Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

TÁI CƠ CẤU HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.08 KB, 63 trang )

TÁI CƠ CẤU HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
Đặt vấn đề:
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đạt được nhiều thành
tựu rực rỡ trong mọi mặt của đời dống xã hội.Sự phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước,theo định hướng xã hội
chủ nghĩa đã tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong nền
kinh tế.Ngành ngân hàng VIệt Nam đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ của mình luôn giữ vai trò quan trọng là huyết mạch
của nền kinh tế,là hơi thở trong mọi hoạt động của đời sống
xã hội,là nhân tố không thể thiếu để tập trung nguồn vốn cho
phát triển đất nước.Những thành tựu kinh tế xã hội rực rỡ mà
Việt Nam đạt được trong công cuộc đổi mới đã làm vai trò,vị
thế của Việt Nam ngày càng được khẳng định trên trường
quốc tế là có sự đóng góp rất lớn của ngành ngân hàng.Cũng
chính vì lẽ đó mà,trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì hoạt
động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam luôn chịu
sự tác động của thị trường tài chính toàn cầu.Điều đó đã đặt
ra yêu cầu phải không ngừng củng cố,hoàn thiện hoạt động
của hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng và mở rộng các
loại hình dịch vụ để đáp ứng được tối đa nhu cầu vốn và dịch
vụ ngân hàng cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước.Do
vậy,nếu không tạo điều kiện đảm bảo an toàn thì gây tổn
thương nặng nề cho nền kinh tế.
Từ khi Việt Nam tham gia quá trình hội nhập quốc tế như gia
nhập khối ASEAN,tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA),ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam –
Hoa Kỳ vào đầu năm 2007 đã trở thành thành viên chính thức
của Hiệp hội thương mại thế giới (WTO)…Hơn nữa còn hợp tác


đa phương có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Quỹ
tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB)…đã mang lại
rất nhiều cơ hội cũng như thách thức cho hệ thống NHTM Việt
Nam.Các NHTM Việt Nam phải đối mặt với sức cạnh tranh gay
gắt hơn từ các ngân hàng nước ngoài đến từ các khu vực tài


chính phát triển như Mỹ,Châu Âu,Nhật Bản,…và chịu tác động
của những biến động trên thị trường tài chính quốc tế nhiều
hơn.Đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải chủ trương cơ cấu lại hệ
thống nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh,tham gia quá trình
hội nhập và cạnh tranh khốc liệt này.
Hiện nay NHTM VIệt nam còn quá nhiều mặt tồn tại như: nợ
xấu tăng cao,thanh khoản của hệ thống chưa thực sự ổn
định,tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu chưa thực sự vững chắc….Do
đó,để hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả ,an toàn hơn,thì
việc tái cơ cấu lại hệ thống NHTM VIệt Nam là một việc không
thể không làm,nó rất cần thiết trong gian đoạn hiện nay.
Để ổn định và phát triển nền kinh tế hiệu quả,bền vững,tại kỳ
họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII, Chính phủ đã nhấn mạnh sự cần
thiết tái cấu trúc nền kinh tế,trong đó có 3 để án tái cơ cấu
kinh tế gồm : Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước,Đề án
tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại,Đề án tai cơ cấu
đầu tư.Đây là nhiệm vụ mà Chính phủ thể hiện sự quyết tâm
cải tổ nền kinh tế cùng với đẩy lùi tác động ,ảnh hưởng tiêu
cực của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Với tình hình nêu trên, em chọn đề tài “ Tái cơ cấu hệ thống
ngân hàng thương mại” làm đề tài tiểu luận của mình,vì là
một sinh viên của khoa Kế toán-Tài chính đề tài này rất bổ ích

mang tính thiết thực và phù hợp với thực tế yêu cầu của học
phần Tài chính tiền tệ đưa ra.
NỘI DUNG:
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÁI CẤU
TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.

HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI NIỆM NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:

Hệ thống ngân hàng đã ra đời từ những năm trước thế kỷ 15
và có một quá trình phát triển lâu dài từ ngân hàng sơ khai
đến ngân hàng hiện đại như ngày nay.Quá trình phát triển của
ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển của nền kinh
tế hàng hóa.Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương mại có
tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của
nền kinh tế hàng hóa,ngược lại kinh tế hàng hóa phát triển
mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì


NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những
định chế tài chính không thể thiếu được.Cùng với sự phát triển
đó có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về Ngân
hàng,chẳng hạn:
Theo WorldBank, “Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận
tiền gửi chủ yếu dưới dạng không kỳ hạn hoặc tiền gửi được
rút ra với một thông báo ngắn hạn (tiền gửi không kỳ hạn,có
kỳ hạn và các khoản tiết kiệm).Dưới tiêu đề “các ngân hàng”
gồm có:Các Ngân hàng thương chỉ tham gia vào các hoạt
động nhận tiền gửi,cho vay ngắn hạn và trung dài hạn ;Các

ngân hàng nhà đầu tư hoạt động buôn bán chứng khoán và
bảo lãnh phát hành;Các Ngân hàng nhà ở cung cấp tài chính
cho lĩnh vực phát triển và nhiều loại khác nữa.Tại một số nước
còn có các ngân hàng tổng hợp hoạt động ngân hàng thương
mại với hoạt động ngân hàng đầu tư và dôi khi thực hiện cả
dịch vụ bảo hiểm”.
Theo Peter S.Rose, “Ngân hàng là một loại hình tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất,đặc biệt là tín dụng,tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán,thực hiện nhiều chức nang nhất so với bất kỳ tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế.Ngân hàng thương mại có vị
trí quan trọng,vì ngân hàng thương mại làm đầy đủ các
nghiệp vụ ngân hàng: nhận tiền gửi nhiều nhất,cho vay nhiều
nhất và cung cấp nhiều dịch vụ tài chính nhất so với các loại
ngân hàng khác”.
Mỹ cho rằng: “Ngân hàng thương mại là công ty kinh
doanh tiền tệ,cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong
ngành công nghiệp dịch vụ tài chính”.
Đạo luật Ngân hàng của Pháp năm 1941 quy định:
“Ngân hàng thương mại là những doanh nghiệp hay cơ sở mà
nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền gửi của công chúng
dưới hình thức ký thác hoặc dưới các hình thức khác và sử
dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết
khấu,tín dụng và tài chính”.
Ấn Độ cho rằng: Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận ký
thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.


Theo quy định tại điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa

12 thông qua, “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục
tiêu lợi nhuận”.
Từ những cách định nghĩa khác nhau trên về NHTM,có
thể rút ra:
Ngân hàng thương mại là một bộ phận lớn trong hệ
thống trung gian tài chính làm cầu nối giữa khu vực tiết
kiệm với khu vực đầu tư của nền kinh tế với nghiệp vụ cơ
bản là nhận tiền gửi,cho vay.
- Ngân hàng thương mại là một loài hình doanh nghiệp
cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất,đặc biệt là tín dụng,tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán.Ngoài ra,NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ tài
chính khác nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm
dịch vụ tài chính của xã hội.
1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại:
-

Khi bàn bạc về các chức năng củ ngân hàng thương mại, các
kinh tế gia đều cho rằng: ngân hàng thương mại có ba chức
năng cơ bản, đó là chức năng trung gian tín dụng,chức năng
trung gian thanh toán,chức năng tạo ra các công cụ lưu thông
tín dụng thay thế cho tiền mặt.
1.2.1.Chức
-

-

năng trung gian tín dụng:

NHTM làm trung gian tìn dụng giữa các chủ thể tạm thời
thừa vốn và các chủ thể tạm thời thiếu vốn: NHTM tiến
hành huy động và tập trung các nguồn vốn và sử dụng
nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để
tạo lập nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn,như: cho
vay,chiết khấu, bao thanh toán,đầu tư vào các nhu cầu
khác trong nền kinh tế và thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh tiền tệ khác.NHTM vừa đi vay lại vừa cho vay hay
nói một cách khác,là ngân hàng vừa “mua” vừa “bán”
tiền ,phần tiền chênh lệch giữa giá “bán” và giá “mua”
chính là một bộ lớn trong lợi nhuận của NHTM.
Trung gian tín dụng giữa ngân hàng trung ương và nền
kinh tế thị trường: khi đã tận dụng mọi nguồn vốn,bao


-

-

-

gồm cả nguồn vốn tự có,nguồn vốn huy động ,nguồn vốn
khác nhưng vẫn không đủ đáp ứng cho nhu cầu vay nợ
của nền kinh tế,NHTM sẽ vay vốn ở NHTW và lúc này
NHTW sẽ xuất hiện là người cho vay cuối cùng để tiếp
vốn cho NHTM.
Chức năng này có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế vì đã
điều hòa vốn tiền tệ từ nơi tạm thời thừa vốn đến nơi
tạm thời thiếu vốn…Vì vậy một khi cấu trúc của hệ thống
ngân hàng có bất ổn sẽ làm suy yếu hệ thống,nguy cơ

mất an toàn hệ thống ngân hàng sẽ có ảnh hưởng lan
truyền,đe dọa sự ổn định của nền kinh tế.
1.2.2.Chức năng trung gian thanh toán:
Thực hiện chức năng này là việc ngân hàng trả tiền cho
khách hàng theo lệnh của chủ thể tài khoản tiền theo
lệnh của họ.Thực chất của chức năng này là ngân hàng
vừa làm thủ quỹ lại vừa thực hiện các dịch vụ ủy nhiệm
của khách hàng,như ủy nhiệm chi,ủy nhiệm thu,thẻ rút
tiền,thẻ thanh toán,thẻ tín dụng…Khi quan sát công việc
này,Karl Marx cho rằng “ công việc của người thủ quỹ
chính là ở chỗ làm trung gian thanh toán,khi ngân hàng
xuất hiện thì chức năng này được chuyển sang ngân
hàng” Trích Karl Marx,Tư bản,quyển III,tập II.
Chức năng này có ý nghĩa lớn lao đối với nền kinh tế vì
đã tiết kiệm được tiền mặt lưu thông và tiết kiệm được
cac chi phí lưu thông tiền mặt.
1.2.3.Chức năng tạo ra các công cụ lưu thông tín dụng
thay thế cho tiền mặt.

Các công cụ lưu thông tín dụng gồm có:
-

Hối phiếu.
Lệnh phiếu.
Séc.
Kỳ phiếu ngân hàng.
Các công cụ lưu thông khác.

Trong đó séc,kỳ phiếu ngân hàng và công cụ lưu thông khác
của ngân hàng để thay thế cho tiền mặt,thông quan đó,tạo

điều kiện cho xã hội tiết kiệm được một khối lượng chi phỉ lưu
thông khá lớn và đảm bảo an toàn,thuận lợi trong việc thanh
tóan và bảo quản tiền mặt.
1.2.4.Chức

năng cung ứng các dịch vụ tài chính:


Cung ứng các dịch vụ tài chính đa dạng cho nền kinh
tế,như:tư vấn tài chính,quản lý tài chính cá nhân,kinh doanh
ngoại hối,bảo lãnh,…
1.3.

Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại:

Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức chuyên nghiệp
trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các dịch vụ tài chính,tiền tệ
cho các tổ chức kinh tế và dân cư.Thành công trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng phục thuộc vào các yếu tố
như:năng lực quản trị điều hành,nền tảng công nghệ,đội ngũ
nhân sự,chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm dịch vụ
cung cấp,…
1.3.1.Hoạt

động tạo lập nguồn vốn:

Hoạt động huy động vốn là hoạt động mang tính chất
tiền để nhằm tạo lập nguồn vốn hoạt động của ngân
hàng.Do đó,để đảm bảo nguồn vốn trong hoạt động kinh
doanh của mình,các NHTM có thể thực hoạt dộng huy

động vốn từ những nguồn sau:
-

Nguồn vốn chủ sỡ hữu :

Nguồn vốn chủ sỡ hữu hay còn gọi là vốn tự có,là nguồn
vốn ban đầu và được bổ sung trong quá trình hoạt đọng
của ngân hàng.Vốn chủ sở hữu của mỗi ngân hàng được
hình thành do tính chất sỡ hữu ngân hàng quyết định.Vốn
chủ sỡ hữu bao gồm vốn điều lệ,các quỹ trữ hình trong quá
trình kinh doanh và các tài sản nợ khác của chủ sỡ hữu
theo quy định của Nhà nước.
Vốn chủ sỡ hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn
kinh doanh của một ngân hàng thương mại,nhưng có vị trí
quan trọng.Nó cho phép ngân hàng có thể mở rộng mạng
lưới kinh doanh,gia tăng quy mô hoạt động với một mức
vốn chủ sỡ hữu phù hợp theo quy định của Nhà nước.Ngoài
ra các NHTM còn sử dụng nguồn vốn chủ sỡ hữu để góp
vốn liên doanh,cấp vốn cho các công ty con và hoạt động
kinh doanh khác.Đồng thời,nó còn thể hiện tiềm lực tài
chính của mỗi ngân hàng và duy trì niềm tin của cong
chúng vào triển vọng phát triển bền vững của mỗi ngân
hàng.Do vậy,sự tăng trưởng của vốn chủ sỡ hữu thường
được đánh giá tốt.




Nguồn vốn huy động:
Tiền gửi của khách hàng:


Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền gửi của tổ chức,cá
nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn,tiền gửi có kỳ
hạn,tiền gửi tiết kiệm,phát hành các chứng chỉ tiền gửi,kỳ
phiếu,tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo
nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc,lãi cho người gửi
tiền theo thỏa thuận.


Tiền gửi tiết kiệm: là hình thức thu hút tiền nhàn rỗi từ
các khách hàng cá nhân.Đây là phần thu nhập của cá
nhân người lao dộng chưa sử dụng cho tiêu dùng.Họ gửi
vào ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an
toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó.Tiền gửi tiết
kiệm là một dạng đặc biệt để tích lũy tiền tệ trong lĩnh
vực tiêu dùng cá nhân.Trên thực tế,trong nền kinh tế thị
trường tiền gửi tiết kiệm được phát triển dưới hai loại
hình tiết kiệm sau:

Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể
rút ra bất kỳ lúc nào song không được sử dụng các công cụ
thanh toán để chi trả cho người khác.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền có sự thỏa
thuận về thời hạn gửi và rút tiền,có mức lãi suất cao hơn so
với tiền gửi không kỳ hạn.


Phát hành các giấy tờ có giá trị:

Giấy tờ có giá là chứng nhận của ngân hàng hát hành huy

động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả một khoản tiền
trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều
khoản cam kết khác giữa ngân hàng với người mua.Ngân
hàng được phát hành các giấy tờ có giá như:chứng chỉ tiền
gửi,kỳ phiểu,tín phiếu,trái phiếu để huy động vốn trong
nước và nước ngoài.Nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của
khách hàng cũng như sự cạnh tranh ngày càng gay gắt
giữa các ngân hàng,các NHTM phát hành các loại giấy tờ có
giá với nhiều loại kỳ hạn,lãi suất khác nhau và có thể ghi
danh hoặc không ghi danh.


Vay tổ chức tín dụng khác và ngân hàng Trung ương:


Ngoài các hình thức huy động vốn nói trên,khi cần thiết
(nhu cầu vay vốn của khách hàng gia tăng mạnh hoặc
ngân quỹ bị thiếu hụt do dòng tiền rút ra) các NHTM huy
động bằng cách đi vay của các tổ chức tín dụng khác hay
vay vốn NHTW.



Các công cụ huy động vốn mới:
Index CDs

Trong năm 1987,các nhà đầu tư trên thị trường tài chính đã
bị thu hút sự chú ý bởi một số NH đứng đầu thế giới (Chase
Manhattan Bank và First Chicago Cor-poration) khi những
NH này thông báo việc phát hành các chứng chỉ tiền gửi

được gắn với các chỉ số của thị trường chứng khoán và thị
trường hàng hóa.Các chứng chỉ này được gọi là Index
CDs,là những công cụ mới để huy động tiền gửi NH và hàng
hóa trên thị trường tăng lên, nhưng lạo cũng có khả năng
mất đi toàn bộ hoặc phần lớn số lãi tiền gửi nếu giá cổ
phiếu hoặc hàng hóa giảm.


Tiền gửi được thông qua môi giới:

Đây là các loại tiền gửi lớn và nhỏ có kỳ hạn được các nhà
môi giới trung gian đại diện cho khách hàng của họ gửi vào
NH.Các nhà môi giới tiền gửi xuất hiện pử Mỹ vào những
năm đầu 1980s khi các khách hàng gửi tiền phải đối mặt
với rủi ro gia tăng do sự phá sản của các ngân hàng.Các
khách hàng FDIC) đã phải chịu những thiệt hại rất lớn
(trong năm 1985,chỉ 55% yêu cầu rút tiền của khách hàng
gửi tiền được thực hiện).Hoạt động của các nhà môi giới
tiền gửi diễn ra ở hai loại như sau:
+ Các nhà môi giới chia nhỏ các khoản tiền của khách hàng
lớn thành nhiều khoản tiền nhỏ hơn và được bảo hiểm đầy
đủ rồi gửi vào NH khác nhau.Với việc làm này các nhà môi
giới giúp cho khách hàng gửi tiền đảm bảo an toàn được
tiền gửi của họ,còn NH thì được sử dụng nguồn vốn có chi
phí thấp hơn (lãi trả thấp hơn do mệnh giá gửi tiền nhỏ
hơn).
+ Hoạt động diễn ra theo chiều ngược lại là các nhà môi
giới tập trung các khoản tiền gửi của các khách hàng nhỏ
thành khoản tiền gửi vào NH với mệnh giá lớn hơn(nhưng



vẫn được bảo hiểm đủ mức) với mục địch kiếm được số tiền
lãi lớn hơn.


Chứng chỉ tiền gửi ngoại tệ:

Do sự chênh lệch đáng kể giữa mức lãi suất trong nước và
mức lãi suất trên các thị trường nước ngoài,nhiều NH đã
phát hành các chứng chỉ tiền gửi ngoại tệ nhằm khuyến
khích khách hàng gửi tiền.
1.3.2.Hoạt
-

động sử dụng vốn:
Hoạt động tín dụng:

Đây là hoạt động kinh doanh thông qua sự chuyển giao có
thời hạn một lượng giá trị từ phía ngân hàng cho đi vay,với
sự cam kết hoàn trả gốc và lãi từ phía người đi vay khi đáo
hạn.Hoạt động tín dụng thực hiện quá rình cung ứng vố cho
nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất,đầu tư tiêu
dùng cho các chủ thể trong nền kinh tế.
Hoạt động cấp tín dụng của NHTM cho các tổ chức được thể
hiện dưới các hình thức: Cho vay,chiết khấu,bảo lãnh,cho
thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định.
Để thiết lập quy trình tín dụng thích hợp và nâng cao hiệu
quả hoạt động,hoạt động tín dụng được phân chia theo
những tiêu chí khác nhau như mục đích,tính chất đảm
bảo,thời hạn,mức độ tín nhiệm,phương pháp hoàn

trả,phương thức cấp tín dụng.
Đặc thù của NHTM là kinh doanh tiền tệ.Nếu gặp rủi ro từ
hoạt động tín dụng thì không chỉ ngân hàng và người gửi
tiền,đầu tư ảnh hưởng mà sẽ kéo theo nhiều hậu quả cho
nền kinh tế.Bời vậy đặt ra yêu cầu các NHTM phải đặc biệt
chú ý dành nhiều nguồn lực để quản trị các rủi ro ẩn trong
hoạt động này.
+ Hoạt động ngân quỹ
Là hoạt động duy trì khả năng thanh toán thường xuyên
cho khách hàng và ngân hàng bằng việc duy trì một mức
dự trữ thanh toán bắt buộc có thể do NHTW quy định hoặc
do NHTM tính toán cũng như việc đảm bảo cơ cấu của các
loại tiền để thanh toán cho khách hàng. Các khoản dự trữ
này có thể là tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại các tổ chức tín


dụng khác, hoặc giấy tờ có giá có thể chuyển thành tiền
trong thời gian ngắn như tín phiếu kho bạc hoặc các chứng
khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao
Hoạt động này mang lại lợi ích cho cả khách hàng và ngân
hàng: khách hàng không phải tốn nhiều thời gian và công
sức trong thanh toán công nợ, được ngân hàng đảm bảo
tính an toàn và hưởng lãi; ngân hàng được hưởng lợi ích từ
việc khách hàng duy trì số dư trên tài khoản.
+ Hoạt động đầu tư:
Ngoài việc sử dụng nguồn vốn để cấp tín dụng,NHTM còn
sử dụng một phần nguồn vốn,vừa là để sinh lời,vừa là để
phân tán rủi ro:
Đầu tư trực tiếp: là đầu tư vào các doanh nghiệp ,công
thương nghiệp thông qua việc góp vốn liên doanh,liên kết

thành lập các công ty con hoặc mua cổ phiếu,trái phiếu
doanh nghiệp,mua cổ phiếu sáng lập để tham gia hội đồng
quản trị công ty và để phân chia lợi nhuận.
Đầu tư gián tiếp:thông qua việc mua công trái nhà nước,tín
phiểu kho bạc Nhà nước,tín phiếu NHNH.Nếu dự trữ chúng
khoán có giá này,khi cần vốn ngân hàng thương mại có thể
bán trên thị trường chứng khoán hoặc làm tài sản đảm bảo
để xin táu chiết khấy ở NHTW.
Đầu tư khác: kinh doanh chứng khoán,kinh dianh ngoại
tệ,kinh doanh khác.
1.3.3.Các
-

hoạt động khác:
Dịch vụ tư vấn:

Ngân hàng cung cấp các dịch vụ tư vấn cho khách hàng
như dịch vụ điều tra và đánh giá tình hình tài chính của
công ty,quản lý thanh khoản và vốn lưu động,hợp nhất và
mua lại công ty,phân tích thẩm định các dự án đầu
tư,hoạch định và quản lý tài chính,các hoạt động tài chính
thương mại quốc tế và việc sử dụng thị trường tài chính
quốc tế…
-

Dịch vụ ủy thác:


Theo “Từ điển kinh tế học hiện đại” của D.W Pearce, nghiệp
vụ ủy thác là việc tài sản của một người được giao cho

người khác quản lý và thực hiện các yêu cầu của người sở
hữu. Người giao tài sản không có quyền nắm giữ, quản lý
tài sản. Người nhận có trách nhiệm quản lý tài sản, không
được hưởng lợi nhuận sinh ra từ 25 tài sản mà chỉ được
hưởng một khoản tiền mà người ủy thác trả gọi là phí uỷ
thác.(1)
Các dịch vụ ủy thác được thực hiện đối với cá nhân: quản lý
thanh lý tài sản theo di chúc,quản lý điều hành tài sản theo
hợp đồng,giám hộ và bảo quản tài sản,dịch vụ đại diện,..
Các dịch vụ ủy thác được thực hiện đối với doanh nghiệp
phục vụ cho các mục đích: quản lý quỹ hưu trí,phân chia lợi
nhuận và tiền thưởng cổ phần,phát hành trái phiếu,…
Các nội dung của dịch vụ ủy thác vốn,ủy thác đầu tư,ủy
thác thực hiện công việc.
-

Dịch vụ bảo lãnh ( thu phí)

Dịch vụ bảo lãnh (thu phí): Là hình thức tổ chức tín dụng
cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ
chức tín dụng theo thỏa thuận. Bên được bảo lãnh có thể là
chính doanh nghiệp hoặc các tổ chức/cá nhân khác mà
doanh nghiệp muốn ngân hàng bảo lãnh.
Các nghĩa vụ hợp pháp được các ngân hàng phát hành thư
bảo lãnh thường là bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán,
bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh
thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo lãnh tiền ứng

trước, bảo lãnh khoản tiền giữ lại (bảo lãnh bảo hành), bảo
lãnh đối ứng, bảo lãnh cho các mục đích chuyên biệt… và
ngân hàng thực hiện thu phí dịch vụ bảo lãnh. Phần phí từ
dịch vụ bảo lãnh được ghi nhận vào hoạt động dịch vụ phi
tín dụng.
-

Kinh doanh và các dịch vụ bảo hiểm:


Các loại nghiệp vụ bảo hiểm: bảo hiểm nhân thọ,bảo hiểm
phi nhân thọ,bảo hiểm thiệt hại kinh doanh,bảo hiểm trách
nhiệm của chủ phương tiện,bảo hiểm du lịch,…
Dịch vụ bảo quản tài sản và cho thuê két sắt:

-

Bao gồm: bảo quản và quản lý tài sản,giấy tờ có giá và cho
thuê két sắt.
Các nghiệp vụ ngoại bảng:

-

Như là: bảo lãnh của ngân hàng,cam kết tín dụng,chuyển
nhượng các khoản cho vay,…
Không phải bất kỳ một NHTM nào đều thực hiện kinh doanh
tất cả các dịch vụ trên. Tuỳ theo quy định luật pháp từng
quốc gia mà có cho các NHTM thực hiện tất cả các dịch vụ
trên hay chỉ cho thực hiện một số dịch vụ. Khi luật pháp đã
cho phép nhưng còn phải tuỳ theo đặc điểm, chiến lược

kinh doanh, mục tiêu hoạt động của từng ngân hàng mà
lựa chọn sản phẩm cung cấp phù hợp với ngân hàng mình.
Trong mỗi sản phẩm của ngân hàng lại đa năng về hình
thức, phương thức cung 27 cấp. Khách hàng có thể thoả
mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính tại một NHTM
thông qua một địa điểm.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng
thương mại:
1.4.1.Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm
dịch vụ ngân hàng:

1.4.

Cùng với những cơ hội từ việc toàn cầu hóa và mở cửa
thị trường ngân hàng, tài chính, việc gia tăng áp lực cạnh
tranh từ các tổ chức tín dụng trong nước, nước ngoài và
nhu cầu ngày càng phát triển của khách hàng đã đặt các
NHTM trong tình trạng không ngừng nghiên cứu để mở
rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính mà họ cung
cấp cho khách hàng. Các NHTM đã phải phát huy tối đa
những lợi thế của mình, liên tục nâng cấp công nghệ để
có thể đưa ra những sản phẩm dịch vụ tốt nhất đáp ứng
nhu cầu của khách hàng mới có thể tồn tại và phát triển.
1.4.2.Sự

gia tăng cạnh tranh:


Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày
càng trở nên quyết liệt không chỉ giữa các NHTM trong

nước với nhau mà còn giữa NHTM trong nước với NHTM
nước ngoài và các tổ chức được cung cấp các dịch vụ tài
chính ngân hàng. Sự cạnh tranh này được thể hiện rất rõ
qua việc cạnh tranh về danh mục sản phẩm dịch vụ
cung cấp, cụ thể là các sản phẩm: tín dụng, tiết kiệm, kế
hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh
nghiệp và người tiêu dùng. Áp lực cạnh tranh đóng vai
trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho
tương lai.
1.4.3.Sự

gia tăng chi phí vốn:

Sự nới lỏng các quy định kết hợp với sự gia tăng cạnh
tranh làm tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản
tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng buộc các
NHTM phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định.
Đồng thời, việc chính phủ nhiều quốc gia yêu cầu các
ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một
nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình
buộc NHTM phải tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động
khác như giảm số nhân viên, thay thế các thiết bị lỗi thời
bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại đã tạo ra một khoản
chi phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các
nguồn vốn truyền thống (như tiền gửi).
1.4.4.Sự

gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất:

Các qui định của Chính phủ đối với công nghiệp ngân

hàng tạo cho khách hàng khả năng nhận được mức thu
nhập cao hơn từ việc chuyển những khoản tiền gửi trong
các tài khoản tiết kiệm với lãi suất thấp và các tài khoản
giao dịch không sinh lợi sang các tài khoản có mức lãi
suất cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ lãi suất thay đổi
theo điều kiện thị trường. Vì vậy, ngân hàng phải đối mặt
với những khách hàng nhạy cảm với lãi suất hơn.
1.4.5.Cách

mạng công nghệ ngân hàng:

Đối mặt với sự canh tranh ngày càng gay gắt hơn, từ
nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển
sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử


thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc
biệt là trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ
và cấp tín dụng để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách
hàng. Những sản phẩm điển hình của cách mạng trong
công nghệ ngân hàng có thể kể đến là: máy rút tiền tự
động, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi
của họ 24/24 giờ; máy thanh toán tiền được lắp đặt ở các
bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các
phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; hệ
thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một
cách nhanh chóng trên toàn thế giới, …
2.

Cơ sở lý luận về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng

thương mại
2.1. Khái niệm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
2.1.1.Khái niệm:
Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 1998), tái cấu trúc
ngân hàng bao gồm một loạt các biện pháp được phối
hợp chặt chẽ nhằm duy trì hệ thống thanh toán quốc gia
và khả năng tiếp cận các dịch vụ tín dụng, đồng thời xử
lý các vấn đề còn tồn tại trong hệ thống tài chính là
nguyên nhân gây ra khủng hoảng. [5]
Theo Claudia Dziobek và Ceyla Pazarbasioglu, tái cấu
trúc ngân hàng là biện pháp hướng tới mục tiêu nâng
cao hiệu suất hoạt động của ngân hàng, bao gồm phục
hồi khả năng thanh toán và khả năng sinh lời, cải thiện
năng lực hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng để làm
tròn trách nhiệm của một trung gian tài chính và khôi
phục lòng tin của công chúng [5]. Theo quan điểm này
thì tái cấu trúc ngân hàng bao gồm tái cấu trúc tài chính
(financial restructuring), tái cấu trúc hoạt động
(operational restructuring) và giám sát an toàn. Trong
đó, tái cấu trúc tài chính hướng đến việc phục hồi khả
năng thanh khoản bằng cách cải thiện bảng cân đối của
các ngân hàng thông qua các biện pháp như tăng vốn,
giảm nợ, hoặc nâng giá trị tài sản. Tái cấu trúc hoạt động
hướng đến mục tiêu nâng mức lợi nhuận bằng cách chú
trọng hơn đến chiến lược hoạt động, cải thiện hiệu quả
và năng lực quản lý và hệ thống kế toán, nâng cao năng
lực thẩm định tín dụng. Việc giám sát và các quy tắc an


toàn được đặt ra nhằm mục tiêu cải thiện năng lực hoạt

động của toàn bộ hệ thống ngân hàng dưới vai trò là
trung gian tài chính.
Từ những khái niệm trên, có thể khái quát, tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng thương mại là thực hiện các
biện pháp nhằm khắc phục các khiếm khuyết của hệ
thống ngân hàng thương mại nhằm mục đích duy trì sự
phát triển ổn định (bền vững, an toàn) và hiệu quả chức
năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng
thương mại trong nền kinh tế, đặc biệt là chức năng
thanh toán và trung gian tín dụng, đồng thời nâng cao
hiệu quả hoạt động của các NHTM.
2.1.2.Đặc
-

-

điểm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương

mại:
Một là, tính quyết liệt trong của công cuộc tái cấu: Hoạt
động của NHTM có tầm ảnh hưởng rộng khắp và lan
truyền, chính vì vậy khi hệ thống ngân hàng yếu kém sẽ
kéo theo sự suy yếu của tất cả các lĩnh vực khác. Chỉ cần
một ngân hàng đổ vỡ, nguy cơ đổ vỡ toàn hệ thống rất
lớn, và lan truyền rộng khắp còn gọi là hiện tượng
Domino. Chính vì vậy tái cơ cấu hệ thống NHTM đòi hỏi
phải thực hiện một cách quyết liệt.
Hai là, tái cơ cấu hệ thống NHTM là chương trình mang
tầm cỡ quốc gia: Như trên đã đề cập về tầm ảnh hưởng
của hệ hống NHTM đối với nền kinh tế xã hội của một

quốc gia, vì vậy tái cơ cấu hệ thống ngân hàng không chỉ
liên quan đến riêng ngành ngân hàng mà còn liên quan
đến nhiều lĩnh vực khác. Nếu chỉ để riêng hệ thống ngân
hàng tái cấu trúc thì sẽ không đạt mục tiêu đề ra. Như
vậy, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng phải đảm bảo có sự
tham gia, phối hợp tích cực, hiệu quả của nhiều cơ quan
quản lý nhà nước.

2.2. Nguyên nhân tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương
mại:
-

Khủng hoảng kinh tế kéo dài: một khi khủng hoảng
kinh tế, đặc biệt là khủng hoảng kinh tế toàn cầu
kéo dài, môi trường kinh doanh của ngân hàng xấu
đi nghiêm trọng dẫn đến các mặt hoạt động của


2.3.

ngân hàng kém hiệu quả, nợ xấu gia tăng, tỷ lệ an
toàn vốn giảm sút.
- Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng tăng cao, nguy
cơ mất vốn của ngân hàng ngày càng lớn. Là trung
gian tín dụng, nên khi nợ xấu gia tăng hệ thống
NHTM có nguy cơ mất thanh khoản, rủi ro vỡ nợ
ngày càng lớn, hệ thống ngân hàng suy yếu, đe dọa
sự bất ổn cho cả nền kinh tế, xã hội của một quốc
gia, thậm chí cả khu vực. 31 Trong bối cảnh đó niềm
tin của các chủ thể trong nền kinh tế xã hội và hệ

thống ngân hàng giảm sút và ảnh hưởng ngược lại
cho chính các ngân hàng. Vòng xoáy đó ngày càng
lan rộng, hướng giải quyết duy nhất là tái cấu trúc
hệ thống NHTM.
- Khuôn khổ giám sát và quản lý yếu: Khi khuôn khổ
giám sát của chính phủ, ngân hàng trung ương
chưa hoàn thiện, nhiều khe hở. Khuôn khổ giám sát
kém cộng thêm với cạnh tranh gay gắt giữa các
NHTM và sự quản lý yếu kém trong chính từng
NHTM dẫn đến sự bùng phát những bất ổn trong cả
hệ thống. Đây cũng chính là lý do để tái cấu trúc hệ
thống NHTM.
Mục tiêu của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương
mại:
- Duy trì sự phát triển ổn định, hiệu quả chức năng
trung gian tài chính của hệ thống NHTM. Khi nền
kinh tế phát triển sẽ đòi hỏi hệ thống NHTM phải
thay đổi để thích ứng, đảm bảo các mặt hoạt động
có hiệu quả. Sự thay đổi trong điều kiện này phải
theo nguyên lý vòng xoáy ốc dẫn đến, do vậy cần
thiết phải tái cấu trúc hệ thống NHTM cho mục tiêu
phát triển.
- Giải quyết các vấ đề một cách kịp thời nhằm ngăn
ngừa sự lây lan hoặc các vấn đề mang tính hệ
thống.
- Khôi phục lại niềm tin của công chúng đối với hệ
thống ngân hàng.
- Tổi thiểu hóa chi phí tái cấu trúc với NHTW hoặc
chính phủ.
- Đưa vào khuôn khổ quản trị mới.



Xây dựng tính cạnh tranh và khả năng chống chịu
của hệ thóng ngân hàng;bảo đảm hệ thống ngân
hàng đủ tiềm lực để có thể đạt các chuẩn mực của
quốc tế;tăng cường sức mạnh nội tại của ngan
hàng,chống lại các mầm móng bất ổn và khủng
hoảng.
- Tăng cường cơ sở hạ tầng tổng thể của hệ thống tài
chính.
Nội dung tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại:
Tái cấu trúc tài chính:
Tăng quy mô và chất lượng vốn tự có của các
NHTM
-

2.4.
2.4.1.

+ Tạo nền tảng cho hoạt động của NHTM.
+ Bảo đảm sự an toàn cho NHTM
+ Duy trì niềm tin và điều chỉnh hoạt động của NHTM
Chỉ tiêu vốn tự có và chỉ tiêu an toàn vốn(CAR) là những chỉ
tiêu đặc biệt quan trọng phản ánh mức độ an toàn, lành mạnh
của ngân hàng cần phải luôn được duy trì ở mức tối thiểu nhất
định theo quy định của pháp luật. Do đó, khi tiến hành tái cấu
trúc tài chính NHTM cần phải có những biện pháp nhằm tăng
vốn để có thể tăng khả năng tài chính cho các ngân hàng giúp
cho các ngân hàng có thể tự tin và chủ động trong hoạt động
của mình. Để tăng quy mô vốn tự có của NHTM có thể áp

dụng các biện pháp như: tăng vốn điều lệ, mua lại sáp nhập
các NHTM, chuyển nợ thành vốn góp. Các biện pháp tăng quy
mô vốn tự có phụ thuộc nhiều vào những yếu tố từ bên ngoài,
bản thân từng NHTM khó có thể chủ động quyết định. Chẳng
hạn việc tăng vốn điều lệ đối với NHTM cổ phần phụ thuộc
nhiều vào xu hướng của thị trường chứng khoán. Các NHTM
cũng có thể tăng vốn tự có về lượng và chất khi tăng tỷ lệ lợi
nhuận giữ lại. Phần vốn tự có tăng thêm do trích từ lợi nhuận,
ngân hàng không phải trả phí, vì vậy đây là nguồn vốn có chi
phí thấp và được coi là có chất lượng. Các NHTM có thể chủ
động hoàn toàn khi tăng vốn tự có bằng cách tăng tỷ lệ lợi
nhuận giữ lại.
-

Xử lý nợ xấu:


Một trong những nội dung cần thiết trong tiến trình tái cấu
trúc tài chính NHTM là phải xác định, nắm chính xác con số nợ
tồn đọng của các ngân hàng được tái cấu trúc là bao nhiêu,
trên cơ sở đó để có các bước xử lý có hiệu quả. Để xử lý nợ
xấu có thể áp dụng các biện pháp như: cấu trúc lại nợ, xử lý
tài sản đảm bảo, bán cho công ty mua bán nợ, chuyển nợ
thành vốn góp, ...
2.4.2.

Tái cấu trúc hoạt động kinh doanh:
- Tái cấu trúc về sản phẩm, dịch vụ của NHTM

+ Tập trung củng cố, phát triển các hoạt động kinh doanh

chính, loại bỏ các lĩnh vực kinh doanh rủi ro, kém hiệu quả và
từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của các NHTM
theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và
tăng nguồn thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng.
+ Tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền
thống và nghiên cứu, triển khai, phát triển nhanh các dịch vụ
ngân hàng hiện đại (dịch vụ thanh toán điện tử, ngoại hối,
đầu tư, quản lý tài sản, quản lý rủi ro cho khách hàng,…), đáp
ứng những nhu cầu khác nhau của khách hàng
+ Mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động ngân hàng ở khu
vực có tiềm năng phát triển và giảm các chi nhánh, điểm giao
dịch hoạt động kém hiệu quả.
-

Tái cấu trúc về nhân sự:

+ Số lượng lao động: Nếu số lượng lao động hợp lý ở mỗi chi
nhánh, mỗi điểm giao dịch thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi để
mở rộng các hoạt động kinh doanh cho các chi nhánh và toàn
bộ hệ thống NHTM.
+ Chất lượng nguồn nhân lực: chất lượng nguồn nhân lực của
một ngân hàng được đánh giá qua các chỉ tiêu: trình độ học
vấn; trình độ ngoại ngữ; trình độ tin học; các kỹ năng mềm
như giao tiếp, thuyết trình, năng lực giải quyết các vấn đề
phát sinh, tinh thần trách nhiệm, sự nhiệt tình, đạo đức nghề
nghiệp, kinh nghiệm chuyên môn.
Đặc biệt, bộ máy quản trị ngân hàng cấp cao lại càng phải có
chất lượng vì đây là bộ phận “đầu não” trong việc xây dựng,



hoạch định và giám sát thực thi các chiến lược ở cả hệ thống
NHTM.
Như vậy, vấn đề nhân sự được coi là có tính nền tảng trong
chiến lược phát triển của các NHTM. Vì vậy, để đội ngũ nhân
sự có thể đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển của các
NHTM thường thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau: Tuyển
dụng, bố trí hoặc sa thải viên chức theo yêu cầu quản lý mới,
đáp ứng được nhu cầu công việc với áp lực cao; Xây dựng hệ
thống khuyến khích vật chất và tinh thần phù hợp với yêu cầu
kinh doanh, cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận; Xây dựng kế
hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ, tập trung trước hết vào
các lĩnh vực chính yếu của tái cấu trúc như: nghiệp vụ quản lý
chiến lược, quản lý rủi ro, kế toán, kiểm toán, quản lý tín dụng
và dịch vụ mới.
-

Tái cấu trúc về công nghệ:

Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng:
+ Hiện đại về trang thiết bị, máy móc : Đây là những yếu tố
cốt lõi để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện ích và
an toàn.
+ Nếu không hiện đại hoá công nghệ chắc chắn sản phẩm,
dịch vụ của ngân hàng sẽ không được nâng cấp và rơi vào
tình trạng lạc hậu. Chẳng hạn, các loại thẻ thanh toán phải có
tính đa năng, tiện ích và an toàn. Để có được những tính năng
quan trọng đó đòi hỏi NHTM phải đầu tư vào công nghệ.
+ Hệ thống kiểm tra, giám sát, theo dõi thông tin về khách
hàng, hệ thống kế toán, … của NHTM đòi hỏi phải có sự chuẩn
xác và hợp lý. Giúp cho các NHTM chủ động trong việc dự báo,

phòng ngừa và hạn chế rủi ro.
-

Hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động:

+Rà soát và tái cấu trúc bộ máy tổ chức sao cho vừa tinh gọn
vừa đảm bảo thực hiện hoạt động của ngân hàng được tiến
hành thông suốt, hiệu quả, phòng ngừa rủi ro hữu hiệu.
+ Phân tách giữa chức năng điều hành và chức năng giám sát
để đảm bảo sự kiểm tra toàn diện và cân bằng về nguồn lực.
2.4.3.

Tái cấu trúc hệ thống quản trị:


Các NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt với đặc thù là tổ chức
kinh doanh “tiền” nên có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng
lớn đối với hệ thống tài chính và toán bộ nền kinh tế. Chính vì
vậy, quản trị công ty đối với NHTM càng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Vấn đề quản trị công ty đối với hoạt động của các
NHTM đã được Ủy ban Basel ban hành năm 1999, sửa đổi
năm 2006.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới luôn biến động khó lường
thì quản trị công ty nói chung và quản trị NHTM càng có ý
nghĩa hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, một trong những trọng
tâm của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam
là nâng cao năng lực quản trị công ty của các ngân hàng, cải
thiện và hướng tới chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty,
đảm bảo an toàn, tăng cường tính minh bạch, từ đó nâng cao
năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.

2.4.4.

Tái cấu trúc sở hữu:
Bản chất của sở hữu là lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế.
Nếu không có lợi ích thì bản thân sở hữu sẽ không có ý
nghĩa. Sở hữu không có ý nghĩa tự thân mà là phương
tiện để con người thông qua nó mà thực hiện lợi ích của
mình. Với tư cách là quan hệ chi phối lao động, sở hữu
đồng thời quy định cả phương thức hoạt động của các
chủ thể ở mọi lĩnh vực sản xuất, trao đổi, phân phối và
tiêu dùng.
- Ngân hàng thuộc sở hữu tư nhân
- Ngân hàng thuộc sở hữu của các cổ đông (Ngân
hàng thương mại cổ phần)
- Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước
- Ngân hàng liên doanh.

Việc thay đổi cấu trúc sở hữu sẽ hỗ trợ nguồn vốn cho hoạt
động đầu tư, hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện trao đổi
kinh nghiệm, nguồn nhân lực, tài chính, công nghệ giữa các
đối tác, giúp các ngân hàng tăng vốn đáp ứng theo yêu cầu
của Chính phủ từ đó góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh,
thúc đẩy sự phát triển hiệu quả, bền vững cho hệ thống này.
Xu hướng chung tại các quốc gia, việc sắp xếp lại hệ thống
ngân hàng thương mại là quá trình thay đổi cấu trúc sở hữu
theo xu hướng giảm dần tỷ lệ sở hữu nhà nước, tăng dần tỷ lệ


sở hữu trong lĩnh vực này cho các thành phần kinh tế khác.
Một trong những chuyển biến tích cực là các quốc gia chú

trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài thâm nhập vào lĩnh vực
ngân hàng.
2.5.

Vai trò NHTW trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng thương mại.
- Tổ chức quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
thương mại:

+ Rà soát, đánh giá tình hình hoạt động của toàn hệ thống
NHTM
+ Lập phương án tái cấu trúc hệ thống NHTM trình chính phủ
phê duyệt.
-

NHTW điều phối,hỗ trợ thực hiện tái cấu trúc hệ
thống NHTM

+ Ngân hàng Trung ương hỗ trợ giải quyết vấn đề thanh
khoản
+Ngân hàng Trung ương làm trung gian giữa các ngân hàng
thương mại.
+ Ngân hàng Trung ương kiểm soát môi trường vĩ mô.
+ Cải thiện lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngân hàng Trung ương đánh giá, đúc rút bài học
kinh nghiệm về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
thương:
Những khó khăn và rủi ro của quá trình thực hiện tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng thương mại:
- cơ sở luật pháp và cơ sở dữ liệu không đầy đủ có

thể làm cho quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM
có thể kéo dài hơn dự kiến, dẫn đến chi phí gia
tăng, hoặc không thực hiện đầy đủ mục tiêu đề ra,
làm cho hiệu quả của chương trình tái cấu trúc
giảm sút.
- tỷ lệ các NHTM trong nước ở trong tình trạng thiếu
thanh khoản, có nợ xấu cao, ... chiếm tỷ trọng lớn
hơn nhiều so với số lượng NHTM hoạt động hiệu quả
để có khả năng mua lại, thâu tóm các NHTM yếu
kém quá trình tái cấu trúc có thể bị ngưng trệ, khi
-

2.6.


3.

đó hoạt động tái cấu trúc có thể phải trông chờ đến
ngân hàng nước ngoài. Việc phụ thuộc vào NHTM
nước ngoài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn đề
an ninh tài chính tiền tệ quốc gia.
- Mất niềm tin đối với hệ thống NHTM do những ngân
hàng thuộc sở hữu nhà nước có thể có cơ chế bảo
lãnh ngầm đối với người gửi tiền. Trong khi đó, các
ngân hàng tư nhân không được đảm bảo có thể
khiến luồng tiền ồ ạt rút khỏi những ngân hàng này,
hoặc việc Chính phủ đóng cửa một số ngân hàng có
thể tạo ra nghi ngờ về sự lành mạnh của những
ngân hàng khác trong hệ thống.
- khó khăn do những mâu thuẫn về lợi ích phát sinh

trong quá trình tái cấu trúc. Đó là những mâu thuẫn
có liên quan đến lợi ích của người gửi tiền, lợi ích 46
của nhóm cổ đông khác nhau, lợi ích của các nhóm
ngân hàng khác nhau, lợi ích của người vay, …
- khó khăn do những chi phí phát sinh: trong quá
trình tái cấu trúc và khả năng chịu đựng của nền
kinh tế.
- rủi ro “Quá lớn để không thể sụp đổ”: do một số
NHTM sẽ trở nên “quá lớn” hay quá quan trọng sau
tái cấu trúc, dẫn đến tình trạng chi phối hệ thống
NHTM, việc kiểm soát hoạt động ngân hàng sẽ trở
nên khó khăn hơn.
Kinh nghiệm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của
một số quốc gia

Kinh nghiệm của Mỹ
Cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế 2008 tại Mỹ có nguyên
nhân chính là việc Mỹ áp dụng chính sách lãi suất thấp trong
một thời gian khá dài, việc giảm bớt các qui định trong các
chuẩn mực tín dụng và an toàn hoạt động ngân hàng, và việc
chứng khoán hóa các tài sản thế chấp. Những nguyên nhân
này đã đặt hệ thống tài chính Mỹ vào một trạng thái rủi ro
trầm trọng gây ra bởi cho vay dưới chuẩn lan tràn.
Do đó, hệ thống ngân hàng là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề
nhất đồng thời cũng là nơi bắt đầu để khắc phục những hậu
quả của cuộc khủng hoảng này. Quá trình tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng ở Mỹ bao gồm quá trình tự tái cấu trúc của


các tổ chức tài chính và quá trình hỗ trợ từ Chính phủ. Những

cơ quan tham gia vào quá trình tái cấu trúc gồm: Cục dự trữ
liên bang (Fed), Bộ Tài chính và Cơ quản bảo hiểm tiền gửi
(FDIC) trong đó:
+ Fed có nhiệm vụ chủ yếu là duy trì thanh khoản trên hệ
thống nhằm đảm bảo dòng vốn vẫn được lưu thông một cách
trôi chảy
+ Bộ Tài chính tham gia chủ yếu vào quá trình xử lý các tài
sản tài chính có vấn đề giúp các ngân hàng cơ cấu lại bảng
cân đối tài sản thông qua chương trình cứu trợ tài sản có vấn
đề;
+ Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi (FDIC) chủ yếu là xử lý các ngân
hàng phá sản và có nguy cơ phá sản.
Sự phối hợp chặt chẽ của 3 cơ quan này trong các mục tiêu
chung như là xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Chương
trình cứu trợ tài sản có vấn đề (Troubled Assets Relief Program
–TARP) là một trong những điểm nhấn quan trọng trong tổng
thể các giải pháp vượt qua khủng hoảng và tái cấu trúc thống
ngân hàng Mỹ sau khủng hoảng 2008. Đây là chương trình
mua lại các tài sản tài chính có mức độ rủi ro cao từ các định
chế tài chính. Theo đó, chính phủ Mỹ cho phép Bộ Tài chính sử
dụng ngân sách liên bang mua hoặc bảo lãnh tối đa tới 700 tỷ
USD các tài sản có vấn đề trong hệ thống các định chế tài
chính của Mỹ với mục tiêu là khôi phục tính thanh khoản và
ổn định của hệ thống tài chính. Việc mua tài sản theo Chương
trình TARP được cho là sẽ khôi phục lại thị trường, nhờ đó giá
những tài sản này sẽ tăng dần và sẽ có lợi cho cả ngân hàng
và Bộ Tài chính. Bên cạnh đó, nếu TARP giúp ổn định lại tỷ lệ
đủ vốn của các ngân hàng, thì về mặt lý thuyết nó sẽ cho
phép các ngân hàng tăng cường cho vay thay vì phải giữ tiền
mặt cho những khoản dự phòng rủi ro không lường trước đối

với những tài sản có vấn đề. Hoạt động cho vay tăng lên cũng
đồng nghĩa với “nới lỏng tín dụng”, theo đó Chính phủ hy
vọng khôi phục thị trường tài chính và cải thiện niềm tin của
nhà đầu tư. TARP quy định Bộ trưởng Tài chính Mỹ phải mua
các tài sản này ở mức giá thấp nhất và đảm bảo giá mua là
hợp lý, phản ánh giá trị cơ bản của tài sản đồng thời cũng có
quyền bán hoặc tham gia vào các giao dịch chứng khoán, cho


vay, mua bán lại, hoặc các giao dịch tài chính khác đối với
mọi tài sản có vấn đề được mua mà được xác định là phù hợp
với mục đích của Đạo luật. Số tiền thu về từ các hoạt động
trên sẽ được đưa vào quỹ của Bộ Tài chính để giảm nợ công.
48 Bên cạnh chương trình mua lại các tài sản tài chính có vấn
đề, Mỹ cũng đã sử dụng một cách khéo léo tổ chức bảo hiểm
tiền gửi để giải quyết các ngân hàng đổ vỡ, bảo vệ người gửi
tiền, ngăn chặn sự lây lan của khủng hoảng. Khi tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản, FDIC được chỉ định là tổ chức
tiếp nhận và chịu trách nhiệm xử lý tài sản nhằm thu hồi một
cách nhanh nhất với giá trị tối đa các tài sản còn lại của tổ
chức đó. Thẩm quyền của FDIC về xử lý đổ vỡ ngân hàng được
nâng lên rõ rệt sau khi Đạo luật Dodd-Frank được ban hành.
FDIC được trao quyền lực rộng rãi không chỉ trong đảm bảo
tiền gửi ngân hàng; bảo vệ người gửi tiền; kiểm tra và giám
sát hoạt động của các tổ chức tài chính; trực tiếp xử lý đổ vỡ
ngân hàng và sắp xếp các đợt mua bán sáp nhập, … mà còn
có cả chức năng quản lý và giải cứu khủng hoảng. Để thực
hiện được vai trò trên, Bộ Tài chính đã quyết định cho phép
FDIC vay tối đa tới 500 tỷ USD để giải quyết vấn đề về vốn do
quỹ vốn của FDIC đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng

25 năm qua. Điều này cũng giúp cho FDIC dễ dàng hơn trong
việc xử lý các ngân hàng quan trọng trong hệ thống mà
không cần đến sự cho phép của Quốc hội. Kết quả là, từ khi
khủng hoảng xuất hiện đến 30/06/2011, 373 ngân hàng quy
mô lớn nhỏ đổ vỡ đã được FDIC xử lý thành công. Như vậy,
trong giai đoạn khủng hoảng, FDIC đã chứng minh được vai
trò thực tiễn trong xử lý ngân hàng đổ vỡ một cách nhanh, êm
thấm mà không gây ra các hiện tượng hoảng loạn. Việc chính
phủ Mỹ gia tăng thêm thẩm quyền cho FDIC sau giai đoạn
khủng hoảng đã khẳng định vai trò chủ động của FDIC trong
hệ thống an toàn tài chính và là thành phần không thể thiếu
trong việc thực hiện các biện pháp của Chính phủ Mỹ để quản
lý và ngăn ngừa khủng hoảng trong hệ thống tài chính. [35]
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở Thái Lan:
Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã khiến hệ thống
ngân hàng của Thái Lan chao đảo, buộc phải tái cấu trúc để
vượt qua khủng hoảng và hoạt động ổn định hơn. Để chống


đỡ với sự yếu kém của ngành ngân hàng, Chính phủ Thái Lan
đã áp dụng một số biện pháp cải cách quyết liệt.
Thứ nhất, chiến lược của Thái Lan là đóng cửa một số
định chế tài chính không còn khả năng tiếp tục hoạt động.Tại
thời điểm này Thái Lan đã tổ chức bán đấu giá tài sản của 58
công ty tài chính bị đóng cửa và thu được gần 200 tỷ Bath,
(toàn bộ việc đấu giá này do Ủy ban cơ cấu lại tài chính của
Thái Lan đảm nhiệm). Song song đó, chiến lược sáp nhập, hợp
nhất các định chế tài chính cũng được tiến hành và kết quả là
Bank Thai ra đời (do sự hợp nhất của 13 công ty tài chính và
Unionbank), Ngân hàng First Bangkok city hợp nhất với Krung

Thaibank và được tái cấp vốn 200 tỷ Bath. Còn lại
Bangkokbank được bán lại hoàn toàn cho công ty quản lý tài
sản.
Thứ hai, củng cố và tái cấp vốn những tổ chức tài chính
có khả năng duy trì hoạt động bằng cách tái cấp vốn cho các
định chế tài chính này. Theo đó, ngày 14/8/1998 Thái Lan đã
ban hành một loạt biện pháp nhằm tăng cường các định chế
này: Công bố cơ hội cho các định chế này được phép sử dụng
quỹ công vào việc tái cấp vốn dưới một số điều kiện đặc biệt;
Khuyến khích các Ngân hàng tái cơ cấu lại các khoản cho vay
của mình mà tăng các khoản tín dụng mới cho khu vực tư
nhân; Thiết lập cơ sở pháp lý cho việc thành lập các công ty
xử lý tài sản xấu; Thông báo một cách rõ ràng các biện pháp
xử lý những Ngân hàng, tổ chức tài chính đã bị kiểm soát đặc
biệt.
Thứ ba, đối với việc xử lý các khoản nợ xấu, chiến lược
của Thái Lan là phân loại các khoản nợ không hoạt động và
tách chúng ra khỏi bảng cân đối tài sản của các ngân hàng
thương mại (NHTM), sau đó mang ra bán đấu giá. Để làm
được điều này, Thái Lan đã thành lập Ủy ban tái cơ cấu khu
vực tài chính và Công ty quản lý tài sản vào tháng 10/1997.
Thứ tư, Thái Lan cũng đã đưa ra một khung pháp lý
thuận lợi cho công cuộc tái cơ cấu này như Luật phá sản được
thông qua, thành lập tòa án chuyên giải quyết các vụ phá
sản.
Kết quả là hệ thông ngân hàng của Thái Lan đã được tái cấu
trúc mặc dù chỉ có 2 NHTM và 56 công ty tài chính bị đóng



×