Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

bệnh tiêm mao trùng ở trâu, bò, ngựa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.07 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHÒNG QUẢN LÝ SAU ĐẠI HỌC

BÀI THI
Môn: KÝ SINH TRÙNG THÚ Y
Hình thức thi: VIẾT TIỂU LUẬN

Chủ đề:

“BỆNH TIÊN MAO TRÙNG Ở TRÂU, BÒ, NGỰA”

Giảng viên: GS.TS. Nguyễn Thị Kim Lan
Học viên: Lương Anh Đức
Lớp: Cao học Thú y K22

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2015


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở các tỉnh có diện tích chăn thả và diện tích đồng cỏ rộng chăn nuôi đại gia súc là
một thế mạnh. Chăn nuôi đại gia súc đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân vì:
- 70 - 80% thức ăn có nguồn gốc tự nhiên (thức ăn xanh)
- Đại gia súc ít mắc bệnh hơn lợn và gia cầm.
- Thị trường luôn ổn định.
Trên thực tế chăn nuôi, đại gia súc thường hay mắc các bệnh sau:
- Bệnh truyền nhiễm: Tụ huyết trùng, Lở mồm long móng
- Bệnh nội khoa: Hội chứng đau bụng (ở ngựa), cảm nắng - cảm nóng (ở
trâu, bò, ngựa), viêm phổi...
- Bệnh ngoại khoa: Chủ yếu do tác động cơ giới.
- Bệnh sản khoa: Sảy thai, đẻ khó, sát nhau, viêm tử cung...
- Bệnh nội, ngoại ký sinh trùng và ký sinh trùng đường máu.


Trong các bệnh do ký sinh trùng gây ra, bệnh tiên mao trùng là bệnh thường
xảy ra và gây thiệt hại khá lớn cho người chăn nuôi.
II. TỔNG QUAN
2.1. Đặc điểm chung
Bệnh tiên mao trùng được Blanchard (1888) phát hiện đầu tiên ở Việt Nam. Sau
đó, bệnh được xác định là phổ biến ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Bệnh do
loài tiên mao trùng Trypanosoma evansi gây ra. Trâu, bò mắc bệnh dễ chết hoặc thiếu
máu, suy nhược, giảm hoặc mất khả năng sinh sản và sức sản xuất.
2.1.1. Vị trí của tiên mao trùng Trypanosoma trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Levine et al (1980) (dẫn theo Lương Văn Huấn và cs, 1997), vị trí của
tiên mao trùng trong hệ thống phân loại nguyên bào (Protozoa) như sau:
Ngành Sarcomastigophora
Phân ngành Mastigophora
Lớp Zoomastigophorasida
Bộ Kinetoplastorida
Phân bộ Trypanosomatorida


Họ Trypanosomatidae Doflein, 1901
Giống Trypanosoma Gruby, 1843
Phân giống Megatrypanum Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (M) theileria
Phân giống Herpetosoma Doflein, 1901
Loài Trypanosoma (H) lewisi
Phân giống Schizotrypanum Chagas, 1909
Loài Trypanosoma (S) cruzi
Phân giống Duttonella Chalmers, 1918
Loài Trypanosoma (D) vivax
Loài Trypanosoma (D) uniform
Phân giống Nannomonas Hoare, 1964

Loài Trypanosoma (N) congolense
Loài Trypanosoma (N) siminae
Loài Trypanosoma (N) vanhogi
Phân giống Trypanozoon Liihe, 1906
Loài Trypanosoma (T) brucei
Loài Trypanosoma (T) gambience
Loài Trypanosoma (T) rhodesiense
Loài Trypanosoma (T) equiperdum
Phân giống Pycnomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (P) suis
Phân giống Trypanosoma Gruby, 1843
Loài Trypanosoma evansi (Steel, 1885)
Theo phân loại trên, trong một giống có thể có một số giống phụ. Trường
hợp này, tên cùa loài tiên mao trùng gồm tên giống + tên giống phụ + tên loài. Tuy
nhiên, để ngắn gọn, người ta gọi tên các loài tiên mao trùng bằng tên giống + tên
cuối của loài. Ví dụ, T. brucei, T. evansi...


Trong các loài tiên mao trùng trên, có 7 loài được tổ chức dịch tễ quốc tế
(OIE) thông báo là có khả năng gây bệnh cho người và động vật có vú, đó là: T.
brucei, T. congoỉense, T. cruzi, T. evansi, T. gambiense, T. siminae, T. vivax.
2.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của tiên mao trùng
Tiên mao trùng T. evansi được xếp vào loại đơn hình thái, cơ thể chỉ là một
tế bào, có kích thước nhỏ, chiều dài 18 - 34 micromet (trung bình là 25 micromet),
chiều rộng 1,5 - 2 micromet. Cơ thể có hình sợi chỉ mảnh hoặc hình thoi, cuối thân
nhọn.
Nhìn chung, cấu trúc cơ bản của T. evansi cũng giống như cấu trúc của các
loài tiên mao trùng khác thuộc họ Trypanosomatidae, cấu trúc từ ngoài vào trong
được chia thành 3 phần chính:
- Vỏ: Ngoài cùng là lớp vỏ dày 10 - 15nm, vỏ được chia làm 3 lớp (lớp ngoài

và lớp trong cùng tiếp giáp với nguyên sinh chất dầy hơn lớp giữa). Lớp vỏ ngoài
cùng được cấu tạo từ các phân từ glycoprotein luôn biến đồi (Variant Glycoprotein
Surface - VGS). Tiếp giáp với lớp trong cùng là 9 cặp vi ống xếp song song dọc
theo chiều dài thân tiên mao trùng. Chính nhờ sự sắp xếp cùa các cặp vi ống nên
tiên mao trùng có dạng hình sợi chỉ mảnh (Hoare, 1972; Phạm Sỹ Lăng, 1982;
Nguyễn Quốc Doanh, 1999).
- Nguyên sinh chất: Gồm lớp trong và lớp ngoài. Trong nguyên sinh chất có
chứa các nội quan: Ribosome có màu thẫm xen kẽ vùng không bào màu sáng,
kinetoplast (thể cơ động), mitochrondrio, reticulum (lưới nội bào) và mạng lưới
golgi.
- Nhân: Nhân tiên mao trùng có chứa ADN, hình bầu dục hoặc hình trứng.
Nhân thường nằm ở vị trí trung tâm hoặc gần vị trí trung tâm cơ thể. Ngoài nhân, về
phía cuối thân còn có thể kinetoplast chứa AND (kADN). Từ kinetoplast có một roi
chạy vòng quanh thân lên đầu và ra phía ngoài cơ thể thành một roi tự do.
Roi của tiên mao trùng có lớp vỏ ngoài cùng giống lớp vỏ của thân. Trong
roi có 9 cặp vi ống ở xung quanh và một cặp ở trung tâm, xếp song song dọc chiều
dài roi (Hoare, 1972; Nguyễn Quốc Doanh, 1999).


2.1.3. Cấu trúc kháng nguyên của tiên mao trùng Trypanosoma evansi
Kháng nguyên của T. evansi gồm hai loại: Kháng nguyên ổn định (kháng
nguyên không biến đổi) và kháng nguyên biến đổi.
2.1.3.1. Kháng nguyên ổn định (kháng nguyên không biến đổi)
Phần lớn các thành phần kháng nguyên tiên mao trùng không biến đổi trong
quá trình sống ký sinh. Bằng phương pháp điện di miễn dịch huyết thanh thỏ tối
miễn dịch với T. evansi, Kageruka (1982) đã phát hiện tới 30 thành phần kháng
nguyên khác nhau. Có ba loại kháng nguyên không biến đổi ở màng nguyên sinh
chất tế bào (ISG: Invariant Surface Glycoprotein): ISG 65, ISG 75 và ISG 100. Do
cấu trúc không gian ba chiều và đặc tính ưa nước, các loại này không kết hợp với
kháng thể cùa vật chủ (Nolan, 1997).

2.1.3.2. Kháng nguyên biến đổi
Về kháng nguyên biến đổi, cần đề cập đến sự biến đổi lớp vỏ bề mặt VSG
(Variant Surface Glycoprotein), những quan điểm mới về sự xuất hiện kháng nguyên
biến đổi cùa tiên mao trùng và cơ chế di truyền của kháng nguyên biến đổi.
- Sự biến đổi lớp vỏ bề mặt VSG:
Nhờ kháng thể đặc hiệu được đánh dấu mà Vickerman và Luckins (1969) đã
phát hiện ra sự biến đổi cùa lớp kháng nguyên bề mặt. Cross (1975) đã mô tả lớp áo
bề mặt của tiên mao trùng có thành phần là glycoprotein bao phủ toàn bộ bề mặt tế
bào bàng một lớp phân tử giống nhau (mỗi tiên mao trùng có 107 phân từ). Lớp áo
bề mặt này kích thích cơ thể vật chủ tạo ra kháng thể đặc hiệu với từng type kháng
nguyên biến đổi VAT (Variable Antigen Type). Chỉ có kháng nguyên biến đổi mới
có khả năng kích thích vật chủ tạo miễn dịch chủ động. Người ta ước lượng rằng,
một con tiên mao trùng có ít nhất vài trăm hoặc vài nghìn VSG, nghĩa là 5 - 10% số
gen của tiên mao trùng cung cấp cho kháng nguyên bề mặt này.
- Quan điểm mới về sự xuất hiện kháng nguyên biến đổi cùa tiên mao trùng:
Nhiều tác giả nghiên cứu về miễn dịch học cho rằng, tiên mao trùng biến đổi
kháng nguyên bề mặt để né tránh miễn dịch đặc hiệu của vật chủ.
Tuy nhiên, Van Meirvenne (1975) cho biết, sự biến đổi kháng nguyên bề mặt
của ký sinh trùng đã có ngay ở pha đầu tiên cùa quá trình nhiễm (trước khi xuất


hiện đáp ứng miễn dịch của cơ thể vật chủ). Theo Haiduc và Vickerman (1981),
hiện tượng biến đổi kháng nguyên bề mặt của tiên mao trùng còn thấy ở gia súc đã
bị tiêm thuốc làm suy giảm miễn dịch. Những quan điểm này là hoàn toàn mới để lý
luận về sự xuất hiện kháng nguyên biến đổi của tiên mao trùng.
Như vậy, quan điềm về sự biến đổi kháng nguyên lớp vỏ cùa tiên mao trùng
cho đến nay vẫn chưa thống nhất.
- Cơ chế di truyền cùa kháng nguyên biến đổi:
Khi kháng thể đặc hiệu kết hợp với phân tử của kháng nguyên bề mặt (VSG),
làm tiêu tan tiên mao trùng thì đó cũng là nguyên nhân chính thúc đẩy sự hoạt hoá

của gen. Kết quả là các phân tử kháng nguyên VSG được thay đổi hoàn toàn bàng
các phân tử VSG mới. Lúc này, kháng thể đặc hiệu lúc trước đã không còn tác dụng
đối với kháng nguyên mới này.
Theo Barry và Tumer (1991), Pays và cs (1994), Vanhamme và cs (1995),
các VSG được mã hoá nhờ các gen chuyên biệt. Từ kho chứa hàng nghìn gen khác
nhau, một gen VSG được hoạt hoá một cách chọn lọc, dẫn đến tổng hợp ra một loại
kháng nguyên VSG. Mỗi gen VSG mới tạo ra một loại kháng nguyên VSG mới.
Trong bộ gen của tiên mao trùng tồn tại một số lớn gen VSG, các gen này sừ dụng
nhiều cơ chế sẳp xếp khác nhau, do vậy tiên mao trùng đã tạo ra nhiều VSG khác
nhau ở gia súc bị bệnh mãn tính.
Cơ chế biến đổi kháng nguyên theo 2 cách: Cách thứ nhất là sử dụng lần lượt
các điểm biểu hiện gen (expression side) khác nhau, không có sự sắp xếp của ADN.
Các điểm biểu hiện khác nhau sẽ mang các gen VSG khác nhau, sự luân phiên này
dẫn đến sự thay đổi type kháng nguyên. Cơ chế này quan sát được chủ yếu ở giai
đoạn đầu của quá trình cảm nhiễm. Có lẽ ở giai đoạn đầu này chưa có đáp ứng miễn
dịch của vật chủ đối với VSG, chính điều này không gây ra một cản trở hoạt hoá tự
nhiên của các điểm biểu hiện gen này. Cách thứ hai là tập hợp lại các đoạn ADN
khác nhau để tái tổ hợp gen, mà việc tái tổ hợp này cho phép thay thế hoàn toàn
hoặc từng phần gen; hoặc việc thay thế diễn ra dựa vào sự chuyển đổi gen chứ
không phải dựa vào tái tổ hợp gen. Trường hợp này được diễn giải như sau: Một


gen hoạt hoá được thay thế bằng bản sao chép của một gen khác. Do có sự thay thế
một phần của gen nên đã tạo ra loại gen phức hợp và đặc trưng.
2.1.4 Đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng
2.1.4.1. Phân bố của bệnh
Bệnh tiên mao trùng phân bố rất rộng, từ phía tây sang phía đông bán cầu.
Phía tây bán cầu thuộc châu Mỹ, phía đông bán cầu trải dài từ châu Phi cho đến
Philippine. Theo Euzeby (1984), bệnh phổ biến ở trâu, bò, ngựa các nước nhiệt đới
ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ.

Ở châu Phi, bệnh trải dài từ Tây sang Đông, phía Bắc qua vùng sa mạc
Sahara, dọc theo bờ biển Atlantique - Địa Trung Hải.
Bệnh tiên mao trùng xảy ra với tên gọi "bệnh Surra" ở Ả rập Saudi, Yêmen,
Sultanate, À Rập thống nhất, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Syrie, Afganistan, Pakistan.
Ở châu Á, bệnh xuất hiện ở Trung Á (thuộc Liên Xô cũ), Ấn Độ, Malaysia,
bán đảo Đông Dương, Trung Quốc, Indonesia, Philippine.
Ở châu Âu, bệnh xuất hiện ở Bungaria (nay đã được thanh toán), hiện chi
còn ở vùng Volga và Nam Capcase (Liên Xô cũ).
Ở châu Mỹ, bệnh xuất hiện ở Trung Mỹ, Nam Mỹ, đặc biệt phổ biến ở
Brazil, Mexico, Venezuela, Colombia.
Châu ức cũng đã được xác định là có bệnh tiên mao trùng (Reid, 2002).
Losos G. T. (1972) cho rằng, bệnh tiên mao trùng phổ biến nhất ờ châu Á và
châu Phi, từ Ấn Độ đến Srilanca, Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Lào,
Camphuchia, Iran, Philippine.
Ở Việt Nam, bệnh tiên mao trùng thấy ở hầu hết các vùng sinh thái khác
nhau: Miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển. Theo Phạm Sỹ Lăng (1982), bệnh
tiên mao trùng có ở tất cà các tỉnh miền Bắc (Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang,
Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Tây (cũ)). Trâu, bò nhiễm bệnh với tỷ lệ cao và thay
đổi giữa các vùng khác nhau (trâu, bò ở đồng bằng nhiễm tiên mao trùng cao hơn
vùng trung du và miền núi, đặc biệt ở trâu, bò có nguồn gốc từ miền núi chuyển
xuống vùng đồng bằng).


2.1.4.2. Vật chủ và vật môi giới truyền bệnh
Trong tự nhiên, tiên mao trùng ký sinh ở hầu hết các loài thú nuôi và thú
hoang, thấy nhiều hơn ở trâu, bò, ngựa, trâu bò rừng, hươu, nai, hồ, báo, sư tử, chó,
mèo, lạc đà, voi, thỏ, chuột cống, chuột lang, chuột bạch..., nhưng không ký sinh ờ
người. Lê Ngọc Mỹ và cs (1994) đã điều tra tình hình nhiễm tiên mao bùng ở trâu
bò Việt Nam. Kêt quả cho thây, trâu bò nhiễm tiên mao trùng với tỷ lệ cao
(21,27%), trong đó trâu bò nuôi ở các tỉnh miền núi phía Bắc nhiễm T. evansi cao

hơn ở đồng bằng. Theo Lê Đức Quyết và cs (1995), Phạm Chiến (1999), trâu ở một
số tỉnh miền Nam và Tây Nguyên nhiễm tiên mao trùng là 22,12%; bò là 6,6 10,3%. Phan Lục và cs (1995) cho biết, tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng của bò ở một số
địa phương miền Bắc là 5,9%. Theo Hà Viết Lượng (1998), tỷ lệ bò nhiễm tiên mao
trùng ở các tỉnh miền Trung là 8,99%.
Sự lây truyền tiên mao trùng từ trâu, bò ốm sang trâu, bò khoẻ là nhờ các
loài ruồi hút máu (thuộc họ phụ Stomoxydinae) và các loài mòng hút máu (thuộc họ
Tabanidae). Ruồi và mòng hút máu của gia súc bị bệnh, hút luôn cả tiên mao trùng
vào vòi hút, sau đó lại hút máu gia súc khoè, trong khi hút máu sẽ truyền tiên mao
trùng từ vòi hút vào máu con vật khoẻ. Sự lây truyền này mang tính chất cơ học.
Như vậy, ruồi và mòng hút máu là những vật môi giới truyền bệnh tiên mao trùng
quan trọng.
Theo Phan Địch Lân (1974, 1994, 2004), phần lớn các loài mòng tập trung ở
khu vực miền núi và trung du. Trong 53 loài mòng thì có tới 44 loài phân bố ở vùng
rừng núi có độ cao dưới 1.000 mét so vói mặt nước biển, càng lên cao số loài càng
ít dần (độ cao trên 1.000 mét chỉ có 26 loài). Ở vùng trung du (rừng thưa, độ cao
không quá 500 mét so với mặt nước biển có 27 loài; vùng đồi trọc chi có 9 - 11 loài;
vùng rừng núi ven biển phát hiện chỉ có 8 loài.
Những loài mòng phổ biến ờ tất cả các vùng là: Tabanus rubidus, T. striatus,
Chrysops dispar, Chrysozoma assamensis.
Những loài mòng chỉ gặp ờ vùng núi là: Tabanus fiavistriatus, T. fumifer,
Chrysops vander.


Miền Bắc nước ta có 4 loài ruồi hút máu, 2 loài phổ biến ở tất cả các vùng là
Stomoxys calcitrans và Liperosis exigua; 2 loài chỉ thấy ở những vùng sinh cảnh
đặc biệt là loài Bdellolarynx sanguinolentus (chỉ xuât hiện ở vùng có độ cao dưới
1.000 mét) và loài Stomoxys indica (chỉ thấy ở vùng núi cẩm Thuỷ - Thanh Hoá).
Phan Địch Lân (1994, 2004) cho biết, kiểm tra ở nhiều địa điểm thấy hai loài
mòng T. rubidus và T. striatus mang tiên mao trùng với tỷ lệ 15,2% và 14,0%; ruồi
hút máu Stomoxys calcitrans mang tiên mao trùng với tỷ lệ 12,5%. Ở những vùng

đang có bệnh tiên mao trùng, kiểm tra ruồi và mòng hút máu dễ dàng tìm thấy tiên
mao trùng.
Sau khi theo máu vào vòi hút ruồi và mòng, tiên mao trùng vẫn sống đến giờ
thứ 53, thời gian hoạt động mạnh nhất là từ giờ thứ nhất đến giờ thứ 34, trung bình
là 24 giờ. Sự hoạt động của tiên mao trùng yếu dần từ giờ thứ 35 - 42. Từ 46 - 53
giờ thì tiên mao trùng ngừng hoạt động.
Hình thái tiên mao trùng khi ở trong vòi ruồi, mòng biến đổi theo thời gian:
từ 1 - 34 giờ có hình thái, kích thước bình thường; 35 - 45 giờ: tiên mao trùng có
hình dạng thay đổi, tăng kích thước chiều rộng và thô dần; 46 - 53 giờ: tiên mao
trùng trương to, duỗi thẳng, mất khả năng di động và ngừng hẳn hoạt động.
Thực nghiệm đã chứng minh khả nàng gây bệnh của tiên mao trùng sau khi
xâm nhập vào mòng Tabanus rubidus như sau: Thời gian từ giờ thứ 1 - 5, tiên mao
trùng có khả năng gây bệnh và làm chết chuột bạch tương tự như khi truyền thẳng
máu có tiên mao trùng cho chuột; từ giờ thứ 6 - 7 chỉ còn 30% số chuột thí nghiệm
phát bệnh, thời gian gây bệnh kéo dài và thời gian chết cùa chuột cũng dài. Điều
này có thể giải thích là, do độc lực của tiên mao trùng giảm dần và số lượng tiên
mao trùng còn hoạt lực gây bệnh cũng giảm dần sau khi chúng xâm nhập vào mòng
Tabanus rubidus.
2.1.4.3. Tuổi vật chủ, mùa mắc bệnh
Trâu, bò và các loài gia súc khác ở mọi lứa tuổi đều nhiễm tiên mao trùng và
đều phát bệnh, có thể dẫn đến tử vong hoặc suy nhược, thiếu máu, giảm sức đề
kháng, giảm khả năng sinh đẻ và sức sản xuất.


Phan Địch Lân (1994, 2004) đã tổng hợp kết quả điều tra 3.172 trâu ở các
tỉnh đồng bằng: trâu dưới 3 năm tuổi nhiễm thấp nhất (3,2 - 6,1%), trâu 3 - 5 tuổi
nhiễm cao hơn (10,6 - 12,7%), trâu 6 - 8 tuổi nhiễm cao nhất (12,9 - 14,8%), trâu
trên 9 năm tuổi tỷ lệ nhiễm giảm thấp hơn trâu 3 -8 năm tuổi.
Theo Phan Văn Chinh (2006), tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng cao nhất ở 4 - 8
năm tuổi (trâu 12,71%; bò 5,77%), thấp nhất là trâu, bò dưới 3 năm tuổi (6,92% và

2,31%)
Mùa lây lan bệnh thường xảy ra trong các tháng nóng ẩm, mưa nhiều (từ
tháng 4 - 9). Thời gian này điều kiện sinh thái thuận lợi cho các loài ruồi, mòng phát
triển, hoạt động mạnh, hút máu súc vật và truyền tiên mao trùng. Theo Luckins
(1988), sự xuất hiện lượng lớn ruồi, mòng trong mùa mưa nóng ẩm luôn có liên
quan đến tình hình dịch tễ bệnh tiên mao trùng ờ trâu, bò, dê, lạc đà. Từ cuối mùa
thu, mùa đông và đầu mùa xuân, trâu bò nhiễm tiên mao trùng phải sống trong điều
kiện thòi tiết lạnh, thiếu thức ăn nên sức đề kháng giảm, bệnh thường phát ra vào
thời gian mà trâu bò bị đổ ngã hàng loạt.
Tiên mao trùng có sức đề kháng yếu, dễ chết khi tiếp xúc với nước cất, cồn
và thuốc sát trùng.
2.1.5. Đặc điểm bệnh lý(cơ chế sinh bệnh)
Khi ruồi trâu, mòng đốt, hút máu và truyền tiên mao trùng vào trâu, bò,
ngựa, tiên mao trùng xâm nhập vào da, gây ra vết viêm trên mặt da Theo Luckins
(1992), có thể quan sát được phản ứng viêm ở da của thỏ, cừu, dê và bò gây nhiễm
thực nghiệm tiên mao trùng, kích thước chỗ viêm phụ thuộc vào số luợng tiên mao
trùng được tiêm truyền (ước chừng khoảng 100 tiên mao trùng có thể gây viêm da ở vị trí tiêm truyền), một số lượng lớn tiên mao trùng phát triển ở tại chỗ viêm này.
Vào máu, tiên mao trùng nhân lên theo cấp số nhân ở trong máu, trong bạch
huyết và ở trong các mô khác của cơ thể vật chủ theo cách phân chia theo chiều
dọc. số lượng tiên mao trùng trong máu không phải lúc nào cũng như nhau. Mật độ
tiên mao trùng thay đổi theo ngày. Biểu đồ sóng tiên mao trùng cho thấy, xen kẽ
giữa những sóng tiên mao trùng manh là những đợt sóng yếu. Mỗi đợt sóng tiên
mao trùng bắt đầu bằng sự tăng số lượng tiên mao trùng ưong máu, sau đó giảm và


khó phát hiện thấy tiên mao trùng. Mỗi đợt tiên mao trùng tăng lên trong máu là
biểu hiện sự xuất hiện một quần thể tiên mao trùng có tính kháng nguyên bề một
mới, quần thể này có thể tiếp tục sinh sản và tồn tại một thời gian cho đến khi cơ thể
xuất hiện kháng thể đặc hiệu với chúng.
Tiên mao trùng phát biển nhanh trong máu, tiêu thụ glucose và các chất đạm,

chất béo và khoáng chất trong máu kỷ chủ bằng phương thức thẩm thấu qua bề mặt
cơ thể để duy trì hoạt động và sinh sản. Ở súc vật bị bệnh, trong lm l máu có thể có
10.000 - 30.000 tiên mao trùng. Với số lượng nhiều như vậy, tiên mao trùng chiếm
đoạt dinh dưỡng nhiều, làm cho súc vật bệnh gầy còm, thiếu máu và mất dần khả
năng sản xuất sữa, thịt, mất dần khả năng sinh sản và giảm sức đề kháng với các
bệnh khác.
Sống trong máu vật chủ, tiên mao trùng còn tạo ra độc tố Trypanotoxin, độc tố
này gồm: Độc tố do tiên mao trùng tiết ra qua màng thân trong quá trình sống và độc tố
do xác chết của tiên mao trùng phân huỷ trong máu sau 15 - 30 ngày.
Độc tố cùa tiên mao trùng tác động lên hệ thần kinh trung ương làm rối loạn
trung khu điều hoà thân nhiệt, gây sốt cao và gián đoạn (lúc sốt, lúc hết sốt xen kẽ
nhau). Khi sốt thường có rối loạn về thần kinh (kêu rống, run rẩy, ngã vật xuống).
Độc tố cũng phá huỷ hồng cầu, ức chế cơ quan tạo máu làm cho vật chủ thiếu máu
và suy nhược dần. Độc tố còn tác động tới bộ máy tiêu hoá, gây rối loạn tiêu hoá,
làm con vật ia chảy. Hội chứng tiêu chảy thường xảy ra khi xuất hiện tiên mao trùng
trong máu con vật bệnh.
Khi tăng lên với số lượng lớn trong máu, tiên mao trùng còn làm tắc các mao
mạch, làm tăng tính thấm thành mạch, dần dần tạo ra các ổ thuỷ thũng chất keo
vàng dưới da.
2.2. Triệu chứng
Gia súc bị bệnh thể hiện các triệu chứng lâm sàng chủ yếu như sau:
- Sốt cao và gián đoạn: Sau 14-30 ngày bị ruồi, mòng hút máu truyền tiên
mao trùng, trâu bò thường đột ngột lên cơn sốt (40 - 41,7°C) kéo dài 2 - 4 ngày rồi
giảm, thời gian sau nhiệt độ lại tăng lên. Thời gian gián đoạn giữa hai cơn sốt dài


hay ngán tuỳ theo thể trọng con vật. Khi sốt, kiểm tra máu thường thấy tiên mao
trùng.
- Hội chứng thần kinh: Ở một số trâu, bò khi lên cơn sốt còn thể hiện hội
chứng thần kinh như điên loạn, mắt đỏ ngầu, húc đầu vào tường, chạy vòng quanh

kêu rống lên. Trường hợp nhẹ thấy run rẩy từng cơn, mắt trợn ngược rồi đổ ngã vật
xuống, sùi bọt mép giống như trâu bị cảm nắng. Sau 20 - 30 phút con vật lại đứng
dậy đi lại được. Những trâu bò mắc bệnh có triệu chứng lâm sàng như trên thường
là mắc bệnh ở thể cấp tính.
Gia súc bị bệnh mãn tính thường kéo dài, cơ thể suy yếu, liệt hai chân sau,
nằm tư thế quỳ và không đi lại được. Mặc dù nằm liệt nhưng vẫn ăn và nhai lại cho
đến khi sắp chết.
- Phù thũng dưới da: Phù thũng thường thấy ở vùng thấp cùa cơ thể như ở
bốn chân (từ khớp khuỷu trở xuống), phần yếm, ngực, bộ phận sinh dục.
- Viêm giác mạc và kết mạc mắt: Triệu chứng này thấy ở hầu hết trâu, bò
bệnh. Mắt có dử trắng hay vàng, chảy liên tục, nếu nặng thì mắt sưng đỏ ngầu. Khi
khỏi bệnh, mắt có màng trắng (cùi nhãn) kéo che kín giác mạc.
- Hội chứng tiêu hoá: Một số trâu, bò bệnh bị ỉa chảy nặng, phân lỏng, màu
vàng, sau chuyển màu xám, có lẫn bọt và chất nhầy. Các đợt ỉa chảy tiếp theo những
cơn sốt cách quãng, ỉa chảy trong bệnh tiên mao trùng thường dai dẳng và con vật vẫn
ăn được.
- Gầy yếu, suy nhược: Ở thể bệnh cấp tính trâu, bò gầy sút nhanh, chỉ sau 7 14 ngày từ khi phát bệnh con vật đã gầy rộc, mắt trũng sâu. Nếu bệnh kéo dài thì
con vật gầy xơ xác, lông dựng ngược, da khô nhăn nheo, niêm mạc mắt nhợt nhạt,
lông dễ rụng, dần dần suy nhược cơ thể nặng, mất khả năng cày kéo và sinh sản.
Nếu gặp điều kiện bất lợi như thiếu ăn, rét mướt thì trâu, bò dễ chết.
Trong thực tế, có khoảng 3% trâu bệnh ở thể ẩn vẫn béo khoẻ, làm việc bĩnh
thường khi được chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
Tình trạng thiếu máu thể hiện rõ trong bệnh do T. evansi gây ra. Theo Silva
Rams và cs (1995), Smith R. D. (1995), số lượng hồng cầu và hàm lượng huyết sắc


tố giảm, số lượng bạch cầu tăng, thành phần bạch cầu thay đồi: bạch cầu lymphô,
bạch cầu ái toan tăng nhưng bạch cầu trung tính giảm, protein tổng số và album
Phạm Sỹ Lăng, Lê Ngọc Mỹ (1984), Stephen (1986) cho biết, khi protein
tổng số và albumin giảm thì các thành phần a, p và Y globulin đều tăng, chỉ số A/G

< 0,5.
2.3. Bệnh tích
Đại gia súc bị bệnh tiên mao trùng khi chết gầy xơ xác, mổ khám thấy có những
biến đổi bệnh tích đại thể rõ rệt ở hệ tuần hoàn và hô hấp: Tim nhão, xoang bao tim
tích nước vàng; phổi xung huyết và tụ máu từng đám nhỏ; gan sưng to, nhạt màu; lách
sưng, mềm nhũn và nhạt màu; hạch lâm ba sưng và có tụ máu trong hạch; cơ nhão,
màu nhợt nhạt, nhát cắt rỉ nước; xoang ngực và xoang bụng tích dịch màu vàng nhạt;
có những đám keo nhầy vàng dưới vùng da thuỷ thũng.
2.4. Chẩn đoán
2.4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Các biểu hiện lâm sàng đặc trưng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò, ngựa
không phải lúc nào cũng phát hiện được. Rất nhiều gia súc mang bệnh nhưng khó
phát hiện các triệu chứng đặc trưng, nhất là đối với những gia súc mắc bệnh tiên
mao trùng mãn tính.
Đối với gia súc mắc bệnh ở thể cấp tính, các biểu hiện bệnh đặc trưng là sốt
cao, bỏ ăn, có triệu chứng thần kinh (điên loạn) và chết nhanh. Trâu bị bệnh mãn
tính có thể thấy triệu chứng: Sốt gián đoạn, gầy còm, thiếu máu kéo dài, viêm giác
mạc, phù thũng ở bụng và chân sau, chết do kiệt sức (Phạm Sỹ Lăng, 1982). Triệu
chứng sảy thai có thể thấy ở trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng (Nguyễn Đăng Khải,
1995; Kashiwazaki, 1998).
2.4.2. Chẩn đoán thí nghiệm
Có nhiều phương pháp chẩn đoán tiên mao trùng trong phòng thí nghiệm,
mục đích là phát hiện tiên mao trùng trong máu gia súc. Tùy từng trường hợp bệnh,
tuỳ điều kiện mà có thể làm cùng lúc một số phuơng pháp hoặc lựa chọn một
phương pháp phù hợp và có độ chính xác cao.


* Phương pháp phát hiện tiên mao trùng trực tiếp:
Muốn phát hiện tiên mao trùng trực tiếp, có thể áp dụng những phương pháp
sau:

- Phương pháp xem tươi (Duect smear):
Khi sốt, trong mao quản ngoại vi của gia súc mắc bệnh tiên mao trùng thường
có T. evansi. Vì vậy, trường hợp này nên lấy máu vùng ngoại vi để xem tươi.
Cho 1 giọt máu nhỏ lên phiến kính, đậy lamen lên giọt máu để giọt máu dàn
theo lamen thành một lớp mỏng. Soi dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 20) để
phát hiện tiên mao trùng sống. Nếu có, thấy hồng cầu dạt từ bên nọ sang bên kia,
chứng tỏ T. evansi chuyển động trong huyết tương, làm xao động các hồng cầu.
- Phương pháp nhuộm Giemsa tiêu bản máu khô (Romanovsky):
+ Phương pháp giọt dầy:
Đặt 1 giọt máu to vào giữa phiến kính, dùng một góc của đầu một phiến kính
khác ria tròn giọt máu với đường kính khoảng 1 - l,25cm. Để khô tự nhiên trong
khoảng 1 giờ, rồi cố định bàng cồn Methanol, nhuộm Giemsa [ 1 giọt Giemsa + lml
dung dịch PBS (Phosphat Buffered Saline) pH = 7,2 ] trong 25 phút. Rửa tiêu bản
dưới vòi nước chảy nhẹ, để khô rồi soi dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 X 100
hoặc 10 X 90).
Phuơng pháp này có nhược điểm là dễ làm tổn thương tiên mao trùng, do đó
khó phân biệt được các loài khác nhau trong trường hợp nhiễm nhiều loài tiên mao
trùng cùng một lúc.
+ Phương pháp giọt mỏng:
Đặt 1 giọt máu cách 1 đầu phiến kính 2cm, dùng lamen ria máu thành một
lớp mỏng. Để khô, cố định bằng cồn Methanol trong 2 phút. Nhuộm Giemsa trong
25 phút (1 giọt Giemsa + lml dung dịch PBS pH = 7,2). Rửa tiêu bàn dưới vòi nước
chảy nhẹ, để khô, soi duới kính hiển vi (độ phóng đại 10 X 100 hoặc 10 X 90).
Ưu điểm cùa phương pháp giọt mỏng là có thể phân biệt đuợc hình thái các
loài tiên mao trùng khác nhau.


+ Phương pháp làm tan hồng cầu:
Dung dịch SDS (Sodium Dodecyl Sulfat) là chất làm tan hồng cầu. Nhờ
dung dịch SDS, tiên mao trùng dễ dàng được phát hiện trong máu. Dung dịch SDS

rất độc nên tránh tiếp xúc với da và tránh hút bằng pipet. Dung dịch SDS dễ bảo
quản ở nhiệt độ thường trong nhiều tháng (Van Meirvenne, 1989).
* Phương pháp tập trung tiên mao trùng:
Người ta đã sử dụng phương pháp ly tâm tập trung tiên mao trùng bằng ống
Haematocrit hoặc tách tiên mao trùng băng gen DEAE - cellulose.
- Phương pháp ly tâm tập trung bằng ống Haematocrit (WOO, 1971)
Cho máu động vật nghi mắc bệnh vào ống Haematocrit, một đầu ống được
bịt kín bằng chất dẻo matit, một đầu ống để hờ. Ly tâm với tốc độ 14.000 vòng/phút
trong 5phút. Sau đó kiểm tra sự tập trung của tiên mao trùng tại vị trí tiếp giáp giữa
huyết tương và hồng cầu (độ phóng đại 10 X 10).
Phương pháp này đơn giản, phát hiện tiên mao trùng tốt hơn phương pháp
xem tuơi và nhuộm Giemsa. Song, tỷ lệ phát hiện chưa cao.
Với ống Haematocrit trên, có thể thực hiện phương pháp Darkground: cắt
ống ở vị trí tiên mao trùng tập trung (ranh giới giữa huyết tương và hồng cầu), dùng
pipet lấy một ít huyết tương ở vị trí đó đặt lên phiến kính, đậy lamen và kiểm tra
dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 X 40).
- Phương pháp tách tiên mao trùng bằng gen DEAE - cellulose (Diethyl Ar.omino - Ethyl - cellulose).
Các thành phần của huyễn dịch gen DEAE - cellulose - PSG (PSG: Phosphat
Saline Glucose) mang điện tích dương đã liên kết và giữ lại các thành phàn mang
điện tích âm có trong máu là hồng cầu và tiểu cầu. Còn lại, tiên mao trùng được
tách ra cùng với dung dịch PSG và huyết tương. Bằng phương pháp này, có thể tách
được trên 96% tiên mao trùng (Lumsden và cs, 1979).
* Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm:
Đây là phương pháp phổ biến, hiệu quả, chính xác và thường được ứng dụng
nhiều để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ờ Việt Nam. Phương pháp này có ưu điểm
là chính xác, do trực tiếp phát hiện thấy tiên mao trùng sau khi nhân chúng lên trong


động vật thí nghiệm mẫn cảm. Song, nhược điểm của phương pháp tiêm truyền
động vật thí nghiệm là khi cần chẩn đoán nhanh, với số lượng nhiều và thời gian

ngắn thì phương pháp này không thể đáp ứng được (Lê Ngọc Mỹ, 1994; Đoàn Văn
Phúc, 1994).
* Phương pháp chẩn đoán huyết thanh học:
Bằng phương pháp huyết thanh học, có thể phát hiện kháng thể hoặc kháng
nguyên tiên mao trùng. Đây là các phương pháp huyết thanh học đặc hiệu.
- Các phương pháp phát hiện kháng thể kháng tiên mao trùng:
Khi tiên mao trùng ký sinh, cơ thể vật chủ sinh ra kháng thể đặc hiệu chống
lại tiên mao trùng. Những phương pháp sau cho phép phát hiện kháng thể kháng
tiên mao trùng trong máu vật chủ:
+ Phương pháp ngưng kết trên phiến kính (SAT: Slice Agglutination Test):
Hoà tan 1 giọt huyết thanh gia súc nghi mắc bệnh vào 1 giọt nước muối sinh
lý trên phiến kính, sau đó cho 1 giọt máu chuột bạch có nhiều tiên mao trùng vào,
trộn đền, đậy lamen và soi duới kính hiển vi (độ phóng đại 10 X 20 hoặc 10 X 40).
Nếu thấy ngưng kết hình hoa cúc là (+) và ngược lại là (-).
Phương pháp này đơn giản, dễ làm và có thể áp dụng trên diện rộng.
+ Phương pháp LATEX (Latex Agglutination Test):
LATEX là phương pháp ngưng kết gián tiếp, được dùng để phát hiện kháng
thể lưu động có trong máu của gia súc mắc bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý của phương pháp LATEX: khi kháng nguyên bề mặt T. evansi
gắn lên các hạt latex kết hợp với kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng ở trên
bàn nhựa thì sẽ xảy ra phản ứng ngưng kết giữa kháng nguyên với kháng thể. Hiện
tượng ngưng kết có thể quan sát được bằng mắt thường và được giải thích là do
kháng nguyên bề mặt tiên mao trùng được gắn lên các hạt latex là loại kháng
nguyên hữu hình, có nhiều điểm quyết định tính kháng nguyên bề mặt (epitop
surface). Còn kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng lại có nhiều điểm thụ thể
(receptor) tương ứng, đặc hiệu với các điểm quyết định của kháng nguyên. Do đó,
khi kháng nguyên tiên mao trùng gặp kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng, sẽ
có hiện tượng một phân tử kháng thể đặc hiệu liên kết với nhiều phân tử kháng



nguyên và ngược lại. Kết qủa là các hạt latex cùng với kháng nguyên chụm lại, tạo
thành đám ngưng kết có thể quan sát bằng mắt thường. Kháng nguyên dùng cho
phản ứng là kháng nguyên bề mặt được tinh chế từ chủng T. evansi không nhuộm
màu.
Phương pháp này có thể ứng dụng để chẩn đoán nhanh, số lượng nhiều, tỷ lệ
phát hiện cao. Tuy nhiên, nhược điểm cùa phương pháp này là có thể có phản ứng
giả khi pha loãng huyết thanh ở nồng độ thấp 1/2, 1/4 và dương tính cả khi con vật
khỏi bệnh nhưng vẫn còn kháng thể tồn tại trong huyết thanh. Mặt khác, phải nhập
kháng nguyên của nước ngoài nên giá thành rất cao.
+ Phương pháp CATT (Card Agglutination Test for Trypanosomiasis):
Đây là phương pháp ngưng kết trực tiếp giữa kháng nguyên và kháng thể
trên bản nhựa, được dùng để phát hiện kháng thể lưu động trong máu động vật
nhiễm bệnh. Nguyên lý, các bước tiến hành phản ứng hoàn toàn giống phương pháp
LATEX. Song có điểm khác là kháng nguyên dùng cho phương pháp CATT là
kháng nguyên chế toàn thân tiên mao trùng, được tách ra từ máu động vật bệnh và
nhuộm màu bằng comassie blu, sau đó đông khô (Bajyana Songa, 1988).
Theo Lương Tố Thu và cs (1996), phuơng pháp CATT dễ sử dụng, có độ
nhậy cao gần gấp đôi phuơng pháp tiêm truyền chuột bạch (73,75% so với 40%).
+ Phuơng pháp kháng thể huỳnh quang gián tiếp IFAT (Indirect Fluorescent
Antibody Test):
Phản ứng này là phản ứng huyết thanh học đặc hiệu có độ nhạy cao, được
ứng dụng rộng rãi trong phòng thí nghiệm và thực địa.
Ngoài việc được dùng làm phản ứng chuẩn để so sánh với các phương pháp
huyết thanh khác, phương pháp IFAT còn được dùng trong nghiên cứu cấu trúc cùa
kháng nguyên tiên mao trùng (Luckins, 1988; Davison, 1999).
Trong phương pháp IF AT, huyết thanh dương chuẩn được lấy từ trâu bò
măc bệnh tiên mao trùng, huyết thanh âm chuẩn được lấy từ trâu bò khoẻ mạnh,
huyết thanh cần chẩn đoán là huyết thanh lấy từ gia súc nghi mắc bệnh.
Ứng dụng phương pháp này ở Việt Nam, Lương Tố Thu và cs (1994) đã chế
tạo conjugate huỳnh quang trên thỏ kháng IgG của bò để chẩn đoán bệnh tiên mao



trùng. Độ pha loãng của conjugate tự chế sử dụng cho phản ứng là 1/8 và huyết thanh
chuẩn pha loãng ở 1/40. Theo Lương Tố Thu và Lê Ngọc Mỹ (1996), độ nhậy của
phuơng pháp IF AT là 71,25%, trong khi phương pháp tiêm truyền.
Để tinh chế kháng nguyên T. evansi dùng trong phản ứng miễn dịch huỳnh
quang gián tiếp để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ờ ứâu bò, Vương Thị Lan
Phương (2004) đã nghiên cứu kháng nguyên bề mặt T. evansi phân lập từ trâu, bò ở
6 tỉnh phía Bắc Việt Nam và cho biết: Đã thu được 6 mẫu tiên mao trùng từ 6 tỉnh,
tiến hành phân dòng, phân VAT (Variable Antigenic Type) và thu được 26 VAT
thuộc 6 kho kháng nguyên khác nhau. Bằng phản ứng dung giải miễn dịch và
phương pháp thấm miễn dịch, tác giả đã xác định được sự thay đổi kháng nguyên bề
mặt của T. evansi: Đa số các VAT của các kho kháng nguyên khác nhau là khác
nhau, chỉ có 8 VAT/26 VAT có hiệu giá kháng thể đơn giá đặc hiệu, có phản ứng
chéo với các VAT của các kho kháng nguyên khác. Các VAT trội xuất hiện sớm
trong 4 tuần lễ đầu nhiễm bệnh, có tính kháng nguyên mạnh có thể nghiên cứu ứng
dụng chế kháng nguyên chẩn đoán. Từ đó, tác giả đã tinh chế kháng nguyên theo
phương pháp tách tiên mao trùng để dùng trong phàn ứng miễn dịch huỳnh quang
gián tiếp, chẩn đoán bệnh tiên mao trùng cho độ nhạy và độ đặc hiệu cao.
+ Phương pháp ELISA (Enzyme Linked Immunosorbent Assay):
Phương pháp ELISA là một trong những phương pháp hiện đại nhất được
ứng dụng để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý: dùng kháng thể hoặc kháng thể kháng Globulin (kháng kháng
thể) có mang một enzym (Phosphatase hoặc Peroxydase) được gắn trên mành Fc,
cho kết hợp trực tiếp hoặc gián tiếp vói kháng nguyên. Sau đó, cho cơ chất sinh màu
vào, cơ chất sẽ kết hợp với enzym và bị enzym phân huỷ tạo nên màu. So sánh với
màu cùa quang phổ kế sẽ định lượng được mức độ cùa phản ứng.
Phương pháp ELISA hiện đang được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế
giới. Ở Việt Nam, Lê Ngọc Mỹ và cs (1994) đã bước đầu chế kháng nguyên tiên
mao trùng và ứng dụng để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở nước ta.

- Các phương pháp phát hiện kháng nguyên tiên mao trùng
+ Phương pháp ELISA kháng nguyên (Ag - ELISA):


Đây là phương pháp sử dụng phản ứng ELISA kháng nguyên để phát hiện
kháng nguyên lưu động trong máu cùa gia súc nhiễm bệnh. Phản ứng dựa trên
kháng thể đơn dòng đặc hiệu với tiên mao trùng. Lê Ngọc Mỹ và cs (1994) đã bước
đầu ứng dụng phương pháp này để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở Việt Nam. Tuy
nhiên, theo cơ quan năng lượng nguyên tử thế giới (IAEA) (1997), phương pháp
ELISA kháng nguyên có độ nhậy kém hơn so với các phương pháp phát hiện tiên
mao trùng cổ điển. Vì vậy, phương pháp này đã không được phổ biến trong thời
gian hiện tại và tương lai (IAEA đã không sản xuất đĩa Ag - ELISA cho nhiều nước
trên thế giới).
+ Phản ứng Suratex:
Phản ứng Suratex là phản ứng ngưng kết giữa các hạt latex được gắn kháng
thể đơn dòng với kháng nguyên lưu động trong máu động vật nhiễm tiên mao trùng
(Nantulya, 1994). Phản ứng này hiện đang được thử nghiệm và đánh giá ở thực địa.
- Phương pháp phát hiện ADN cùa tiên mao trùng bằng phàn ứng PCR
(Polymerase Chain Reaction):
PCR là phương pháp hiện đại nhất, mới được đưa vào ứng dụng để chẩn
đoán bệnh tiên mao trùng trong những năm gần đây.
Nguyên lý: dựa vào phản ứng chuỗi polymerase để xác định sự có mặt gen
ADN của tiên mao trùng trong máu động vật nhiễm bệnh.
Mullis và cs (1986) đã thiết lập qui trình phản ứng để ứng dụng chẩn đoán
bệnh tiên mao trùng. Sau đó, Desquesnes (1996, 2002), Masake (1997) đã ứng dụng
phản ứng PCR để chẩn đoán bệnh T. evansi ở bò; Almeida (1998) đã ứng dụng chẩn
đoán bệnh tiên mao trùng ở dê.
Phương pháp PCR có độ nhậy và độ chính xác rất cao. Tuy nhiên, phương
pháp này đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật cao, trang thiết bị hiện đại nên hiện nay
mới đang được thử nghiệm tại một số phòng thí nghiệm hiện đại.

2.5. Phòng và trị bệnh
2.5.1. Phòng bệnh
Để phòng ngừa bệnh tiên mao trùng có hiệu quả cao, các nhà khoa học đã đề
nghị áp dụng 3 biện pháp sau:


- Diệt tiên mao trùng trên cơ thể kỷ chủ:
Diệt tiên mao trùng ký sinh ở vật chủ không những ngăn chặn được tác hại
gây bệnh của chúng mà còn làm cho bệnh mất khả năng lây lan. Các biện pháp cụ
thể là:
+ Phát hiện gia súc nhiễm tiên mao trùng ở vùng có bệnh và những vùng lân
cận, nhốt riêng trong chuồng có lưới để ngăn côn trùng và điều trị triệt để cho gia
súc bệnh.
+ Ở những vùng không có bệnh thì không nhập gia súc từ vùng có bệnh về.
Nếu thật cần thiết thì chi nhập những gia súc khoẻ (có kết qủa kiểm tra âm tính với
tiên mao trùng), song vẫn cần nhốt riêng để theo dõi. Nếu không bị bệnh mới cho
nhập đàn.
+ Phát hiện và diệt những loài thú hoang nghi là nguồn tàng trữ mầm bệnh,
hoặc không chăn thả gia súc trong những khu vực có những loài đó sinh sống.
- Diệt côn trùng môi giới truyền bệnh:
Hội nghị lần thứ VI của Uỷ ban khoa học Quốc tế nghiên cứu về tiên mao
trùng đã đề ra những biện pháp tiêu diệt côn trùng như sau:
+ Diệt côn trùng bằng thay đổi sinh thái.
Thay đổi sinh thái là thay đổi điều kiện sống, làm cho côn trùng không sinh
sản, không thực hiện được chu kỳ phát triển.
Phát quang cây cối ở từng khu vực, không để nước tù đọng, ủ phân để diệt trứng
và ấu trùng ruồi, mòng, làm chuồng gia súc có lưới ngăn côn trùng... là các biện pháp
hữu hiệu, tạo ra những điều kiện bất lợi cho đời sống của côn trùng.
Tuy nhiên, do côn trùng có khả năng di chuyển khá mạnh nên các biện pháp
trên phải thực hiện đồng thời trên phạm vi rộng mới có hiệu quả.

Challier A. (1974) cho biết, ở Nigieria, việc phát quang cây cối xung qụanh
hồ và các con sông trong một khu vực rộng 400 - 800m, dài 10.000 m chỉ hạn chế
được một phần hoạt động cùa những côn trùng môi giới truyền bệnh tiên mao trùng
ở đó.
+ Diệt côn trùng bàng hoá dược:


Có thể dùng các hoá dược tiêu diệt côn trùng môi giới của tiên mao trùng.
Các hoá dược đã được dùng là: Endosulfan, Brophos, Dieldrine, Tetracloreinphos...
+ Diệt côn trùng bàng phương pháp sinh học:
Các nhà khoa học đã phát hiện được 25 loài ong và côn trùng ký sinh gây hại
cho các loài ruồi, mòng môi giới truyền bệnh tiên mao trùng.
Một số loài vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể ruồi hút máu làm chúng
mắc bệnh vật chết.
Laird (1974) đã phân lập được một số loài vi khuẩn như: Bacillus
thuringiensu, B. mathisi để tiêu diệt các loài ruồi hút máu. Đây là biện pháp diệt côn
trùng có nhiều ưu điểm, không ảnh hưởng đến môi trường. Tuy nhiên, biện pháp
này mới đang ờ giai đoạn thử nghiệm.
Jordan A. N. và cs (1974) đã gây đột biến ruồi hút máu bằng một số hoá chất
và tia sáng có bước sóng ngắn, bằng phương pháp di truyền quần thể, đã tạo ra
những ruồi đực vô tính rồi thả với ruồi cái trong tự nhiên. Kết quả là làm cho ruồi
không sinh sản đuợc. Phương pháp này có nhiều khả năng thành công nhưng rất tốn
kém.
Nhìn chung, các biện pháp tiêu diệt côn trùng môi giói có hiệu qủa nhất định
nhưng cũng còn nhiều hạn chế.
- Phòng bệnh cho gia súc bằng hoá dược:
Hội nghị chuyên đề quốc tế về phòng bệnh tiên mao trùng (1978) đã kết
luận: Hiện nay, biện pháp sử dụng hoá dược để tiêm phòng rộng rãi cho gia súc ở
những vùng bệnh tiên mao trùng lưu hành cần phải được tiếp tục trong nhiều năm
(Touratier L. và cs, 1979).

Từ năm 1934, tổ chức dịch tễ gia súc đã đề nghị sử dụng Novarsenobenzol
để tiêm phòng cho toàn đàn ngựa ở những vùng có bệnh tiên mao trùng. Hiện nay,
thuốc Trypamidium, liều 0,5mg/kg thể trọng được khuyên dùng để phòng bệnh tiên
mao trùng cho trâu, bò.
Liu J. H. và cs (1992) đã nghiên cứu chế tạo vacxin phòng bệnh tiên mao
trùng cho ngựa. Kết quả tiêm thử nghiệm vacxin liều 3 X 105 T. evansi/ngựa, sau


30 - 60 - 90 ngày dùng vacxin, tỷ lệ bảo hộ đạt 100%; trong khi lô đối chứng chết
trong thời gian 3 tháng.
2.5.2. Trị bệnh
Một số loại hoá dược đã được dùng để điều trị bệnh tiên mao trùng cho trâu,
bò, ngựa ở nước ta từ những năm 60 đến nay gồm:
- Naganin, liều 10 mg/kg thể trọng. Pha thuốc với dung dịch nước muối sinh
lý hoặc nước cất thành dung dịch 10%, tiêm tĩnh mạch.
Phan Địch Lân và cs (1962), Phạm Sỹ Lăng và cs (1965) đã thử nghiệm
Naganin và cho biết, thuốc có tác dụng tốt trong điều trị bệnh do T. evansi trên trâu, bò
ở nước ta.
- Novarsenobenzol, liều 10 mg/kg thể trọng.
Phan Địch Lân và cs (1963), Phạm Sỹ Lăng và cs (1965) đã sử dụng
Novarsenobenzol 2 lần cách nhau 2 ngày, thấy hiệu lực thuốc đạt 80%, tỷ lệ an toàn
80 - 82%.
- Trypamidium, liều lmg/kg thể trọng, tiêm sâu vào bắp thịt thành 2 - 3 điểm.
Đoàn Văn Phúc và cs (1981) đã thử nghiệm Trypamidium điều trị bệnh tiên
mao trùng cho trâu, bò và cho biết, tỷ lệ an toàn và khỏi bệnh đều đạt 100%.
- Berenyl, liều 3mg/kg thể trọng. Pha thuốc với nước cất theo tỷ lệ cứ 0,8g
thuốc trong 5ml nuớc cất. Tiêm sâu bắp thịt (không dùng quá 9g cho một gia súc).
Hồ Thị Thuận (1980) đã dùng Berenyl trị bệnh tiên mao trùng cho trâu bò,
thấy kết quả điều trị tốt.
Phan Văn Chinh (2006) dùng Berenyl điều trị bệnh tiên mao trùng cho trâu,

bò ở các tỉnh miền Trung và cho biết, thuốc đạt hiệu lực 100% với những trâu, bò bị
bệnh.
- Trypamidium samorin, liều lmg/kg thể trọng. Tiêm sâu bắp thịt.
Nguyễn Quốc Doanh và cs (1996) đã dùng Trypamidium samorin điều trị
bệnh tiên mao trùng cho trâu, bò và xác định, thuốc có hiệu lực và độ an toàn rất
cao (100%).
Theo Phan Văn Chinh (2006), sử dụng thuốc Trypamidium (liều lmg/kg thể
trọng) cho tỷ lệ diệt hết tiên mao trùng là 100%.


- Trypazen, liều 3,5mg/kg thể trọng:
Điều trị bệnh tiên mao trùng cho trâu, bò bằng Trypazen với liều trên,
Nguyễn Quốc Doanh và cs (1997) cho biết, thuốc rất an toàn, tỷ lệ khỏi bệnh là
100%.
III. KẾT LUẬN
Tiên mao trùng là bệnh ký sinh trùng đường máu gây bệnh cho nhiều loài gia
súc, trong đó đại gia súc thường mẫn cảm nhất. Bệnh gây thiệt hại khá lớn về kinh
tế cho người chăn nuôi. Do đó các hộ chăn nuôi cần thực hiện các biện pháp phòng
và trị bệnh định kỳ để phòng tránh dịch bệnh xảy ra.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Văn Chinh (2006), Bệnh tiên mao trùng do Trypanosoma evansi ở
trâu, bò nuôi tại các tình miền Trung và biện pháp phòng trị, Luận án Tiến sỹ Nông
nghiệp, Hà Nội.
2. Phạm Chiến, Nguyễn Đức Tân, Lê Đức Quyết (1999), "Kết quả khảo sát ký
sinh trùng đường máu trên đàn bò ở huyện M' Drak Daklak", Kết quả hoạt động
KHKT thú y, tr. 53 - 56.
3. Nguyễn Quốc Doanh, Lương Tố Thu, Lê Ngọc Mỹ, Phạm Sỹ Lăng (1996),
''Kết quả dùng Trypamidium samorin điều trị bệnh tiên mao trùng trâu bò do T.

evansi gây ra", Tạp chí Khoa học công nghệ và quản lý, số 12/1996, tr. 300 - 301.
4. Nguyễn Quốc Doanh, Phạm Sỹ Lăng (1997), "Hiệu lực cùa Trypazen trong
điều trị bệnh tiên mao trùng trâu do T. evansi gây ra", Tạp chí Khoa học công nghệ
và Quản lý, số 4/1997, tr. 1987 - 1988.
5. Nguyễn Quốc Doanh (1999), Một số đặc tính sinh học của T. evansi (Steel,
1885), bệnh học do chúng gây ra, quy trình bảo quản và sử dụng giống T. evansi để
chẩn đoán bệnh tiên mao trùng, Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp, Hà Nội.
6. Nguyễn Đăng Khải (1995), "Về triệu chứng sảy thai trong bệnh tiên mao
trùng trâu bò do T. evansi", Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập III, số 1, tr. 69 71.
7. Phạm Sỹ Lăng (1982), Một số đặc điểm dịch tễ học và bệnh học bệnh tiên
mao trùng trâu bò do T. evansi, (Steel, 1885) ở phía Bắc Việt Nam. Luận án phó
Tiến sỹ Khoa học Nông nghiệp, Hà Nội.
8. Phạm Sỹ Lăng, Đoàn Văn Phúc, Nguyễn Đăng Khải, Bùi Quý Huy (1983),
"Hiệu quả của Isometamidium trong điều trị và phòng bệnh tiên mao trùng". Tạp
chí Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp, 2/1983.
9. Phạm Sỹ Lăng và Đoàn Văn Phúc (1984), “Kết quả điều trị bệnh tiên mao
trùng trâu bò ờ miền Bắc Việt Nam bằng hợp chất Arsenic”. Kết qủa nghiên cứu
Khoa học kỹ thuật thúy 1979 -1984, Viện Thú y, tr. 159 - 165.


10. Phạm Sỹ Lăng, Lê Ngọc Mỹ (1984), "Một số thay đổi về máu trâu bò bị
bệnh tiên mao trùng do T. evansi (Steel, 1885) tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam", Kết
qủa nghiên cứu Khoa học kỹ thuật thúy 1979 -1984, Viện Thú y, tr. 153 - 159.
11. Phạm Sỹ Lăng, Tô Long Thành (2006), Bệnh đơn bào ký sinh ở vật nuôi,
NXB Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 91 - 98.
12. Phan Địch Lân (1974), "Thành phần họ mòng Tabanidae và vai trò truyền
bệnh của nó ở miền Bắc Việt Nam", Tạp chí Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp,
8/1974.
13. Phan Địch Lân (1994, 2004), Bệnh ngã nước trâu bò, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội, tr. 56 - 73.

14. Hà Viết Lượng (1998), Đơn bào ký sinh, đặc điểm dịch tễ và biện pháp
phòng trị bệnh Trypanosomiasis ở bò thuộc Nam Trung Bộ, Luận văn Thạc sỹ Khoa
học Nông nghiệp, Ha Nội.
15. Lê Ngọc Mỹ và cs (1994), "Kết qủa bước đầu thiết lập phản ứng ELISA để
chẩn đoán bệnh tiên mao trùng". Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập II, số 1.
16. Lê Ngọc Mỹ (1994), "Phương pháp ELISA phát hiện kháng nguyên và các
phương pháp ký sinh trùng học chẩn đoán bệnh tiên mao trùng (T. evansi) ờ trâu bò
mắc bệnh tự nhiên", Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập II, số 4.
17. Lê Ngọc Mỹ, Phạm Thị Tâm, Wicher Holland (2000), "Các phương pháp
ký sinh trùng học chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ờ trâu gây nhiễm thực nghiệm T.
evansi ”, Kết qủa nghiên cứu Khoa học kỹ thuật thú y 1996 - 2000, Viện Thú y.
18. Đoàn Văn Phúc, Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Đăng Khải (1981), "Thí nghiệm
dùng Trypamidium điều trị tiên mao trùng", Thông tin thú y- Viện Thú y, Hà Nội.
19. Đoàn Văn Phúc và cs (1994), "Kết quả ứng dụng một số phương pháp
huyết thanh học chẩn đoán bệnh tiên mao trùng trâu ở thực địa", Tạp chí Khoa học
kỹ thuật Thú y, tập II, số 1, tr. 12 - 18!
20. Vương Thị Lan Phương (2004), Nghiên cứu kháng nguyên bề mặt
Trypanosoma evansi phân lập từ trâu, bò phía Bắc Việt Nam và tinh chế kháng
nguyên dùng trong phản ứng miên dịch huỳnh quang gián tiếp. Luận án Tiến sỹ
Nông nghiệp, Hà Nội.


×