất công nghiệp và sinh
hoạt,… không lớn, nhưng xét về mặt độc hại và nguy hiểm (đặc biệt là rác
thải y tế và nước thải từ khâu điều trị bệnh, phóng xạ…) thì chúng gây ô
nhiễm môi trường đáng kể, ảnh hưởng đến sức khoẻ và quá trình phát triển
lâu dài của con người [37].
CTYT là môi trường có khả năng chứa đựng các loại vi sinh vật gây
bệnh, các chất độc hại như hóa chất, chất gây độc tế bào, chất phóng xạ...Các
tác nhân gây bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua các đường: Qua

các vết da bị xây xước hoặc bị thương, qua đường hô hấp (do hít phải), qua
đường tiêu hóa, tác động gián tiếp do ô nhiễm môi trường, hoặc tiếp xúc với
các tác nhân trung gian như ruồi, muỗi, chuột... Tất cả những người tiếp xúc
với CTYTNH đều là đối tượng có nguy cơ bị tác động bởi CTYT, bao gồm:
Cán bộ y tế và nhân viên vệ sinh bệnh viện; Những người thu gom phế liệu;
Bệnh nhân và người nhà bệnh nhân; Người dân sống xung quanh bệnh viện.


14

Ước tính cứ 04 kg rác thải y tế lại có 01 kg rác đã bị nhiễm vi khuẩn nguy
hiểm [41].
1.4.1. Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với môi trường
Một số nghiên cứu đã cho thấy ô nhiễm môi trường chủ yếu là môi
trường nước và không khí [28], [14].
Theo tài liệu thu thập của Trần Thị Minh Tâm (2007): kết quả điều tra
quản lý CTYT tại một số bệnh viện huyện ngoại thành Hà Nội của Bùi Văn
Trường, Nguyễn Tất Hà (1998) cho thấy: các chỉ tiêu trong nước thải như
COD, BOD5, NH4+, Coliform và Fecal coliform ở mức độ ô nhiễm nặng so
với tiêu chuẩn cho phép [28].
Đào Ngọc Phong và cộng sự (1996) nghiên cứu về ô nhiễm môi trường
và khả năng lây truyền bệnh do nước thải bệnh viện gây ra ở Hà Nội, cho thấy
có hiện tượng tăng trội nhiều bệnh ở các khu dân cư tiếp xúc với nước thải
bệnh viện nhất là các bệnh đường tiêu hoá [24].
Rác không được thu dọn kịp thời sẽ trở thành nơi phát sinh ruồi, muỗi,
chuột, gián, ô nhiễm môi trường không khí do phát sinh mùi hôi thối khó
chịu. Các trung gian truyền bệnh này sẽ tạo ra một nguy cơ lan tràn bệnh dịch
nhanh chóng từ các bệnh viện, từ CTYT không được xử lý đúng cách. Cũng
như vậy, nước thải bệnh viện không được xử lý đảm bảo yêu cầu vệ sinh cũng
sẽ là nguồn phát tán các mầm bệnh vào các nguồn nước (nước mặt, nước

ngầm) [5].
1.4.2. Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với sức khoẻ cộng đồng
1.4.2.1. Nguy cơ và tác động của vật sắc nhọn
Các vật sắc nhọn không chỉ gây ra vết xước và thường xuyên đâm
thủng da mà còn làm nhiễm khuẩn tại các vị trí gây xước và chọc thủng.
Người ta đặc biệt quan tâm tới bơm kim tiêm vì nó tạo ra phần chất thải chính
là các vật sắc nhọn và thường bị nhiễm khuẩn bởi máu của người bệnh. Ước
tính mỗi năm trên thế giới sử dụng 12.000 bơm tiêm. Hàng năm có khoảng 8 -


15

16 triệu người viêm gan B; 2,3 - 4,7 triệu người viêm gan C và 8.000 - 16.000
người nhiễm HIV do tái sử dụng bơm kim tiêm không tiệt trùng [13].
1.4.2.2. Nguy cơ và tác động của chất thải nhiễm khuẩn
Bảng 1.4. Các loại nhiễm khuẩn, tác nhân gây bệnh và đường lây nhiễm [13]
STT Dạng nhiễm khuẩn
1

Tác nhân gây bệnh

Nhiễm khuẩn đường Vi khuẩn tiêu hoá: Vibrio,
tiêu hoá

2

Nhiễm khuẩn hô hấp

3


Cholera, trứng giun

Chất truyền
Phân và chất nôn

Vi khuẩn lao, vi rút sởi, Chất tiết đường hô
cầu khuẩn

hấp, nước bọt

Nhiễm khuẩn mắt

Herpes

Chất tiết ở mắt

4

Nhiễm khuẩn da

Phế cầu khuẩn

Mủ

5

Bệnh than

Trực khuẩn than


Chất tiết qua da

6

AIDS

HIV

7

Nhiễm khuẩn huyết

Tụ cầu

Máu

8

Viêm gan A

Vi rút viêm gan A

Phân

9

Viêm gan B và C

Vi rút viêm gan B và C


Máu và dịch cơ thể

Máu, dịch tiết
sinh dục

Chất thải nhiễm khuẩn có thể chứa hàng loạt những vi sinh vật gây
bệnh. Hiện nay có tới trên 1.000 loại vi khuẩn, 200 loại vi rút, nấm đã được
biết đến gây nguy hại cho sức khoẻ con người qua các đường dưới đây: xâm
nhập vào cơ thể qua các vết xước trên da, qua niêm mạc, do ăn uống, hít thở.


16

1.4.2.3. Nguy cơ và tác động của chất thải hoá học và dược phẩm
Rất nhiều hoá chất và dược phẩm dùng trong các cơ sở y tế là chất
nguy hại (gây độc, dễ cháy, gây sốc phản vệ, độc tính di truyền). Chúng có
thể gây độc cho những người tiếp xúc lần đầu hoặc thường xuyên tiếp xúc
như tổn thương da hoặc bỏng…
Các dược sĩ, bác sĩ gây mê, điều dưỡng, kỹ thuật viên, cán bộ hành
chính tiếp xúc với các loại hoá chất lỏng bay hơi, dạng phun sương và các
dạng dung dịch khác.
1.4.2.4. Nguy cơ và tác động của chất thải là thuốc gây độc tế bào
Những nghiên cứu trên động vật đã chứng tỏ rằng ở liều lượng cao
nhiều loại thuốc gây ung thư và đột biến tế bào, một số gây quái thai, nhiều
thuốc gây khó chịu và kích thích tại chỗ sau khi tiếp xúc với da và niêm mạc.
Bất kỳ chất thải gây độc tế bào nào, nếu đào thải bừa bãi vào môi
trường có thể gây ra các biến đổi về sinh thái học, vì vậy cần có biện pháp
trong việc vận chuyển và tiêu huỷ các chất gây độc tính di truyền [3].
1.4.2.5. Nguy cơ và tác động của chất thải phóng xạ
Những bệnh do các chất phóng xạ gây nên được xác định bởi liều

lượng và cường độ lây nhiễm. Nó có thể gây ra hàng loạt các dấu hiệu như
đau đầu, buồn nôn, ngủ gà. Những người làm công tác xử lý các nguồn phóng
xạ có hoạt tính cao cũng có thể bị nhiều tổn thương nghiêm trọng như cắt cụt
một phần của cơ thể, vì vậy những chất thải này cần phải được xử lý nghiêm
ngặt đúng quy định [3].
Những tai nạn nghiêm trọng bởi các chất thải bệnh viện bị nhiễm
phóng xạ đã được ghi nhận bởi các cơ quan truyền thông quốc tế ở thành phố
Brasilia năm 1998, có 4 người chết vì hội chứng phóng xạ cấp tính và 28
người bị bỏng phóng xạ nặng [5].


17

1.5. Thực trạng tình hình vệ sinh môi trường ngành y tế TP Hải Phòng
* Về rác thải
Theo khảo sát của Sở Y tế Hải Phòng năm 2012 [27]: Tổng số giường
bệnh trên địa bàn thành phố Hải Phòng có hơn 7.600 giường bệnh, mỗi ngày
các cơ sở y tế trong Thành Phố phát sinh khoảng hơn 7 tấn chất thải y tế,
trong đó có khoảng 1,05 tấn chất thải y tế nguy hại (chiếm 15%). Lượng chất
thải y tế phát sinh trung bình là 1,0 kg/giường bệnh/ngày, trong đó chất thải
nguy hại khoảng 0,18 kg/giường bệnh/ngày. Lượng chất thải y tế nguy hại của
các bệnh viện trong Thành Phố thay đổi từ 0,06 – 0,23 kg/giường bệnh/ngày.
* Về nước thải:
Theo khảo sát của Sở Y tế Hải Phòng năm 2012 [27]:
- Hiện trạng các công trình xử lý nước thải tại địa bàn Thành Phố:
+ Trạm xử lý nước thải của bệnh viện của BV đa khoa Hữu Nghị Việt
Tiệp thành phố Hải Phòng được đầu tư năm 2002 công suất 600m3/ngày đêm
theo công nghệ V69 hiện nay vẫn đang hoạt động đáp ứng yêu cầu nhưng
cũng đã xuống cấp.
+ Hệ thống xử lý nước thải của BV Đa khoa Kiến An, BV Ngô Quyền

được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước năm 2004 sử dụng công
nghệ V69 công suất 350m3/ngđ và 200m3/ngđ. Hệ thống hiện vẫn đang hoạt
động, định kỳ đã được các cơ quan chức năng đánh giá chất lượng nước sau
xử lý đạt tiêu chuẩn.
+ Trạm xử lý nước thải của BV Trẻ em thành phố Hải Phòng được
Cộng hòa liên bang Đức đầu tư từ những năm 80, đến năm 2002 được cải tạo,
nâng cấp theo công nghệ V69, công suất 350m3/ngàyđêm. Hiện nay, đã xuống
cấp chất lượng xử lý không đạt yêu cầu nên Bệnh viện đã không còn vận
hành, chỉ bơm tiêu nước chống úng. Tuyến ống thu gom đã hỏng hóc một số
chỗ tự thấm ra môi trường xung quanh.


18

+ Trạm xử lý nước thải của bệnh viện của BV Lao và Bệnh Phổi Thành
phố Hải Phòng được đầu tư năm 2004 công suất 100m3/ngđ theo công nghệ
hóa sinh học hiện nay đã xuống cấp, chất lượng nước thải đầu ra không đạt
tiêu chuẩn, cở sở vẫn còn đang nằm trong danh sách cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng theo Quyết định số 1788/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế
hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm
2020; bao gồm 10 bệnh viện gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chưa
hoàn thành xử lí triệt để theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg, trong đó có
bệnh viện Lao và bệnh phổi Hải Phòng.
1.6. Kiến thức, thực hành về quản lý chất thải y tế
Các chuyên gia môi trường cho rằng nguyên nhân chính gây trở ngại
cho công tác quản lý môi trường ở các cơ sở y tế là nhận thức của NVYT và
cộng đồng về quản lý CTYT còn hạn chế; kiến thức về quản lý chất thải còn
yếu; định hướng công nghệ chưa rõ ràng; chưa có sự đầu tư đúng mức cũng
như các cơ chế về tài chính chưa hợp lý để tạo điều kiện làm tốt công việc xử
lý CTYT và công tác kiểm tra, giám sát chưa được chú trọng [25].

1.6.1. Kiến thức, thực hành của cán bộ, nhân viên y tế về quản lý chất thải
y tế
Trong quản lý CTYT, yếu tố con người là rất quan trọng. Cho dù có hệ
thống xử lý chất thải có hiện đại nhưng nếu các cán bộ y tế, những người liên
quan trực tiếp đến công tác quản lý, xử lý chất thải và cộng đồng không nhận
thức rõ tác hại và tầm quan trọng của CTYT đối với công tác bảo vệ môi
trường và sức khoẻ thì hệ thống đó hoạt động cũng không hiệu quả.
Qua kết quả nghiên cứu tại 6 bệnh viện đa khoa tỉnh của Đinh Hữu
Dung (2003) cho thấy: phần lớn những người được phỏng vấn biết được sự
nguy hại của chất thải lâm sàng, còn những chất thải khác số người biết chỉ
<50%, đặc biệt còn tới 8,8 - 8,9% không biết loại CTNH. Có tới 79,8 - 92,1%
cho rằng đối tượng dễ bị ảnh hưởng của CTYT là NVYT, còn bệnh nhân là


19

đối tượng rất cần quan tâm để tránh các nguy cơ của chất thải thì chỉ có
26,6% [14].
Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Minh Tâm (2007) tại 11 bệnh viện
tuyến huyện tỉnh Hải Dương cho thấy, có từ 43,5% đến 55,8% số cán bộ,
NVYT trả lời không đúng hoặc không biết về quy định mã màu sắc của dụng
cụ đựng CTYT. Phần lớn cán bộ, NVYT đều biết được những tác hại của
CTYT, được biết đến nhiều nhất là khả năng lan truyền bệnh (96,8%), đối
tượng bị ảnh hưởng bởi CTYT đươc biết đến nhiều nhất là bác sỹ, điều
dưỡng, hộ lý [28].
1.6.2. Nguồn lực cho công tác quản lý chất thải
1.6.2.1. Cơ sở pháp lý
Ở nước ta CTYT đã được quản lý bằng hệ thống các văn bản pháp luật
do Quốc hội, Chính phủ ban hành và hàng loạt các văn bản quản lý, hướng
dẫn thực hiện của ngành Y tế. Gồm một số văn bản sau:

- Luật Bảo vệ môi trường và các Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật.
Điều 39, Luật Bảo vệ môi trường 2005 đã đưa ra các quy định về bảo vệ môi
trường trong bệnh viện và các cơ sở y tế.
- Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT ngày 14/4/2011 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường Quy định về Quản lý chất thải nguy hại.
- Quyết định số 1788/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch xử lý triệt
để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020; bao gồm
10 bệnh viện gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chưa hoàn thành xử lí
triệt để theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg, trong đó có bệnh viện Lao và
bệnh phổi Hải Phòng.
- Bộ Y tế đã ban hành các văn bản quy định về quản lý, xử lý CTYT
và thường xuyên điều chỉnh quy chế cho phù hợp với xu thế phát triển. Từ
năm 1999, đã ban hành riêng quy chế quản lý CTYT, đến 2007, quy chế này


20

đã được điều chỉnh để phù hợp với tình hình cấp bách hiện nay về quản lý
CTYT (Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ Y tế).
Ngoài ra còn nhiều các văn bản quy định, hướng dẫn khác đối với công tác
quản lý CTYT như: tiêu chuẩn khí thải lò đốt CTYT, phí bảo vệ môi trường
đối với nước thải …
1.6.2.2. Về nhân lực
Tại các bệnh viện quy mô lớn, Bệnh viện tuyến trung ương như Bạch
Mai, Việt Đức, Bệnh viện Lao và Bệnh phổi trung ương và một số bệnh viện
tuyến tỉnh đều có khoa chống nhiễm khuẩn, có đội ngũ cán bộ được đào tạo
chính quy về quản lý chất thải. Còn hầu hết các bệnh viện, nhất là bệnh viện
tuyến huyện việc thực hiện Quy chế quản lý chất thải đều chưa đầy đủ và
không thường xuyên. Hoạt động giám sát nhà nước về công tác quản lý
CTYT còn chưa đầy đủ, năng lực giám sát và điều tiết còn hạn chế, đội ngũ

thanh tra còn hạn chế, chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe [5].
1.6.2.3. Về kinh phí và trang thiết bị xử lý chất thải
Việc đầu tư kinh phí cho xử lý chất thải tại các cơ sở y tế còn gặp rất
nhiều khó khăn. Các cơ sơ y tế phần lớn là các đơn vị sự nghiệp, không có
khả năng tự cân đối kinh phí đầu tư các công trình xử lý chất thải. Kinh phí
cho xử lý chất thải chưa được tính vào chi phí đầu giường bệnh nên khó khăn
trong việc duy trì hoạt động xử lý chất thải.
Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi là bệnh viện chuyên khoa, năm 2014 có
quy mô công suất là 250 giường bệnh. Kết quả khám chữa bệnh: tổng số lần
khám bệnh 116.208 lượt, số BN điều trị nội trú 2.853 lượt, số BN điều trị
ngoại trú 2.000 lượt, số lượng xét nghiệm 323.186 lượt. Do đó lượng chất thải
phát sinh bao gồm chất thải sinh hoạt và CTYTNH sẽ gây ảnh hưởng đến môi
trường là rất lớn.


21

Với những lý do như vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này tại
Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Hải Phòng để đánh giá công tác bảo vệ môi
trường tại đây sau khi có quyết định Quyết định số 1788/QĐ-TTg về việc phê
duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
đến năm 2020.


×