Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

Tiểu luận hoàn thiện chính sách phát triển hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2020 ở nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 178 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Việc phát triển sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) có vai
trò quan trọng đối với việc phát triển kinh tế- xã hội (KT-XH) của Việt Nam và các
nước đang phát triển, các nước có thu nhập thấp. Ngành TCMN đòi hỏi ít vốn cho
sản xuất, giá trị thực thu của hàng TCMN xuất khẩu rất cao do sản xuất chủ yếu
bằng nguyên liệu trong nước. Phát triển sản xuất hàng TCMN xuất khẩu góp phần
đa dạng hóa việc làm ở nông thôn, sử dụng các nguồn lực tại chỗ, tạo nhiều việc
làm và tăng thu nhập cho người lao động nông thôn.
Đối với Nam Định, là một tỉnh nông nghiệp với trên 80% dân số và lao động
sống ở nông thôn thì phát triển hàng TCMN xuất khẩu càng có vai trò quan trọng
đối với việc giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế
nông thôn góp phần từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế của tỉnh
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nhận thức được vấn đề trên, trong thời gian qua, cùng với việc triển khai các
chính sách của Trung ương, tỉnh Nam Định đã ban hành và chỉ đạo triển khai các
chính sách hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn, trong đó có hàng TCMN xuất
khẩu. Các chính sách này đã có tác động tích cực, góp phần đưa hàng TCMN thành
một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh với tốc độ tăng trưởng bình quân
14,53 %/năm trong giai đoạn 2006-2012, năm 2012 kim ngạch xuất khẩu đạt 24,95
triệu USD. Tuy nhiên, theo đánh giá kết quả đạt được còn thấp, chưa tương xứng và
phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của địa phương có nhiều làng nghề TCMN truyền
thống có danh tiếng, kết quả xuất khẩu hàng TCMN chưa hết khả năng, sản lượng
sản xuất trên địa bàn tỉnh.
Nguyên nhân dẫn đến kết quả hạn chế trên, trước hết là do năng lực của các
cơ sở kinh doanh, làng nghề TCMN còn hạn chế về năng lực tài chính, chất lượng
lao động, kỹ thuật công nghệ sản xuất, thiết kế mẫu mã sản phẩm, khai thác và phát
triển thị trường xuất khẩu... Nhưng có nguyên nhân rất quan trọng là chính sách
phát triển hàng TCMN XK của Nam Định còn thiếu và chưa đủ mạnh để hỗ trợ thực


sự hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh hàng TCMN trên địa bàn tỉnh. Hơn nữa,
theo thời gian, môi trường KT-XH mà hoạt động sản xuất kinh doanh hàng TCMN


2

xuất khẩu diễn ra luôn thay đổi làm xuất hiện những yếu tố mới tác động đến vấn đề
chính sách, do đó chính sách phát triển cũng phải có sự thay đổi phù hợp với tình
hình thực tiễn. Vì vậy cần phải có sự phân tích, đánh giá tác động của chính sách
phát triển hàng TCMN xuất khẩu của Nam Định hiện hành, rút ra những hạn chế để
có sự điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát
triển, nâng cao hiệu quả của xuất khẩu hàng TCMN trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Mặt khác về mặt lý luận, đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn
đề phân tích, đánh giá chính sách kinh tế- xã hội (KT-XH), các giải pháp thúc đẩy
sản xuất, xuất khẩu hàng TCMN (được hệ thống hoá ở mục Tổng quan các nghiên
cứu trên hướng đề tài). Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra cơ sở
lý luận về phương pháp đánh giá, hoàn thiện chính sách phát triển hàng TCMN xuất
khẩu ở một địa phương.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn và lý luận, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài
nghiên cứu: "Hoàn thiện chính sách phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
ở Nam Định đến năm 2020" làm Luận án tiến sĩ kinh tế.

2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và các vấn đề
đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
2.1. Tổng quan các nghiên cứu trên hướng đề tài
2.1.1. Các nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết về phương pháp
phân tích, đánh giá chính sách phát triển KT-XH (chính sách công) và cũng đã có
một số công trình nghiên cứu, bài viết về chính sách phát triển ngành nghề nông
thôn và tiểu thủ công nghiệp, trong đó có hàng TCMN xuất khẩu như:

- Trong Luận văn Thạc sĩ "Expansion of Vietnamese Handicraft Industry:
From Local to Global" do Rachael A. Szydlowski (trường Đại học Ohito- Nhật Bản)
[67] thực hiện vào năm 2008 đã nghiên cứu sự phát triển và vai trò của các chính
sách của chính phủ Việt Nam và chính quyền địa phương đối với sự phát triển của
ngành TCMN. Nghiên cứu này đã luận giải: (1) làm thế nào ngành TCMN ở Việt
Nam đã phát triển trong những năm gần đây , (2) làm thế nào các nghệ nhân TCMN
và dân làng đã mở rộng thị trường xuất khẩu cho sản phẩm của họ , và (3) các chính
sách của chính phủ và chính quyền địa phương đã giúp hoặc cản trở sự phát triển


3

của ngành như thế nào trên cơ sở điều tra khảo sát tại hai làng nghề: Ngọc Động (Hà
Nam), Đông Hồ (Bắc Ninh), ba doanh nghiệp xuất khẩu hàng TCMN, tiến hành các
cuộc phỏng vấn với đại diện của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Nghiên cứu đã chỉ ra
Chính phủ đã có các chính sách trực tiếp và gián tiếp hỗ trợ ngành TCMN phát triển
bao gồm chính sách phát triển kết cấu hạ tầng các làng nghề , xúc tiến thương mại
và giảm thuế xuất khẩu các mặt hàng TCMN... Tuy nhiên đánh giá tác động của
chính sách đến sự phát triển ngành TCMN như thế nào thì tác giả chưa đề cập đến.
- Trong bài báo “Effectiveness and limitations of the “One Village One
Product” (OVOP) approach as a government-led development policy: Evidence
from Thai OTOP” đăng trên Tạp chí tập san của Nhật Bản, năm 2009 của
Kurokawa Kiyoto [65] đã đánh giá hiệu quả và hạn chế tác động của chính sách
phát triển “Mỗi làng một sản phẩm” của Chính phủ Thái Lan. Tác giả đã đưa ra ba
đặc điểm của phong trào OTOP ở Thái Lan: Thứ nhất, phong trào OTOP hoàn toàn
khác với mô hình OVOP của Nhật Bản. Phong trào xuất phát từ chính sách của
Chính phủ chứ không phải xuất phát từ địa phương. Chính phủ Thái Lan đóng một
vai trò quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực. Thứ hai, OTOP được thừa nhận
rộng rãi qua hệ thống phân loại sản phẩm vô địch năm sao. Những nỗ lực nghiêm
túc trong phát triển sản phẩm đã dẫn đến chất lượng sản phẩm. Thứ ba, phong trào

OTOP được hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ thông tin, truyền thông. Tuy nhiên, tác
giả cho rằng tính bền vững của phong trào phụ thuộc nhiều vào sự can thiệp của
chính phủ thông qua các chính sách hỗ trợ phát triển.
- Trong báo cáo "Challenges for the OVOP movement in Sub-Saharan
Africa" do Ngân hàng Thế giới thực hiện vào năm 2010 [66] đã nghiên cứu về
những thách thức trong vấn đề phát triển phong trào "mỗi làng một sản phẩm" tại
các nước thuộc tiểu vùng hoang mạc Sahara (Châu Phi). Báo cáo đã nghiên cứu so
sánh phong trào OVOP của Nhật Bản, Thái Lan, và Malawi để kiểm tra sự tương
đồng và khác biệt của mỗi nước nhằm giúp các nước tiểu vùng Sahara các biện
pháp cần thiết. Báo cáo đã đưa ra phương pháp và các chỉ số, trong đó bao gồm cả
các chính sách của chính quyền để đánh giá và so sánh hiệu quả của các phương
pháp tiếp cận OVOP trong ba quốc gia. Báo cáo đã nêu rõ OVOPs của Thái Lan và
Malawi được thực hiện bởi chính quyền trung ương trong các chính sách phát triển


4

và nhấn mạnh về mục đích kinh tế, chứ không phải là mục đích xã hội nên có sự
khác biệt với OVOP Nhật Bản được thực hiện bởi chính quyền địa phương.

2.1.2. Các nghiên cứu trong nước
2.1.2.1 Các tài liệu, nghiên cứu về phân tích, đánh giá chính sách kinh tế- xã
hội (chính sách công)
- Trong Chương trình giảng dạy Kinh tế Fulbright (FETP) [69] hợp tác giữa
Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh và Trường Quản lý Nhà nước
Harvard Kennedy (Hoa Kỳ) có nhiều bài giảng chuyên đề về phân tích, đánh giá chính
sách trên cơ sở tham khảo các tài liệu nước ngoài có liên quan. Trong đó có các chuyên
đề " Phân tích chính sách là gì?" và "Quy trình phân tích chính sách" nêu ra các định
nghĩa về phân tích chính sách và các vấn đề liên quan đến quy trình phân tích chính
sách. Tuy nhiên, đây chỉ là những vấn đề về phân tích, đánh giá chính sách chung mà

chưa đi vào đánh giá chính sách phát triển đối với một ngành cụ thể.
- TS. Đặng Ngọc Lợi với bài viết “Chính sách công ở Việt Nam: Lý luận và
thực tiễn” [13] cũng chỉ mới dừng lại ở góc độ nhận thức bước đầu về lý luận và
thực tiễn chính sách công ở nước ta. Tác giả đã nêu lại đánh giá của các chuyên gia
trong và ngoài nước về thực tiễn chính sách công ở Việt Nam còn thể hiện sự thiếu
sót, sai lầm ở các góc độ sau: Xây dựng, hoạch định, đề ra chính sách chưa đúng
thực tế, kỳ vọng quá cao; tổ chức thực thi, quản lý chính sách còn yếu kém; đánh
giá hiệu quả, hiệu lực của chính sách chưa thuyết phục, khách quan. Tác giả đề xuất
cần tiếp tục làm rõ nội hàm chính sách công cả từ khái niệm, các phạm trù, nội
dung, các đặc điểm, các yếu tố tác động chi phối và cần xây dựng quy trình hoạch
định chính sách mới. Trong bài viết này, tác giả cũng chưa đề cập đến vấn đề đánh
giá, hoàn thiện chính sách công.
- PGS.TS. Nguyễn Danh với “Chính sách và công cụ phân tích” [15] đã đề
cập đến phân tích chính sách, nội dung và công cụ phân tích chính sách. Về công cụ
phân tích và đánh giá chính sách công tác giả đã nêu ra các công cụ cơ bản: (1)
Đánh giá dự báo tác động pháp luật (Regulatory Impact Assessment-RIA); (2) Phân
tích chi phí và lợi ích (Cost & Benefit Analysis - CBA). Trong một số trường hợp
khi lợi ích không thể tiền tệ hóa, có thể sử dụng phương pháp phân tích Chi phí Hiệu quả (Cost Effectiveness Analysis: CEA) – tức là bao nhiêu chi phí bỏ ra để đạt


5

được hiệu quả như mong muốn. Tuy nhiên phương pháp đánh giá tác động sau khi
triển khai để hoàn thiện chính sách tác giả chưa đề cập đến.
- Từ năm 2005 đến 2012, hàng năm có Báo cáo Chỉ số Năng lực Cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI) [24] là kết quả hợp tác nghiên cứu giữa Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) và Dự án Sáng kiến cạnh tranh Việt Nam thuộc Cơ quan
Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID/VNCI). Nghiên cứu, đánh giá về PCI là một
trong những điều tra xã hội học lớn và toàn diện nhất cả nước, được sử dụng như
một công cụ quan trọng để đo lường và đánh giá công tác quản lý và điều hành kinh

tế của 63 tỉnh, thành phố Việt Nam trên 9 lĩnh vực có ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển sản xuất kinh doanh. Trong báo cáo có thuyết minh về phương pháp xây dựng
các chỉ số, phương pháp điều tra và xử lý tài liệu điều tra v.v..
- Năm 2011, 2012 có "Báo cáo đánh giá năng lực hội nhập kinh tế cấp địa
phương" [61] thông qua một thang đo lường chung là "Chỉ số hội nhập kinh tế cấp
địa phương" do Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế thực hiện. Trong báo
cáo đã đưa ra phương pháp nghiên cứu được sử dụng, xây dựng mô hình chỉ số
riêng phục vụ cho công tác đánh giá năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của các địa
phương dựa trên 8 trụ cột cấu thành mô hình chỉ số.

2.1.2.2 Các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến hàng thủ công mỹ
nghệ xuất khẩu
Trong thời gian qua, trong nước đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến hoạt động phát triển làng nghề và xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam
được công bố, điển hình là:
- Luận án tiến sĩ kinh tế "Chiến lược marketing cho các làng nghề thủ công
mỹ nghệ Việt Nam trong thiên niên kỷ mới", năm 2005 của Trần Đoàn Kim,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [37] đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận về
chiến lược marketing, đi sâu phân tích thực trạng xây dựng và thực thi chiến lược
marketing tại các làng nghề TCMN, đề xuất chiến lược marketing và một số chính
sách hỗ trợ của Nhà nước cho các làng nghề TCMN Việt Nam nhưng chủ yếu trong
phạm vi hỗ trợ công tác marketing.
- Đề án " Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành thủ công mỹ nghệ Việt
Nam” (tháng 8-2006) [12] do Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam (VIETRADE) và


6

Trung tâm Thương mại Quốc tế UNCTAD / WTO (ITC) phối hợp thực hiện đã đề
cập đến các cơ chế chính sách hỗ trợ để thúc đẩy ngành thủ công mỹ nghệ phát triển

bao gồm: Các chính sách của nhà nước đối với ngành; vai trò điều hành và phối hợp
của các cơ quan quản lý; mạng lưới hỗ trợ thương mại; các nguồn hỗ trợ tài chính;
các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu. Tuy nhiên, Đề án chưa đi vào đánh giá tác động của
các chính sách hỗ trợ cũng như các lĩnh vực hỗ trợ khác đối với sự phát triển của
ngành TCMN, do đó Đề án chỉ đi vào các định hướng và giải pháp cụ thể để phát
triển ngành mà không đề xuất việc bổ sung, hoàn thiện chính sách.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế "Những giải pháp nhằm đẩy mạnh XK hàng thủ
công mỹ nghệ của tỉnh Nam Định giai đoạn 2006 - 2010", năm 2006 của Trần Lê
Đoài, Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về
xuất khẩu hàng TCMN, phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN của
tỉnh Nam Định, đưa ra định hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng TCMN
của Nam Định giai đoạn 2006 – 2010 nhưng đề cập rất ít đến vấn đề chính sách hỗ
trợ phát triển hàng TCMN xuất khẩu của Nhà nước.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế "Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa", năm 2008 của Nguyễn Văn Hùng, Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [21] đã nghiên cứu: (1) vai trò và công cụ của chính
quyền tỉnh đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu; (2) phân tích, đánh giá
thực trạng xuất khẩu hàng TCMN của tỉnh Thanh Hóa, phân tích đánh giá các chủ
trương, biện pháp tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện nhằm đẩy mạnh xuất khẩu; (3) Đề
xuất, kiến nghị với chính quyền tỉnh một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
hàng TCMN của Thanh Hóa. Tuy nhiên, tác giả chỉ đề cập đến một số chính sách
của tỉnh nhằm phát triển hàng TCMN xuất khẩu mà chưa đi vào đánh giá, hoàn
thiện chính sách phát triển phát triển hàng TCMN xuất khẩu của tỉnh Thanh Hóa
- Luận án tiến sĩ kinh tế "Phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để
đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong quá trình hội nhập", năm 2009
của Nguyễn Hữu Thắng, Trường Đại học Ngoại thương [18] đã nghiên cứu: (1) hệ
thống hóa cơ sở lý luận về phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề TCMN; (2)
phân tích thực trạng phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề; (3) đề xuất giải
pháp, chính sách phát triển làng nghề, doanh nghiệp để tăng nhanh xuất khẩu hàng



7

TCMN của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, tác giả
chủ yếu đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề cả ở tầm
vi mô và vĩ mô mà chưa đi sâu vào đánh giá, đề xuất hoàn thiện chính sách.
- Luận án Tiến sĩ kinh tế "Hoàn thiện chính sách thị trường và marketing cho
các sản phẩm chủ yếu của các làng nghề ở tỉnh Thái Bình", năm 2011 của Lê Thị
Kim Hoa, Trường Đại học Thương mại [14] đã nghiên cứu: (1) lý luận cơ bản về
chính sách thị trường và marketing cho các sản phẩm làng nghề; (2) đánh giá thực
trạng triển khai chính sách thị trường và marketing cho các sản phẩm chủ yếu của
các làng nghề ở Thái Bình; (3) đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chính
sách thị trường và marketing cho các sản phẩm chủ yếu của các làng nghề ở Thái
Bình thời kỳ đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020. Tuy nhiên, Luận án chưa đề
cập đến cơ sở lý luận của việc đánh giá, hoàn thiện chính sách cũng như chưa đi sâu
vào việc hoàn thiện chính sách của Thái Bình nhằm hỗ trợ phát triển làng nghề.
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng
TCMN của Việt Nam”, năm 2012 của Phạm Nguyên Minh, Viện Nghiên cứu
thương mại [22] đã hệ thống hóa, bổ sung một số cơ sở lý luận về phát triển thị
trường xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam theo quan điểm lợi thế so sánh và
quản trị chiến lược marketing xuất khẩu; phân tích, đánh giá về thực trạng phát triển
thị trường xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam từ năm 2005; đề xuất một số định
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của
Việt Nam, trong đó có các chính sách và giải pháp từ phía Nhà nước nhưng chủ yếu
trong phạm vi hỗ trợ xúc tiến thương mại.
Qua việc tổng lược các công trình nghiên cứu, bài viết trong và ngoài nước
có liên quan đến đề tài cho thấy:
Một là, các công trình nghiên cứu, bài viết về phân tích, đánh giá chính sách
mới chủ yếu đề cập đến phương pháp luận về phân tích, đánh giá chính sách phát
triển KT-XH (chính sách công) nói chung mà chưa đề cập đến việc đánh giá và

hoàn thiện chính sách phát triển hàng TCMN xuất khẩu dưới giác độ khoa học phân
tích, đánh giá tác động của chính sách, cũng như ở mức độ thể chế hoá.
Hai là, các công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đến hàng TCMN xuất
khẩu đã nghiên cứu những vấn đề liên quan đến phát triển làng nghề, sản xuất, xuất


8

khẩu hàng TCMN và các chính sách, giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng
TCMN ở các cách tiếp cận và mức độ khác nhau, nhưng chưa có công trình nghiên
cứu nào giải quyết một cách toàn diện và có tính hệ thống các vấn đề lý luận và
thực tiễn về đánh giá, hoàn thiện chính sách phát triển đối với hàng TCMN xuất
khẩu ở tỉnh Nam Định cũng như ở một địa phương khác trong nước.

2.2. Các vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Từ việc tổng quan các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan
đến đề tài và mục đích nghiên cứu của luận án, vấn đề đặt ra cho nghiên cứu sinh
cần tiếp tục nghiên cứu là:
- Chính sách phát triển hàng TCMN xuất khẩu trên địa bàn một tỉnh gồm
những nội dung gì?
- Sử dụng phương pháp nào, các chỉ tiêu nào để đánh giá tác động của chính
sách đến sự phát triển hàng TCMN xuất khẩu trên địa bàn một tỉnh?
- Cần phải hoàn thiện chính sách như thế nào để phát huy được tiềm năng lợi
thế của tỉnh trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả của xuất khẩu hàng TCMN?

3. Mục đích, mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất, kiến nghị với UBND tỉnh Nam Định hoàn thiện và ban hành chính
sách phát triển hàng TCMN xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả của xuất khẩu hàng
TCMN trên địa bàn Nam Định.


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách phát triển hàng
TCMN xuất khẩu, xây dựng khung lý thuyết đánh giá, hoàn thiện chính sách phát
triển hàng TCMN xuất khẩu ở địa phương.
- Rà soát chính sách phát triển hàng TCMN xuất khẩu đã có của tỉnh Nam
Định, đánh giá tác động của chính sách đến sự phát triển hàng TCMN xuất khẩu ở
Nam Định, rút ra những điểm mạnh, điểm yếu của chính sách và nguyên nhân .
- Đề xuất nội dung hoàn thiện chính sách phát triển hàng TCMN xuất khẩu ở
Nam Định.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các chính sách của tỉnh Nam Định có
tác động đến sự phát triển hàng TCMN xuất khẩu.


9

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đánh giá, hoàn thiện chính sách phát triển hàng TCMN xuất
khẩu trong phạm vi địa bàn tỉnh Nam Định.
- Về thời gian:
+ Nghiên cứu đánh giá tác động chính sách của tỉnh Nam Định đến sự phát
triển hàng TCMN xuất khẩu ở tỉnh Nam Định từ năm 2006-2012.
+ Đề xuất hoàn thiện chính sách phát triển hàng TCMN xuất khẩu của tỉnh
Nam Định đến năm 2020.

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Khung nghiên cứu

- Xây dựng khung lý
- Đánh giá tác động của
Đề xuất nội dung
thuyết đánh giá, hoàn thiện
hoàn thiện chính
chính sách phát triển
chính sách phát triển hàng
sách phát triển
hàng TCMN xuất khẩu
TCMN xuất khẩu.
hàng TCMN xuất
của tỉnh Nam Định qua
- Xây dựng các chỉ tiêu
các chỉ tiêu.
khẩu ở Nam Định
đánh giá tác động của
- Chỉ ra các điểm
- Nội dung hoàn
chính sách phát triển hàng
mạnh, điểm yếu của
thiện chính sách
TCMN xuất khẩu.
chính sách.
- Các điều kiện
- Kinh nghiệm xây dựng
- Xác định nguyên
đảm bảo triển
và tổ chức thực thi chính
nhân của các điểm yếu
khai thực thi

sách phát triển hàng
của chính sách
chính sách
TCMN ở một số nước
Nguồn: Tác giả thiết kế từ mục tiêu nghiên cứu

5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Trong quá trình nghiên cứu, luận án vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như: Phương pháp hệ
thống, tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, dự báo.
- Điều tra, khảo sát, thu thập thu thập thông tin, dữ liệu, lấy ý kiến của các
nhà sản xuất kinh doanh hàng TCMN xuất khẩu, các nhà quản lý các cấp.
+ Nguồn dữ liệu thứ cấp: Luận án sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp thu thập từ
Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp & PTNT; các Sở, ngành, cơ quan của tỉnh có
liên quan đến hoạt động của ngành hàng TCMN xuất khẩu như: Sở Công Thương,


10

Sở Kế hoạch & Đầu tư, Sở Tài nguyên & Môi trường, Sở Khoa học & Công nghệ,
Sở Nông nghiệp &PTNT, Cục Thống kê, UBND các huyện
+ Nguồn dữ liệu sơ cấp:
/ Luận án thu thập và khai thác dữ liệu sơ cấp từ một số báo cáo kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong ngành TCMN của tỉnh Nam Định.
/ Sử dụng phương pháp điều tra xã hội học vào quý II năm 2013 thông qua 3
mẫu phiếu điều tra tại phụ lục 1: Mẫu phiếu 1 điều tra 100 hộ gia đình, mẫu phiếu 2
điều tra 50 doanh nghiệp ở các làng nghề TCMN nổi tiếng đại diện cho 5 nhóm mặt
hàng TCMN như mây tre đan Vĩnh Hào, sơn mài Cát Đằng, gỗ mỹ nghệ La Xuyên,
đúc đồng Tống Xá, cói đan Hạ Đồng, ươm tơ dệt lụa Cổ Chất…. Tác giả sử dụng
phương pháp điều tra, chọn mẫu, vừa phát phiếu, vừa gặp gỡ các chủ cơ sở phỏng

vấn nhằm tìm hiểu hoạt động sản xuất kinh doanh hàng TCMN xuất khẩu và các
vấn đề liên quan đến việc triển khai và thụ hưởng chính sách phát triển hàng TCMN
xuất khẩu ở Nam Định. Mẫu phiếu 3 điều tra 50 nhà quản lý có liên quan đến hàng
TCMN xuất khẩu bao gồm cán bộ xã, lãnh đạo và chuyên viên các phòng Công
Thương huyện, UBND huyện, lãnh đạo và chuyên viên các Sở ngành có liên quan
như: Sở Công Thương, Khoa học & Công nghệ, Nông nghiệp & PTNT, Lao động
Thương binh & Xã hội... theo phương pháp vừa liên hệ phát phiếu điều tra, vừa kết
hợp phỏng vấn sâu. Kết quả thu được 200 phiếu đã được xử lý, tổng hợp vào các
biểu bảng làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đánh giá.
- Tham khảo, xin ý kiến tư vấn chính sách các chuyên gia là các cán bộ xây
dựng chính sách, chỉ đạo thực tiễn của tỉnh và một số nhà khoa học trong việc đánh
giá, hoàn thiện chính sách phát triển hàng TCMN xuất khẩu của tỉnh Nam Định.
- Tham gia các hội thảo khoa học có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp xử lý dữ liệu: Các số liệu, dữ liệu thu thập và điều tra được
xử lý bằng Exel.

6. Các đóng góp của luận án:
- Đã làm rõ được nội dung phát triển hàng TCMN xuất khẩu và các nhân tố
ảnh hưởng đến phát triển hàng TCMN xuất khẩu.


11

- Luận giải chi tiết các nội dung liên quan đến chính sách phát triển hàng
TCMN xuất khẩu, bao gồm một số nội dung quan trọng như: Các hợp phần của
chính sách và chu trình chính sách phát triển hàng TCMN xuất khẩu.
- Làm rõ các bước hoàn thiện chính sách, trong đó đã xây dựng được các chỉ
tiêu đánh giá tác động của chính sách phát triển hàng TCMN ở địa phương.
- Rút ra bài học kinh nghiệm về chính sách phát triển hàng TCMN xuất khẩu
ở một số nước và một số địa phương trong nước làm cơ sở tham khảo, vận dụng vào

việc hoàn thiện chính sách phát triển hàng TCMN xuất khẩu ở Nam Định.
- Phân tích được thực trạng của 6 chính sách bộ phận của chính sách phát
triển hàng TCMN xuất khẩu thực thi ở Nam Định giai đoạn 2006-2012, đánh giá tác
động của chính sách đến sự phát triển hàng TCMN xuất khẩu ở Nam Định giai đoạn
2006-2012, kết quả thực hiện mục tiêu của chính sách, việc triển khai chính sách,
đánh giá tầm quan trọng của từng chính sách hợp phần, từ đó chỉ ra điểm mạnh,
điểm yếu của chính sách cũng như nguyên nhân của các điểm yếu.làm cơ sở cho
việc hoàn thiện chính sách.
- Làm rõ quan điểm, phương hướng hoàn thiện chính sách phát triển hàng
TCMN xuất khẩu ở tỉnh Nam Định
- Đề xuất 9 nội dung hoàn thiện chính sách ứng với 9 hợp phần của chính
sách phát triển hàng TCMN xuất khẩu ở Nam Định bao gồm xây dựng mới 3 chính
sách hợp phần chưa có; bổ sung, hoàn thiện 6 chính sách hợp phần hiện đang thực
thi ở tỉnh và kiến nghị các điều kiện để đảm bảo triển khai thực thi chính sách.

7. Kết cấu của luận án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; nội dung chính
của luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận hoàn thiện chính sách phát triển hàng thủ công mỹ
nghệ xuất khẩu và kinh nghiệm về chính sách phát triển hàng thủ công mỹ nghệ
xuất khẩu
Chương 2: Đánh giá chính sách phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
ở tỉnh Nam Định giai đoạn 2006-2012.
Chương 3: Phương hướng và nội dung hoàn thiện chính sách phát triển hàng
thủ công mỹ nghệ xuất khẩu ở tỉnh Nam Định đến năm 2020.


12

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ XUẤT KHẨU VÀ KINH NGHIỆM VỀ
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ XUẤT KHẨU

1.1. Hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
1.1.1.1 Khái niệm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
- Hàng thủ công: Là sản phẩm mà kỹ thuật sản xuất chủ yếu là làm bằng tay.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trong quy trình sản xuất có thể sử
dụng máy, hoá chất và các giải pháp kỹ thuật của công nghiệp trong một số công
đoạn, phần việc nhất định nhưng phần quyết định chất lượng và hình thức đặc trưng
của sản phẩm vẫn làm bằng tay.
- Hàng thủ công mỹ nghệ: Là sản phẩm thủ công mang tính mỹ thuật được
tạo hình và trang trí tinh xảo. Ở sản phẩm thủ công mỹ nghệ, chức năng văn hoá,
thẩm mỹ trở nên quan trọng hơn chức năng sử dụng thông thường.
Hàng TCMN thường được quan niệm là sản phẩm được sản xuất chủ yếu
bằng phương pháp thủ công, tạo ra các sản phẩm có tính mỹ thuật cao, gắn liền với
phong tục tập quán và mang đậm nét văn hoá của nơi tạo ra hàng hóa đó, thường là
các sản phẩm truyền thống của một địa phương hay một quốc gia. [18], [21]
Trước đây hàng TCMN là sản phẩm mà kỹ thuật sản xuất chủ yếu là làm
bằng tay, được tạo hình và trang trí tinh xảo; nguyên liệu để sản xuất sản phẩm
thường lấy trực tiếp từ thiên nhiên, công cụ sản xuất thường là công cụ cầm tay đơn
giản. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trong quy trình sản xuất có thể
sử dụng máy móc, hoá chất và các giải pháp kỹ thuật của công nghiệp trong một số
công đoạn, phần việc nhất định nhưng phần quyết định chất lượng và hình thức đặc
trưng của sản phẩm TCMN vẫn làm bằng tay; đồng thời, ngoài nguyên liệu truyền
thống từ thiên nhiên đã kết hợp vật liệu mới để sản xuất, tạo ra sản phẩm TCMN có
chất lượng cao hơn, phong phú hơn.



13

1.1.1.2 Đặc điểm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
Từ khái niệm trên cho thấy, không giống như những hàng hoá khác, hàng
TCMN xuất khẩu có những đặc điểm riêng có của mình, đó là: Về cách thức sản
xuất, sự đa dạng của các chủ thể tham gia sản xuất, sự đa dạng và phong phú về
nguyên vật liệu, mẫu mã và tính mỹ thuật của sản phẩm,... Chính vì vậy hàng
TCMN xuất khẩu có những đặc thù riêng trong sản xuất và tiêu dùng. [18, [21], [22]
- Về tính chất của sản phẩm
Mỗi sản phẩm TCMN đều được tạo ra trong một hoàn cảnh xã hội nhất định,
mang sắc thái của một khu vực địa lý và cộng đồng dân cư nhất định. Chất lượng
sản phẩm TCMN luôn gắn liền với những yếu tố về văn hoá truyền thống, địa lý và
điều kiện sống của khu vực dân cư, nơi tạo ra sản phẩm. Hầu hết các sản phẩm
TCMN đều phải thỏa mãn ở mức độ cao về mỹ thuật. Nét tinh xảo trong chế tác và
những yếu tố văn hoá truyền thống thể hiện trên sản phẩm luôn mang lại sự hấp dẫn
cho người tiêu dùng. Vì thế, khi nhìn nhận và xem xét hàng TCMN, người ta đặc
biệt chú ý đến khả năng đem lại sự thích thú cho người tiêu dùng sản phẩm. Các yếu
tố khác như độ bền, khả năng chứa đựng thường bị người ta xem nhẹ hơn.
Do chủ yếu được sản xuất bằng tay với nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau,
nên mức độ đồng đều về chất lượng của hàng TCMN thường không cao. Mỗi một
khu vực làng nghề lại có những bí quyết riêng và cách xử lý nguyên liệu khác nhau.
Đây chính là một trong những hạn chế của các sản phẩm TCMN, có những sản
phẩm không phù hợp với những điều kiện môi trường ở các khu vực khác nhau.
- Về người tiêu dùng
Các sản phẩm TCMN vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị thẩm mỹ cao, vì
thế nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là đồ vật trang trí.
Hàng TCMN được người tiêu dùng ở khắp các quốc gia ưa chuộng. Khi đời
sống kinh tế, văn hoá ngày càng cao thì nhu cầu về hàng TCMN cũng tăng theo.
Người tiêu dùng thường tìm đến với những sản phẩm có tính cá biệt cao, với những
đặc trưng riêng có của một khu vực địa lý nào đó. Họ muốn có những sản phẩm

mang lại cho họ một giá trị nghệ thuật. Những điều này thường dễ tìm thấy ở sản
phẩm TCMN và ít gặp ở những sản phẩm công nghiệp hàng loạt.


14

Thông qua tiêu dùng, người ta cảm nhận được giá trị nghệ thuật của sản
phẩm TCMN từ sự tinh tế, sự sáng tạo và khéo léo trong tạo dáng; sự cá biệt của
từng loại nguyện vật liệu làm ra chúng; sự tinh xảo và điêu luyện của người thợ; và
hơn tất cả là sự kết tinh những nét văn hoá và truyền thống của cả dân tộc, của một
khu vực địa lý hay một địa phương ở trong sản phẩm. Đây chính là một động lực rất
mạnh kích thích tiêu dùng các sản phẩm TCMN.
- Về nguyên vật liệu
Hàng TCMN có thể được sản xuất bằng rất nhiều loại nguyên vật liệu khác
nhau, như các nguyên vật liệu nguồn gốc thực vật từ vỏ cây (đay, gai, quế, xơ dừa);
từ cây thân gỗ và thân sợi (tre, nứa, giang, luồng, mây, song); hoặc từ các loại lá (lá
buông, lá dừa) và từ các loại rễ, quả cây (guột, sọ dừa, quả thông). Bên cạnh đó,
người ta cũng dùng các loại nguyên liệu như da động vật, sừng, ngà; các loại vật
liệu vô cơ như đá, kim loại. So với nhiều nguyên liệu để sản xuất các loại hàng hóa
khác thì đây thường là nguyên liệu rẻ tiền, sẵn có tại các địa phương; điều đó là
một lợi thế rất quan trọng để hàng TCMN có tính cạnh tranh cao trên thị trường.
Thực tế, có không ít sản phẩm TCMN được sản xuất từ những nguyên liệu được coi
là phế liệu của các ngành khác, chẳng hạn như những bông hoa làm từ phôi bào,
hoa khô, tranh từ cỏ dại, lá khô; các con giống, đồ trang trí từ vỏ sò, hến…
- Về chủ thể sản xuất
Trong lịch sử phát triển, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh hàng TCMN
truyền thống phổ biến nhất là hình thức hộ gia đình. Tuy nhiên khi sản xuất kinh
doanh ở các làng nghề phát triển thì một số hình thức khác được ra đời và phát triển.
Đó là các hình thức: tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp. Những hình thức này
cùng tồn tại và có tác động hỗ trợ lẫn nhau trong nền kinh tế thị trường, tạo ra sự đa

dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh tại các làng nghề TCMN.
- Hộ gia đình : Là mô hình sản xuất truyền thống chiếm hơn 90% các mô
hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong các làng nghề hiện nay. Hộ gia đình là mô
hình sản xuất đặc biệt trong đó lao động là các thành viên trong gia đình, chỉ khi
thời vụ hoặc khi chạy hàng thì có thể thuê thêm lao động. Mọi thành viên trong gia


15

đình đều có thể tham gia, tuỳ theo độ tuổi, trình độ tay nghề để làm công việc phù
hợp nhưng bao giờ cũng có ít nhất một người chịu trách nhiệm về kỹ thuật, quản lý,
giao dịch,… Vì vậy sản xuất hộ gia đình là quy mô nhỏ. Hộ gia đình sản xuất phù
hợp với cơ sở vật chất làng nghề nên đã phát huy được nhiều ưu điểm: Tận dụng,
tranh thủ mọi thời gian lao động và mặt bằng sản xuất (nơi sản xuất thường là nhà
ở) ; linh hoạt trong sản xuất kinh doanh; hiệu quả kinh tế được hạch toán cụ thể, kịp
thời; có sự phù hợp giữa quy mô, năng lực sản xuất với trình độ quản lý.
Mặc dù có một số ưu thế nhất định nhưng hình thức hộ gia đình cũng bộc lộ
những nhược điểm cơ bản. Vì đặc trưng chủ yếu của sản xuất hộ gia đình là quy mô
nhỏ, vốn ít, lao động ít đã hạn chế khả năng cải tiến và đổi mới kỹ thuật, công nghệ,
hạn chế việc đào tạo và nâng cao trình độ quản lý, trình độ tay nghề, không có khả
năng sản xuất lớn, không đủ tầm nhìn để định hướng cho sản xuất kinh doanh.
- Tổ sản xuất: Là hình thức hợp tác, liên kết tự nguyện một số gia đình với
nhau để sản xuất kinh doanh hàng TCMN. Sự hợp tác đã tạo ra sự tương hỗ lẫn
nhau trong việc thực hiện các khâu của quá trình sản xuất, vừa đảm bảo được tính
độc lập của các hộ gia đình vừa tạo điều kiện tăng thêm sức mạnh trong tiếp cận với
thị trường và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong hình thức
hợp tác này các mối liên kết rất lỏng lẻo, không cố định, không có tổ chức cụ thể.
- Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu,
lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát
huy sức mạnh của tập thể nhằm thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất

kinh doanh. Đặc trưng cơ bản nhất của hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự nguyện của
các chủ thể kinh tế, kết hợp được lợi ích của cá nhân và tập thể. Trong hiện tại cũng
như lâu dài hợp tác xã vẫn là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu ở các
làng nghề, do đã thể hiện rõ nhiều yếu tố tích cực như: có khả năng tập hợp được
năng lực của làng nghề, với tư cách pháp nhân có thể đứng ra nhận những hợp đồng
lớn tạo nhiều việc làm cho các hộ xã viên. Với các nguồn vốn góp có khả năng
trang bị máy móc thiết bị mới, cải tiến công nghệ, thúc đẩy sự phát triển của làng
nghề.


16

- Các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần
Đây là hình thức mới xuất hiện và phát triển ở làng nghề TCMN sau khi Luật
doanh nghiệp ra đời, từ những chủ thể kinh tế có vốn và năng động trong cơ chế thị
trường. Trong làng nghề, các doanh nghiệp tuy không chiếm tỷ trọng lớn về lao
động nhưng lại đóng vai trò trung tâm liên kết các hộ gia đình là các vệ tinh thực
hiện các hợp đồng đặt hàng, giải quyết đầu ra, đầu vào cho các hộ gia đình.
Trong quá trình phát triển của làng nghề, số lượng các doanh nghiệp sẽ ngày
càng tăng lên tại các làng nghề. Chúng cùng tồn tại đan xen với hình thức tổ chức
hộ gia đình, tổ sản xuất. Sự đan xen này đảm bảo sự thích ứng của từng loại hình
với nhu cầu của người sản xuất và đặc trưng của làng nghề.
Hiện nay, không chỉ có các doanh nghiệp trong các làng nghề TCMN tham
gia sản xuất kinh doanh mà còn có các doanh nghiệp ở đô thị, trong các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp cũng tham gia sản xuất kinh doanh hàng TCMN.
- Về cách thức sản xuất
+ Sản xuất thủ công là chủ yếu: Sản phẩm thủ công truyền thống chủ yếu
được sản xuất bằng tay, riêng công đoạn hỗ trợ có thể sử dụng máy móc; sản xuất
dựa trên kỹ thuật hay công nghệ truyền thống nhưng có thể tiến hành cải tiến kỹ
thuật hay công nghệ mà không ảnh hưởng cơ bản đến sản phẩm thủ công đó và

không làm mất đi sắc thái văn hoá trong sản phẩm;
Sản phẩm TCMN của các làng nghề truyền thống là sự kết giao giữa phương
pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Sản phẩm ở mỗi làng nghề đều
có sắc thái riêng, từng nghệ nhân cũng có những nét riêng. Những nét riêng đó được
thử thách qua thời gian, được chọn lọc, được thừa nhận để tồn tại và phát triển, trở
thành kiểu mẫu cho những sản phẩm cùng loại được sản xuất, chế tác tiếp sau.
+ Sản xuất thường mang tính phân tán cao: Thực tế ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới, hàng TCMN được sản xuất chủ yếu tại các làng nghề hoặc các cơ sở
với quy mô nhỏ và phân tán. Các làng nghề nằm rải rác tại nhiều nơi theo sự phân
bố của các nguồn nguyên liệu hoặc phát triển thành làng nghề từ nghề truyền thống.
Tại mỗi làng nghề, thường chỉ tập trung sản xuất một số mặt hàng nhất định mang


17

tính truyền thống. Điều này mang lại cho sản phẩm TCMN tính cá biệt. Tuy nhiên,
vì sản xuất phân tán, nên rất khó khăn trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật cũng
như quy hoạch các làng nghề, tạo quy mô mở rộng sản xuất.

1.1.2. Tầm quan trọng của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong phát
triển kinh tế- xã hội, văn hóa của địa phương
1.1.2.1 Đối với phát triển kinh tế-xã hội
Một là, ngành TCMN đóng vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm, sử
dụng hợp lý và tăng thu nhập cho lao động nông thôn: Sản xuất hàng TCMN không
đòi hỏi nhiều vốn, yêu cầu kỹ thuật không cao, tận dụng lao động và có khả năng
làm việc phân tán trong từng hộ gia đình, lao động sống trong giá thành sản phẩm
chiếm tỷ lệ cao (thường chiếm khoảng 40 - 60%). Do vậy, các làng nghề TCMN
phát triển mạnh sẽ thu hút được nhiều lao động nông thôn; đồng thời mở ra nhiều
hoạt động dịch vụ liên quan, tạo thêm việc làm mới, khắc phục được tính thời vụ
trong sản xuất nông nghiệp, góp phần thực hiện phân bổ hợp lý lao động nông thôn.

Trên cơ sở tạo việc làm, tăng thêm thu nhập, các làng nghề TCMN có vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của địa phương và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, xây dựng nông thôn mới.
Hai là, tăng nguồn thu và hiệu quả xuất khẩu: Sản xuất hàng TCMN sử dụng
các nguồn nguyên liệu và cả các phế phụ phẩm, phế liệu để tạo sản phẩm. Nói cách
khác, hàng TCMN được sản xuất chủ yếu từ nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước
và nguyên liệu nhập khẩu thường không đáng kể. Vì vậy, xuất khẩu hàng TCMN
đạt mức thực thu ngoại tệ rất cao, chiếm từ 85% đến 90% giá trị xuất khẩu.

1.1.2.2 Đối với bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống
Một là, phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN sẽ bảo tồn, duy trì và
phát triển được các ngành nghề truyền thống của địa phương, tạo điều kiện và cơ
hội phát huy khả năng của đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi trong các làng nghề, đồng
thời truyền dạy nghề cho đời sau. Vì vậy, việc phát triển xuất khẩu các mặt hàng
TCMN sẽ góp phần quan trọng bảo tồn và phát triển các ngành nghề truyền thống.
Hai là, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống: Các làng nghề


18

truyền thống gắn liền với lịch sử phát triển văn hoá quốc gia, địa phương. Các sản
phẩm chứa đựng những phong tục, tập quán, tín ngưỡng ... mang sắc thái riêng có
của dân tộc, của địa phương. Nhiều sản phẩm làng nghề truyền thống có giá trị
minh chứng sự thịnh vượng của quốc gia, cũng như thể hiện những thành tựu, phát
minh mà con người đạt được. Ngoài ra, hầu hết các mặt hàng TCMN đều mang
những giá trị văn hoá, lịch sử nhất định nên việc xuất khẩu các mặt hàng này có một
vai trò không nhỏ trong việc truyền bá giao lưu văn hoá đến các nước trên thế giới.
1.1.3 Chuỗi cung ứng hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
Chuỗi cung ứng hàng TCMN xuất khẩu được thể hiện qua hình sau:


Hình 1.1: Chuỗi cung ứng hàng TCMN xuất khẩu
Nguồn: [12, trg 10]
Nguyên liệu thô: hoặc là được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu. Các
nhóm nguyên liệu như gỗ, mây, tre, đay cói …, thường được các cá nhân hoặc các
hộ sản xuất trực tiếp khai thác và thu hoạch từ các khu rừng, vùng trồng ở địa
phương hoặc ở các tỉnh khác trong nước. Sau đó, họ bán nguyên liệu này cho người
thu gom. Đối với các sản phẩm khác như dệt và thêu, hầu hết nguyên liệu thô gồm
có vải hoặc chỉ được nhập khẩu do nguyên liệu sẵn có trong nước chất lượng thấp.
Những nhà thu gom nguyên liệu: thu thập nguyên liệu thô từ những nhà sản


19

xuất nguyên liệu, tiến hành phân loại cơ bản xong rồi họ vận chuyển nguyên liệu tới
các nhà bán buôn ở các tỉnh. Nhiều khâu trung gian tham gia vào mạng lưới này
làm cho kênh nguyên liệu thô trở nên phức tạp và làm nâng giá mặt bằng sản xuất.
Những nhà xử lý nguyên liệu thô: thu mua nguyên liệu từ những nhà thu gom
hay những người bán buôn. Họ hoàn toàn khác những nhà sản xuất nguyên liệu/thu
gom nguyên liệu/nhà bán buôn do họ tham gia vào nhiều hơn khâu xử lý và bán
nguyên liệu đã được chế biến.
Các nhà sản xuất thường là các hộ gia đình tại làng nghề ở các khu vực
nông thôn, đây là lực lượng lao động chính trong sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
Các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng TCMN ở nông thôn là những doanh
nghiệp sản xuất đặt tại các làng nghề và có nhiều nhân công, có trang thiết bị căn
bản, có thể trực tiếp sản xuất sản phẩm hoặc thực hiện hoạt động thu gom sản phẩm,
giám sát sản xuất và hoàn thiện sản phẩm.
Các nhà thu gom sản phẩm: là những người sống tại các làng nghề và có vai
trò như cầu nối giữa những thương gia kinh doanh mặt hàng này với các nhà sản
xuất. Họ giữ trọng trách đối với nhiều loại công việc, từ cung cấp nguyên liệu cho
người sản xuất (không thường xuyên), giám sát sản xuất, thu gom hàng và đôi khi

họ cũng phụ trách khâu hoàn thiện sản phẩm (xử lý, nhuộm màu…) và đóng gói.
Các nhà cung cấp máy móc: không có vai trò lớn do máy móc, trang thiết bị
sử dụng trong ngành TCMN đơn giản, như lò nung gốm, máy sấy, máy cưa, máy
tiện, máy nặn, máy may nhỏ, máy khoan, thiết bị phun dùng cho sản xuất đồ nội
thất hoặc máy may cho sản phẩm dệt,…
Các nhà xuất khẩu: tìm kiếm nguồn hàng từ các nhà sản xuất ở các làng
nghề, các nhà thu gom sản phẩm hoặc nhà kinh doanh sản phẩm này ở nông thôn.
Hầu hết các đơn hàng thực hiện theo hình thức hợp đồng phụ với các nhà sản xuất.
Trong một số trường hợp, các nhà xuất khẩu cũng cung cấp cho các nhà sản xuất ở
các làng nghề nguyên liệu thô hoặc những cấu phần được làm sẵn.
Một phần của hoạt động sản xuất đang ngày càng có xu hướng được thực
hiện tại xưởng của các nhà xuất khẩu (sản phẩm cần những kỹ năng hoặc trang thiết


20

bị đặc biệt, khâu hoàn thiện sản phẩm, sản xuất những cấu phần làm sẵn cho những
thợ dệt và thợ gốm đòi hỏi công nghệ hiện đại) với lực lượng lao động gồm vài
trăm, thậm chí hàng ngàn người.
Các nhà nhập khẩu hầu hết là những nhà bán buôn ở Châu Âu, Châu Á hoặc
Châu Mỹ và những chuỗi bán lẻ mua trực tiếp từ các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu
của Việt Nam. Một số khách hàng quốc tế có đại lý hoặc văn phòng đại diện ở Việt
Nam để tìm kiếm các sản phẩm thủ công. Có một số khách hàng là những doanh
nghiệp lớn có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Những công ty nước ngoài này có
vai trò quan trọng trên thị trường và họ mua với số lượng lớn.
Thông thường, các công ty nước ngoài tìm kiếm sản phẩm thông qua các nhà
xuất khẩu. Khách hàng thường lập kế hoạch sản xuất của họ trước từ 3-6 tháng. Họ
cung cấp cho các nhà xuất khẩu catalô, hình ảnh và những bức vẽ cùng với mã hàng
và đặt hàng theo các mã hàng của họ.
Các nhà bán lẻ trong nước, đặc biệt là các cửa hàng ở các thành phố lớn

cũng có vai trò quan trọng trong marketing sản phẩm TCMN. Các sản phẩm trưng
bày ở những cửa hàng này hầu hết được lấy từ các làng nghề hoặc do các nhà thu
gom và đôi khi do các công ty tư nhân ở các làng nghề giới thiệu. Một số các cửa
hàng chuyên về các sản phẩm chất lượng cao. Thu nhập của họ hầu hết là do xuất
khẩu cho các khách hàng nước ngoài và họ cũng đã mang đến khá nhiều thiết kế
mới và thông tin cho các làng nghề. Họ phát triển các sản phẩm mới như một chiến
lược cạnh tranh với các cửa hàng khác. Nhiều cửa hàng cũng nhằm vào đối tượng
khách hàng là khách du lịch trong nước và nước ngoài.
Các công ty giao nhận và kho vận hoặc là các công ty trong nước hoặc là các
công ty nước ngoài cung cấp nhiều loại hình dịch vụ, từ tờ khai và thủ tục hải quan
tới thuê côngtenơ, thuê tàu, vận chuyển nội địa…[12, trg 10-13]
Liên quan đến chuỗi cung ứng hàng TCMN còn có Chính phủ, các Bộ,
ngành trung ương, chính quyền địa phương ban hành, triển khai thực thi các chính
sách phát triển hàng TCMN, các ngân hàng và tổ chức tín dụng cung cấp vốn, các
Hiệp hội, các tổ chức xúc tiến thương mại cung cấp thông tin thị trường, dịch vụ hội


21

chợ triển lãm, các nhà thiết kế mẫu sản phẩm TCMN. Các chủ thể này tuy không
trực tiếp tham gia vào chuỗi cung ứng, nhưng có vai trò tác động quan trọng đến
việc phát triển chuỗi cung ứng hàng TCMN

1.1.4. Nội dung phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
1.1.4.1 Phát triển quy mô, năng lực sản xuất
Để phát triển xuất khẩu hàng TCMN trước hết cần tăng nguồn cung sản phẩm
TCMN từ việc phát triển quy mô, năng lực sản xuất. [6], [7], [12]
Xét trên phạm vi một ngành sản xuất trên địa bàn địa phương, việc phát triển
quy mô, năng lực sản xuất của ngành TCMN xuất khẩu rộng hơn so với việc phát
triển quy mô, năng lực sản xuất của một doanh nghiệp. Đó là:

- Phát triển làng nghề TCMN: Từ xa xưa cho đến nay, hàng TCMN vẫn chủ
yếu được sản xuất tại các làng nghề. Sản xuất tại làng nghề có nhiều lợi thế đó là:
Tận dụng được mặt bằng sản xuất; có các nghệ nhân, thợ giỏi làm hạt nhân, thuận
lợi trong việc đào tạo, truyền nghề; sử dụng được nhiều loại lao động và thời gian
nông nhàn… Do đó cần nhân cấy nghề sang các vùng có điều kiện, hình thành các
làng nghề mới để phát triển sản xuất.
- Phát triển cơ sở sản xuất hàng TCMN: Dù là cơ sở sản xuất quy mô hộ gia
đình, HTX hay doanh nghiệp thì đây chính là nơi trực tiếp sản xuất ra nguồn hàng
cung cấp cho xuất khẩu. Cùng với sự tăng lên của số cơ sở sản xuất khả năng sẽ sản
xuất ra lượng sản phẩm lớn hơn.
Cùng với sự phát triển các cơ sở sản xuất, việc tăng quy mô cơ sở sản xuất
về vốn, lao động, giá trị sản xuất cũng tạo ra lượng sản phẩm lớn hơn
- Phát triển nguồn nhân lực sản xuất hàng TCMN: Nhiều sản phẩm TCMN
chủ yếu được làm bằng tay, kỹ thuật thủ công, dù ngày nay có công đoạn sản xuất
một số sản phẩm đã sử dụng máy móc, thiết bị thay thế thì lực lượng lao động vẫn
là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm TCMN.
Phát triển nguồn nhân lực không chỉ là tăng về số lượng lao động mà còn là việc
nâng cao chất lượng lao động về kỹ thuật, tay nghề…


22

- Phát triển vốn đầu tư sản xuất kinh doanh: Muốn phát triển sản xuất kinh
doanh hàng TCMN trước hết phải gia tăng vốn đầu tư, đa dạng hóa nguồn vốn, đa
thành phần đầu tư, nhất là tăng quy mô vốn cố định đầu tư nhà xưởng, máy móc
trang thiết bị để nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm.
- Phát triển nguồn nguyên liệu: Việc sản xuất hàng TCMN phụ thuộc rất lớn
vào nguyên liệu, do vậy muốn phát triển sản xuất trước hết phải phát triển nguồn
nguyên liệu. Cần chú trọng phát triển các nguyên liệu trong nước; nghiên cứu sử
dụng nguyên, vật liệu mới.

- Tăng giá trị sản xuất và doanh thu: Giá trị sản xuất là chỉ tiêu tổng hợp
phản ánh toàn bộ giá trị sản phẩm do hoạt động sản xuất hàng TCMN làm ra trong
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Nó phản ánh kết quả phát triển
quy mô của một DN hoặc của một ngành sản xuất. Còn doanh thu cũng là chỉ tiêu
tổng hợp phản ánh quy mô sản xuất kinh doanh của DN, hoặc của ngành sản xuất,
đồng thời qua chỉ tiêu này sẽ chứng tỏ được đơn vị đã sản xuất và kinh doanh
những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường hay không.

1.1.4.2 Phát triển xuất khẩu
Phát triển xuất khẩu hàng TCMN trước hết là tăng kim ngạch xuất khẩu,
đồng thời là việc phát triển các mặt hàng TCMN xuất khẩu mới, thay đổi cơ cấu mặt
hàng xuất khẩu theo hướng tăng sản phẩm có giá trị gia tăng cao, là việc mở rộng
thị trường đã có, khai thác phát triển thị trường xuất khẩu mới.

1.1.4.3 Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
- Nâng cao năng suất lao động: Đây là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng lao
động, đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) với
lao động để sản xuất ra nó. Năng suất lao động là một trong những yếu tố quan
trọng tác động tới sức cạnh tranh, đặc biệt năng suất lao động lại phản ánh yếu tố
chất lượng người lao động - yếu tố cốt lõi của sự phát triển trong sự cạnh tranh toàn
cầu, sự phát triển của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức hiện nay.
- Tăng lợi nhuận sản xuất kinh doanh hàng TCMN: Lợi nhuận là một chỉ tiêu
chất lượng phản ánh tổng hợp kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh trong một


23

năm, nó biểu hiện kết quả sự phấn đấu của các đơn vị thực hiện các biện pháp về
mặt tổ chức, kinh tế, kỹ thuật; đồng thời cũng thể hiện sự tác động của các điều kiện
liên quan đến hoat động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận là nguồn gốc để các đơn vị

tích luỹ tái đầu tư phát triển sản xuất, là điều kiện để góp phần nâng cao đời sống và
điều kiện làm việc của người lao động, thực hiện các nghĩa vụ đối với ngân sách.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn qua việc nâng doanh thu trên vốn, tỷ suất
lợi nhuận bình quân trên vốn, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu …

1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất
khẩu ở địa phương
Có nhiều nhân tố tác động đến sự phát triển hàng TCMN xuất khẩu ở địa
phương và các nhân tố này tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. [9], [12]

1.1.5.1 Các điều kiện nhân tố sản xuất
- Điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý, đất đai, đặc biệt là các nguồn tài nguyên
thiên nhiên là những nguồn lực và là cơ sở của lợi thế so sánh của mỗi vùng, miền
nói chung và sản xuất của ngành hàng nói riêng. Các điều kiện tự nhiên sẽ quyết
định khả năng của nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể khai thác để chế biến xuất
khẩu, nó ảnh hưởng đến lợi thế so sánh của sản phẩm.
Các yếu tố địa lý, địa hình, vị trí của nơi sản xuất trong quan hệ với hệ thống
giao thông trong nước và quốc tế cũng như khoảng cách tới thị trường xuất khẩu sẽ
có ảnh hưởng quyết định đến chi phí vận tải và thời gian cần thiết đưa hàng hoá đến
nơi nhập khẩu. Vị trí địa lý thuận lợi cũng sẽ tạo cho sự giao lưu kinh tế, mở rộng
hợp tác, phát triển thị trường… tạo điều kiện cho sự phát triển hàng TCMN xuất
khẩu.
- Vốn cho sản xuất kinh doanh: Đây là nguồn lực quan trọng của quá trình
sản xuất kinh doanh. Các cơ sở muốn đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất, đầu tư
trang thiết bị mới, đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường v.v… đều phải cần đến
nhu cầu vốn. Vốn nhiều hay ít do nhu cầu quy mô, đặc điểm sản xuất sản phẩm của
các ngành nghề. Ngày nay các ngành sản xuất đang phát triển theo xu thế hiện đại,


24


đa dạng, chuyên môn hóa, sản phẩm hàng loạt… thì nhu cầu về vốn là rất lớn. Sự
đáp ứng về vốn có một ý nghĩa quyết định cho sự phát triển sản xuất kinh doanh.
- Nguồn nhân lực: Những nghệ nhân, chủ cơ sở và những người thợ thủ công
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển hàng TCMN xuất
khẩu. Những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề là những người truyền nghề,
dạy nghề, đồng thời là những người sáng tạo ra các sản phẩm độc đáo. Ngoài vấn đề
công nghệ, kỹ thuật sản xuất, tay nghề của người thợ làm ra sản phẩm TCMN là
một yếu tố rất quan trọng trong sản xuất, gia công hàng TCMN xuất khẩu vì nó ảnh
hưởng đến chất lượng, giá thành sản phẩm...
Đối với ngành TCMN xuất khẩu, cùng với chất lượng nguồn nhân lực cho tổ
chức sản xuất thì chất lượng nguồn nhân lực cho các hoạt động xúc tiến thương mại
cũng có ảnh hưởng lớn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm TCMN, nhất là xuất khẩu.
- Nguyên vật liệu: Để có thể mở rộng sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN,
vấn đề quan trọng mà các đơn vị sản xuất kinh doanh phải quan tâm đó là khả năng
đáp ứng nguồn nguyên liệu. Chính khả năng đáp ứng của các nguồn cung cấp
nguyên liệu về quy mô, chất lượng, cơ cấu chủng loại sẽ là nhân tố cơ bản quyết
định quy mô, chất lượng, cơ cấu, sản phẩm xuất khẩu.
Sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương trước đây là đặc điểm của
làng nghề TCMN và là nhân tố góp phần hình thành lên các làng nghề. Hiện nay,
khả năng nguồn nguyên liệu tại chỗ thường không đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất
nên các đơn vị sản xuất phải sử dụng nguồn nguyên liệu từ nơi khác. Do vậy khối
lượng, chất lượng, chủng loại và khoảng cách nguồn nguyên liệu có ảnh hưởng trực
tiếp tới chất lượng, giá thành, lợi nhuận của các cơ sở sản xuất. Khả năng đáp ứng
nguyên liệu cho sản xuất là nhân tố tác động đến sự phát triển ngành hàng TCMN.
- Trình độ kỹ thuật và công nghệ: Để sản phẩm có thể thâm nhập và cạnh
tranh được trên thị trường xuất khẩu thì sản phẩm phải có khả năng đáp ứng được
những yêu cầu của thị trường về chất lượng. Các sản phẩm TCMN truyền thống chủ
yếu được sản xuất bằng tay với những công cụ thô sơ và kinh nghiệm truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Tuy nhiên, khi khoa học kỹ thuật phát triển thì hàng



25

TCMN không hẳn là hoàn toàn được sản xuất bằng tay mà đã có sự tham gia của
thiết bị, máy móc. Chính kỹ thuật và công nghệ sản xuất sẽ quyết định khả năng đó.
- Kết cấu hạ tầng: Sản phẩm TCMN được sản xuất chủ yếu ở các làng nghề
nông thôn, cụm công nghiệp, điểm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nông thôn.
Các làng nghề chỉ có thể phát triển mạnh ở những nơi có hệ thống kết cấu hạ tầng
đảm bảo và đồng bộ. Hệ thống giao thông vận tải, hệ thống cung cấp điện, nước,
thoát nước, bưu chính viễn thông v.v… cũng có ảnh hưởng rất lớn tới phát triển của
các làng nghề, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn, những hạ tầng này tạo điều kiện cho áp dụng các tiến bộ khoa học công
nghệ, giảm thiểu ô nhiễm mỗi trường, góp phần phát triển KT-XH bền vững.
- Yếu tố truyền thống: Yếu tố này cũng có vai trò ảnh hưởng nhất định đến
sự phát triển ngành hàng TCMN xuất khẩu. Trong các làng nghề TCMN truyền
thống có các nghệ nhân, thợ cả có tay nghề cao là những hạt nhân để bảo tồn duy trì
và phát triển. Những nét độc đáo của sản phẩm truyền thống gắn liền với đặc trưng
văn hóa của từng làng nghề là những giá trị vô hình tạo nên sự tồn tại phát triển của
sản phẩm TCMN. Những luật lệ, quy ước, phong tục tập quán của các làng nghề có
thể thúc đẩy và cũng có thể kìm hãm sự phát triển. Những yếu tố truyền thống phải
được kết hợp chặt chẽ với việc tiếp thu những yếu tố mới, đặc biệt là về khoa học
công nghệ, thị trường hội nhập và cạnh tranh… để sản phẩm TCMN vừa giữ được
bản sắc văn hóa dân tộc vừa được thị trường tiếp nhận và thúc đẩy phát triển.

1.1.5.2 Thị trường tiêu thụ sản phẩm
- Thị trường xuất khẩu: Khả năng sản xuất, xuất khẩu hàng TCMN trước hết
phụ thuộc vào nhu cầu về sản phẩm, đồng thời sản phẩm cũng phải có khả năng đáp
ứng được các đòi hỏi của thị trường về mẫu mã, chất lượng, giá cả...
Sự tồn tại và phát triển hàng TCMN xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào sự biến

động của thị trường, sản phẩm có khả năng đáp ứng và thích ứng với sự thay đổi
của thị trường thì có khả năng phát triển. Chính thị trường đã tạo định hướng để
phát triển sản phẩm. Người sản xuất phải hướng ra thị trường, xuất phát từ quan hệ
cung cầu, từ nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng để hoạch định, tổ chức sản xuất


×