Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

các dụng cụ và vật liệu dùng trong gãy xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.64 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHÒNG QUẢN LÝ SAU ĐẠI HỌC

BÀI THI
Môn: BỆNH NGOẠI KHOA GIA SÚC
Hình thức thi: VIẾT TIỂU LUẬN

Chủ đề:

“CÁC DỤNG CỤ VÀ VẬT LIỆU HIỆN SỬ DỤNG TRONG
ĐIỀU TRỊ GÃY XƯƠNG Ở VIỆT NAM”

Giảng viên: TS. Phan Thị Hồng Phúc
Học viên: Lương Anh Đức
Lớp: Cao học Thú y K22

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2015


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy xương là tổn thương thường gặp trong ngoại khoa. Nguyên nhân chủ yếu
là do chấn thương. Gãy xương gặp ở mọi lứa tuổi:
- Trong nhân y: Người già gãy xương chủ yếu do tai nạn trong sinh
hoạt(xương dòn, dễ gãy), người trẻ gãy xương chủ yếu do tai nạn(tai nạn giao
thông, tai nạn lao động, thi đấu thể thao..).

Gãy xương do loãng xương
Gãy xương trong thi đấu bóng đá
Trong thú y: Gia súc gãy xương chủ yếu do bị tác động cơ giới(đánh, ngã...),
gãy xương do chăm sóc nuôi dưỡng(thiếu ca, photpho).
Điều trị gãy xương là hồi phục hình thái của xương bị gãy cho được hoàn hảo,


nhờ đó hồi phục chức năng của xương bị gãy.
Điều trị gãy xương có hai trường phái: Y học cổ truyền và y học hiện đại, mỗi
trường phái đều có đặc điểm, lý luận, ưu và nhược điểm riêng. Tuy nhiên theo trường
phái nào cũng cần phải có các dụng cụ và vật liệu trợ giúp đắc lực trong điều trị gãy
xương.

Điều trị gãy xương theo phương pháp

Điều trị gãy xương thep phương

YHCT

pháp YHHĐ


Từ vấn đề nêu trên, em tiến hành nghiên cứu chuyên đề: Các dụng cụ và vật
liệu hiện sử dụng trong điều trị gãy xương ở Việt Nam.
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Các dụng cụ và vật liệu trong điều trị gãy xương ở Việt Nam theo phương
pháp y học cổ truyền
Phương pháp điều trị gãy xương bằng y học cổ truyền là phương pháp có từ
lâu đời của người dân Trung Quốc, Việt Nam. Phương pháp này được truyền từ đời
trước cho đời sau theo kiểu gia truyền. Các thày thuốc nam nổi tiếng chữa gãy
xương thường là đồng bào dân tộc thiểu số như: Tày, Nùng, Dao...Phương pháp y
học cổ truyền chủ yếu dùng nẹp tre và các loại thuốc lá cây trong rừng, gạo nếp, gà
con...có tác dụng cố định xương, giảm đau, giảm sưng phù nề và nhanh liền xương.
Những vật liệu thường dùng là nẹp, bao vải bọc nẹp, mành, đệm, dây buộc,
bông, băng keo, dụng cụ kéo, bản kim loại, quang cao su...Trong đó có các loại
dụng cụ chính như sau:
1.1. Nẹp

Nẹp là một dụng cụ quan trọng dùng cố định xương gãy theo phương pháp
YHCT.
* Nguyên liệu: Nẹp có thể làm từ nhiều loại vật liệu khác nhau như gỗ, vỏ cây,
bìa cứng, mo cau...và thông dụng nhất là làm bằng tre hoặc cây họ tre.
* Tiêu chuẩn kỹ thuật:
- Nẹp phải có đủ độ rắn làm giá đỡ cho xương gãy, lại cần có độ dẻo và độ
đàn hồi nhất định, thích hợp cho áp lực nội bộ vùng bó khi co cơ tập luyện sinh ra.
- Hình dáng thích hợp nơi vùng bó.
- Kích thước dài, rộng tương ứng theo yêu cầu cố định, sao cho sau khi bó khe
giữa các nẹp khoảng 1cm.
- Được bọc hoặc đệm êm tránh thương tổn do chèn ép lên da.
* Phương pháp chế tạo: Tuỳ loại nguyên vật liệu khác nhau mà có phương
pháp chế tạo khác nhau. Ở Việt Nam, nẹp chủ yếu được chế từ nẹp tre.


- Chọn tre: Tre tốt là loại tre bánh tẻ (tre không già quá, cũng không non quá),
tuổi tre khoảng 1,5 - 2 năm, ngoài vỏ còn màu xanh, các cành ngang (thường gọi là
tay tre) phần gần gốc đã trưởng thành, không còn tay tre nào dưới dạng măng, vỏ
thân cây có bọc lớp phấn ngà, các đốt tre dài đủ chiều dài của nẹp định làm.
- Khi tre quá già, lá vàng úa, thân tre chuyển vàng, ngoài phủ phấn như bùn
đất là loại tre cứng, chắc, nhưng khó định hình sau uốn.
Chú ý: Không dùng tre cụt ngọn (tre bị gió bão làm gãy ngọn khi đang còn là
cây măng). Loại tre này chất mềm, giòn, uốn dễ gãy và tính đàn hồi kém.
Cách làm: Chẻ tre thành phiến mỏng độ 4 - 5mm, bản rộng 3-5cm.
Cho tre vào đun sôi trong nước muối loãng 10 - 15 phút để trừ mối mọt rồi
đưa ra hơ nóng, nước trong nẹp sôi xèo xèo rồi hết sôi, phiến tre trở nên tương đối
dẻo là có thể cho vào khuôn hoặc uốn thủ công theo hình dáng yêu cầu. Sau khi uốn
xong, nhúng phần đã uốn vào cồn 70 - 90% hoặc dung môi hữu cơ (có thể dùng
dấm) để định hình.
1.2. Mành

Được làm từ các nan tre, nứa. Nan có bề rộng từ 5- 10mm, dày khoảng 1mm
được liên kết với nhau bằng lạt giang. Đến sau này được cải tiến cho vào túi vải
quấn vào nơi cần cố định.
1.3. Đệm
Đệm cố định cũng là một thành phần quan trọng cùng với nẹp trong cố định
xương gãy. Mục đích chính của đệm là phòng di lệch thứ phát và phần nào đó giúp
cho sự chỉnh phục thêm hoàn thiện.
* Nguyên liệu: Đệm thường được làm bằng giấy bản gấp xếp nhiều lần.
* Tiêu chuẩn kỹ thuật:
- Êm, hút ẩm và không kích thích da.
- Hình dáng kích thước phù hợp nơi vùng đệm: Đệm cố định to, nhỏ, dày,
mỏng, hình dáng… đều nhằm tác dụng lực nơi vùng đệm. Đệm quá bé hoặc quá
nhỏ đều ảnh hưởng không tốt cho việc ổn định các đoạn xương gãy. Có thể phân
làm nhiều loại đệm và ứng dụng khác nhau.


* Các loại đệm:
- Đệm phẳng: Hình vuông hoặc hình chữ nhật là loại đệm hay sử dụng nhất,
(độ rộng nhỏ hơn nẹp và phụ thuộc nơi tiếp xúc; độ dài, căn cứ độ dài của chi gãy
và nơi đệm, đệm có thể dài khoảng 5 - 15cm; độ dày căn cứ vào độ dày và mạnh
yếu của tổ chức phần mềm nơi đệm mà định, thông thường đệm dày khoảng 1,5 4cm). Tổ chức phần mềm mỏng, nhão thì dùng đệm tương đối mỏng; tổ chức phần
mềm dày thì dùng đệm có kích thước dày.
+ Ứng dụng: Căn cứ vào hình dáng xương gãy, tình hình di lệch, nguyên lý
cơ lực học để đặt đệm cho phù hợp. Thường dùng phương pháp: Dùng 2 đệm, 3
đệm và 4 đệm.
+ Dùng 2 đệm: Thích dụng cho xương gãy có di lệch bên. Sau khi nắn chỉnh,
mỗi đệm được đặt phía đối lập của mỗi đoạn gãy.
+ Dùng 3 đệm: Thích dụng trong trường hợp xương gãy di lệch gấp góc. Sau
khi nắn chỉnh, 1 đệm đặt vào nơi đỉnh góc; 2 đệm còn lại đặt hai đầu xương gãy,
đối diện với đệm thứ nhất. Ba đệm hình thành đối lực phòng xương gãy tái di

+ Dùng 4 đệm: Thích dụng trong trường hợp xương gãy vừa có di lệch gấp
góc, vừa có di lệch bên - bên. Sau khi xương gãy được nắn chỉnh, tuỳ tình hình di
lệch của xương gãy mà sử dụng kết hợp phương pháp dùng hai đệm, ba đệm.
- Đệm tách xương: Thường dùng trong trường hợp gãy hai xương cẳng tay,
gãy xương bàn tay hoặc bàn chân. Sau khi nắn chỉnh, dùng bông hay giấy bản quấn
tròn thành đệm hình đũa đường kính 1 - 1,5cm, dài 610 cm làm đệm tách hai xương
đề phòng giữa các xương (ví dụ xương quay và xương trụ) không có khoảng cách
thích hợp làm ảnh hưởng đến cơ năng của nơi gãy. Khi đặt đệm cần đề phòng sự
chèn ép làm tổn thương nơi bị gãy.
- Đệm hợp cốt: Thích dụng trong trường hợp gãy mỏm khuỷu và gãy lồi cầu
trong xương cánh tay. Sau khi nắn chỉnh, dùng đệm phẳng, cắt khuyết hình bán
nguyệt đặt lên mảnh gãy phòng di lệch thứ phát.
- Đệm trống tâm: Dùng trong gãy lồi cầu trong, ngoài hoặc vỡ mâm chày, mắt
cá chân. Sau khi xương gãy được nắn chỉnh, phần trống tâm đệm sẽ được đặt lên


phần lồi của lối cầu hay mắt cá chân... đề phòng sự chèn ép cục bộ trên phần lồi lên
của xương gãy.
- Đệm nghiêng hay đệm bậc thang: Dùng đệm gần khớp, nơi phình to của
đoạn hành xương. Đệm hình nghiêng giúp cho đệm phù hợp khuôn chi nơi cần
đệm.
- Đệm hình lồi: Ứng dụng đệm các đầu nẹp. Căn cứ đầu nẹp và cục bộ nơi tiếp
xúc mà dùng đệm hình lồi một cách phù hợp.
- Đệm đầu lớn: Ứng dụng trong trường hợp gãy lồi cầu ngoài mà mảnh gãy
tách ra. Đệm đầu lớn được đặt trùm lên lồi cầu, còn bên đối diện đặt hai đệm bậc
thang.
- Băng keo: Làm bằng vải phết nhựa duối hoặc ngày nay dùng băng dính. Đối
với gãy xương có cơ lớn như xương đùi, băng keo dính da được kéo liên tục kết hợp
với bó nẹp.
- Vòng dây: Được sử dụng khi gãy vỡ xương bánh chè, vòng dây được đặt ôm

lấy xương bánh chè và dùng dây nịt cố định ra sau.
- Băng vải: Được dùng làm băng quấn cố định hoặc làm dây buộc.

Một số loại đệm, 2, 3, 4


Các loại đệm thường dùng


1.4. Các loại nẹp thường dùng
1.4.1. Nẹp tre
Được dùng phổ biến và thuận tiện ở tuyến địa phương. Có 4 bộ nẹp tre cho chi
trên, chi dưới theo quy cách sau:
+ Bộ nẹp cho cẳng tay: Gồm có 2 nẹp, rộng 5 cm, dày 0,5 - 0,7 cm, nẹp trước
dài 30 cm, nẹp sau dài 35 cm.
+ Bộ nẹp cho cánh tay: Gồm có 2 nẹp:
- Nẹp trong: Dài 20 cm, rộng 5 cm, dày 0,5 - 0,7 cm.
- Nẹp ngoài: Dài 35 cm, rộng 5 cm, dày 0,5 - 0,7 cm.
+ Bộ nẹp cho cẳng chân: Gồm 2 nẹp hoặc 3 nẹp, mỗi nẹp dài 60 cm, rộng 5 - 6
cm, dày 0,8 - 1 cm
+ Bộ nẹp cho đùi:


Gồm 3 nẹp:
- Nẹp sau: Đi từ trên mào chậu đến quá gót chân dài 100 cm, rộng 7 cm - 8
cm, dày 0,8 cm - 1 cm.
- Nẹp ngoài: Đi từ hố nách đến quá bờ ngoài bàn chân, dài 120 cm, rộng 7 cm
- 8 cm, dày 0,8 cm - 1 cm.
- Nẹp trong: Đi từ bẹn đến quá bờ trong bàn chân dài 80cm, rộng 7 cm - 8cm,
dày 0,8 cm - 1cm.

Các kích thước trên chỉ là trung bình, khi sử dụng, nếu cần phải cắt bớt cho
phù hợp với từng chi thể của người bị thương.
Các nẹp được bọc trước bằng bông mỡ hoặc giấy xốp cuốn băng xô, trên toàn
bộ chiều dài, bịt kín 2 đầu.

Nẹp tre
4.2. Nẹp Crame
Là loại nẹp làm bằng
sợi kẽm, bẻ uốn được, hình
bậc thang có nhiều kích

Nẹp Crame

thước thích hợp cho từng
đoạn chi.
Sử dụng nẹp Crame cũng cần có đủ các kích thước và cũng cần bọc lót bông
gạc như với nẹp tre.
Trong tình huống khẩn cấp mà không có nẹp đã chuẩn bị sẵn, có thể sử dụng
các phương tiện tùy ứng như cành cây, gậy gỗ, … cũng có thể cố định chi trên vào
thân hoặc buộc chi dưới gãy vào chi lành.


Trên thế giới còn có nhiều loại nẹp như: Nẹp lưới, nẹp Tô - mát, nẹp Diteric,
nẹp chất dẻo bơm hơi, rất thuận tiện nhưng ít phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, khí
hậu và điều kiện ở nước ta.


MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỐ ĐỊNH GÃY XƯƠNG BẰNG NẸP TRE VÀ NẸP
CRAME



2. Các dụng cụ và vật liệu trong điều trị gãy xương ở Việt Nam theo phương
pháp y học hiện đại
Trong y học hiện đại các phương pháp chữa gãy xương chủ yếu là nắn xếp lại
các tổ chức xương. Sau đó đóng đinh cố định hoặc bó bột cố định.
Các dụng cụ thường dùng được chế tạo hiện đại, khoa học phục vụ cho công
việc điều trị.
2.1. Đinh và nẹp vít điều trị gãy xương đùi trong điều trị gãy xương bằng phương
pháp đóng đinh kín
- Dùng để nẹp giữ xương cho chắc chắn, sau khi xương hồi phục sẽ mổ lấy
nẹp ra.
Phương pháp mới này đã bắt đầu được áp dụng tại Bệnh viện Việt Đức (Hà
Nội). Thay vì mổ hở như trước đây, các bác sĩ chỉ mở một lỗ nhỏ khoảng 5-7 cm ở
phía sau cánh tay rồi đưa đinh vào để cố định vết gãy. Việc nắn chỉnh xương và
đóng đinh được thực hiện dưới màn hình tăng sáng.


- Do không phải mở ổ gãy nên tránh được các biến chứng như nhiễm khuẩn,
tổn thương thần kinh quay trong mổ do phẫu thuật.
- Không phải lấy khối máu tụ ở ổ gãy và không động đến màng xương nên
xương liền nhanh hơn và ít tạo thành khớp giả.
- Thời gian mổ và nằm viện ngắn. Vết mổ nhỏ nên chăm sóc hậu phẫu đơn
giản, bệnh nhân ít đau, thuận lợi cho việc tập vận động phục hồi chức năng sau mổ.
- Phương pháp này còn ưu việt ở chỗ hạn chế tối đa phương tiện dụng cụ đặt
trong vùng ổ gãy hở, không cản trở và làm tổn thương phần mềm vùng lân cận
quanh vết thương, tạo điều kiên thuận lợi khi cần làm các thủ thuật bổ trợ để che
phủ khuyết hổng phần mềm, che phủ xương.
- Khi cần tháo bỏ phương tiện thì đơn giản và nhẹ nhàng. Hạn chế của phương
pháp là ở chỗ cần phải có màn tăng sáng, bàn chỉnh hình và đòi hỏi kinh nghiệm
của kíp phẫu thuật. Nhưng với sự phát triển kinh tế và trình độ y học ngày càng tiến

bộ chắc chắn sẽ khắc phục được những hạn chế trên ở các cơ sở chấn thương chỉnh
hình trên cả nước.
Xương sau khi liền tốt (khoảng 2-3 tháng) thì mọi thứ sẽ dần dần trở về bình
thường. Nếu bạn chịu khó tập vật lý trị liệu tăng cường sức cơ thì tay sẽ bình
thường.
Về vấn đề ăn uống thì không có kiêng cữ gì cả (đối với tây y). Không nên kiêng
cữ quá mức gây thiếu chất sẽ làm khó lành xương. Một số người khuyên nên ăn các
chất có chứa nhiều canxi như rau xanh, phô mai…theo chúng tôi thì điều này cũng
tốt thôi mặc dù chẳng có công trình khoa học nào chứng minh tính ưu việt của các
thực phẩm chứa nhiều can xi cho sự lành xương. Hãy ăn như cách bạn đã ăn trước
khi bị gãy xương ngoại trừ không nên hút thuốc lá (làm chậm lành xương), hạn chế
bia rượu.
Sau khi xương lành thì xem như kết thúc điều trị. Bạn có thể tham gia các môn
chơi thể thao để tăng cường sức khỏe cho hệ cơ xương khớp. Chơi môn nào cũng
tốt, vấn đề là chọn môn nào cho phù hợp sở thích, tuổi tác, điều kiện cuộc sống của
bạn.


MỘT SỐ DỤNG CỤ TRONG ĐIỀU TRỊ GÃY XƯƠNG
BẰNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG ĐINH RÚT TỦY

2.2. Điều trị gãy xương bằng phương pháp bó bột
Bó bột nói chung hay các biện pháp bất động khác là một trong những
phương pháp điều trị gãy xương bên cạnh điều trị phẫu thuật. Đối với gãy
xương, điều trị phẫu thuật có những thuận lợi là giúp bệnh nhân vận động các
khớp sớm, sự phiền toái ít, tuy nhiên điều trị phẫu thuật có những nguy cơ
nhất định nên trong một số trường hợp có thể, việc điều trị gãy xương bằng bó
bột đem lại những hiệu quả và ưu điểm vượt trội. Tuy nhiên, một trong những
phiền toái của bó bột là ảnh hưởng đến vận động của các khớp và làm yếu sức
cơ, do đó phục hồi vận động sau bó bột là một trong những nội dung điều trị

cần được quan tâm và thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Nếu bó bột lâu, sẽ đảm
bảo được sự liền xương nhưng sẽ làm tăng nguy cơ cứng khớp và việc tập
luyện sẽ khó khăn. Nếu tháo bột sớm, tập vận động sớm thì sẽ giảm nguy cơ
cứng khớp nhưng nếu đánh giá không tốt, có thể có nguy cơ di lệch ổ gãy thứ
phát nếu ổ gãy liền chưa tốt. Do đó, việc tập phục hồi chức năng sau bó bột đòi


hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa bệnh nhân, bác sỹ phục hồi chức năng và bác sỹ
chấn thương chỉnh hình mới có thể đạt được kết quả tốt nhất được.

Jack Evill, vừa tốt nghiệp Đại học Victoria tại New Zealand, chia sẻ với Wired
rằng phương thức chữa trị gãy xương tay chân bằng bó bột hiện tại khá "cổ xưa".
Anh muốn hiện đại hóa quá trình này với công nghệ hiện đại: in 3D.

Khung bó bột cotex
Theo Mashable, Evill đã chế tạo ra khung bó bột Cortex, một bộ xương ngoài
thoáng khí, trọng lượng nhẹ, có thể tái chế và dễ vệ sinh mô phỏng theo các thớ cơ của
cơ thể, một cấu trúc tương tự tổ ong mà tạo nên cấu trúc xương bên trong của bạn.
Khung bó bột này giúp không khí lưu thông tiếp xúc với da thịt nhiều hơn,
tránh ngột ngạt dẫn tới cảm giác ngứa.


III. KẾT LUẬN
Gãy xương là một bệnh ngoại khoa xảy ra ở cả nhân y và thú y. Để điều trị
gãy xương cần có các dụng cụ, vật liệu hỗ trợ quan trọng. Trong y học cổ truyền và
y học hiện đại đều sử dụng những dụng cụ, vật liệu riêng, và có những ưu nhược
điểm riêng.
Ví dụ:
- Dụng cụ dùng trong y học cổ truyền dễ tìm kiếm, dễ làm, giá thành rẻ, có thể
điều trị ở những nơi không có điều kiện đầy đủ. Tuy nhiên thường chỉ dùng một lần

điều trị
- Dụng cụ dùng trong y học hiện đại phải đặt mua sắm, giá thành khá cao.
Đồng thời chỉ dùng điều trị tại các bệnh viện, trạm xá. Tuy nhiên dùng được điều trị
trong thời gian dài, dùng nhiều lần.
Trên thực tế ứng dụng trong thú y cần dựa vào điều kiện sẵn có cũng như đối
tượng vật nuôi để lựa chọn phương pháp điều trị cũng như dụng cụ, vật liệu hỗ trợ
cho hợp lý.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Tiến Hưng (2015), Đánh giá tác dụng của kem"LX1" trên bệnh nhân
sau mổ gãy kín thân xương cẳng chân, Luận án tiến sĩ y khoa, Trường đại học y Hà
Nội.
2. Lê Quang Trí (2014), Điều trị gẫy liên mấu chuyển xương đùi người già
bằng khung cố định ngoài, Luận án tiến sĩ y khoa, Trường đại học y dược TP Hồ
Chí Minh.
3.

Http://www.thuocbietduoc.com.vn/hoi-dap-7-0-2378/dieu-tri-gay-xuong-

bang-phau-thuat-dong-dinh-kin.aspx.
4. Http://yduochoc.vn/Ngoai-khoa-dong-y/Thuoc-dong-y-dieu-tri-gay-xuongtrong-ngoai-khoa-y-hoc-co-truyen.htm



×