Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Nghiên cứu tác động của xuất khẩu lao động nữ đến gia đình và cộng đồng ở xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.01 KB, 92 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa từng sử dụng trong bất cứ luận văn, luận án nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khoá luận đều
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2010
Sinh viên

Võ Thị Thanh Hằng

i


LỜI CẢM ƠN
Trước hết cho tôi được gửi lời cảm ơn đến toàn thể thầy giáo, cô giáo
Trường Đại học Nông nghiệp – Hà Nội, các thầy các cô trong khoa Kinh tế
và Phát triển nông thôn đã giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, sự kính trọng sâu sắc nhất tới thầy giáo
PGS.TS Nguyễn Tuấn Sơn, người đã tận tình chỉ bảo, trực tiếp hướng dẫn
giúp đỡ tôi thực hiện khoá luận này.
Tôi cũng xin gửì lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các cô chú, anh chị
trong UBND xã Thiên Lộc, các hộ gia đình có lao động đi xuất khẩu lao
động, các hộ gia đình không có lao động tham gia xuất khẩu lao động, các
cháu nhỏ cùng người dân trong xã đã tham gia vào cuộc phỏng vấn, tạo điều
kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứu, điều tra xin số liệu của tôi.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã động viên
tôi và giúp đỡ tôi về vật chất và tinh thần trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu đề tài, để tôi hoàn thành khoá luận một cách tốt nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2010


Sinh viên

Võ Thị Thanh Hằng

ii


TÓM TẮT
Ngày nay với xu hướng toàn cầu hóa, xuất khẩu lao động đang dần trở
thành xu thế tất yếu. Từ khi ra đời đến nay, xuất khẩu lao động đã mang lại
những thành tựu to lớn cho đất nước, tuy nhiên bên cạnh đó XKLĐ cũng biểu
hiện những mặt hạn chế. Trước đây phần lớn lao động xuất khẩu là nam giới
nhưng nhiều năm trở lại đây tỷ lệ lao động nữ đi xuất khẩu lao động ngày
càng tăng, vậy nguyên nhân là gì? Và những tác động mà xuất khẩu lao động
nữ mang lại như thế nào? Có khác với lao động nam đi xuất khẩu ra sao? Để
tìm hiểu vấn đề trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : “Nghiên cứu tác
động của xuất khẩu lao động nữ đến gia đình và cộng đồng ở xã Thiên Lộc,
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh” nhằm tìm hiểu, đánh giá và phân tích những
tác động của xuất khẩu lao động nữ đến gia đình và cộng đồng, từ đó đưa ra
các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động và nhằm hạn chế
những tác động tiêu cực mà xuất khẩu lao động nữ mang lại cho gia đình và
cộng đồng.
Qua nghiên cứu đề tài chúng tôi rút ra các vấn đề sau:
- Đề tài đưa ra được cơ sở lý luận về các vấn đề về XKLĐ như khái
niệm, các hình thức, đặc điểm, nguyên nhân và vai trò của xuất khẩu lao
động. Nêu lên được cơ sở thực tiễn của vấn đề XKLĐ như: ở một số nước:
Thái Lan, Inđônêxia, Philippin, nêu lên được tình hình XKLĐ ở Việt Nam.
- Qua việc tìm hiểu về đặc điểm địa bàn nghiên cứu đề tài đã đánh giá
được một số vấn đề cơ bản về tình hình chung của xã Thiên Lộc, từ đó làm cơ
sở cho việc phân tích các vấn đề XKLĐ trên địa bàn xã.

+ Xã Thiên Lộc là một xã miền núi với diện tích 3351,45ha, người dân
chủ yếu sống bằng nông nghiệp. Dân số xã tương đối đông, lực lượng lao
động dồi dào rất thuận lợi cho phát triển kinh tế và nâng cao thu nhập cho
người dân.

iii


+ Nền kinh tế xã đang trên đà phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh. Tỷ trọng các ngành kinh tế phát triển đang có xu hướng chuyển dần
sang công nghiệp, dịch vụ.
- Phương pháp dùng chủ yếu mà đề tài dùng để phân tích là thống kê
mô tả, so sánh và phương pháp PRA.
- Qua phân tích kết quả nghiên cứu, đề tài rút ra một số điểm đáng chú
ý như sau:
+ Về thực trạng chung của lao động xuất trong xã: Tốc độ phát triển
xuất khẩu lao động ở xã giai đoạn từ 2004-2009 là khá nhanh, tính đến năm
2009 toàn xã có 628 người đi xuất khẩu lao động; về cơ cấu độ tuổi và giới
tính của lao động xuất khẩu, phần lớn lao động đi xuất khẩu tập trung nhiều ở
độ tuổi từ 31-45 tuổi, cơ cấu giới tính nam giới chiếm 51,58% trong giai đoạn
2004-2009; về nơi làm việc và ngành nghề của lao động xuất khẩu, thị trường
chủ yếu là các nước Anh, Cộng hòa Séc, Đài Loan và Đảo Ship, với khá
nhiều nghề như giúp việc cho các gia đình, công nhân trong các nhà máy; lao
động ở xã chủ yếu chưa qua đào tạo, trình độ kỹ thuật chuyên môn cũng như
trình độ tay nghề chưa cao.
+ Về tình hình xuất khẩu lao động nữ ở các hộ điều tra: Độ tuổi xuất
khẩu lao động chủ yếu nằm trong khoảng từ 31-42 tuổi; nơi làm việc chủ yếu
là các nước Đức, Anh, Đảo Ship; lao động xuất khẩu chủ yếu thông qua các
công ty môi giới (chiếm 93,33%) do vậy chi phí thường khá cao; phần lớn lao
động trước khi tham gia xuất khẩu lao động đều làm nông nghiệp (chiếm

76,67%) có việc làm không ổn định, có trình độ học vấn từ THCS trở lên và
trình độ chuyên môn thấp, chủ yếu là chưa được đào tạo qua các trường lớp.
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đi xuất khẩu lao động của lao
động nữ: Có nhiếu yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đi xuất khẩu lao động, đề
tài phân tich và chọn lọc ra 3 yếu tố cơ bản mà phần lớn lao động đều lựa
chọn đó là sức ép về kinh tế, tăng thu nhập nâng cao đời sống gia đình, áp lực

iv


về gia đình trong đó yếu tố về sức ép kinh tế là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất.
Ngoài ra còn có các yếu tố như phong trào, tâm lý, về chính sách của địa
phương…
+ Qua việc phân tích, so sánh với xuất khẩu lao động nam đề tài đã rút
ra được những tác động cả tích cực và tiêu cực của xuất khẩu lao động nữ đến
gia đình và cộng đồng. Đối với bản thân người lao động, xuất khẩu lao động
là cơ hội có việc làm, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, tuy
nhiên do ảnh hưởng của lối sống nước ngoài không ít lao động đã khiến cuộc
sống gia đình trở nên khó điều hòa; đối với gia đình, xuất khẩu lao động nữ đã
làm tăng thu nhập và nâng cao đời sống gia đình, tuy nhiên cũng từ đó mà
khiến cho nhiều gia đình tan vỡ gây bất hòa trong gia đình, con cái hư hỏng
không ai chăm sóc, và tỷ lệ này ở những hộ có lao động nữ đi xuất khẩu cao
hơn so với những hộ có lao động nam đi xuất khẩu; đối với cộng đồng, xuất
khẩu lao động đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn, kèm theo đó là những tệ nạn
cũng xuất hiện gây ra không ít tác động đến đời sống người dân.
+ Cũng từ việc phân tích, so sánh thực trạng của xuất khẩu lao động, đề
tài đã đưa ra được một số định hướng và giải pháp giúp chính quyền địa
phương và chính bản thân người lao động để đẩy mạnh xuất khẩu lao động và
để người lao động yên tâm làm việc ở nước ngoài.
+ Phần cuối cùng, đề tài đã đưa ra một số kết luận về các vấn đề nghiên

cứu và đưa ra một số kiến nghị về vấn đề xuất khẩu lao động nữ trên địa bàn
xã.

v


MỤC LỤC

vi


DANH MỤC CÁC BẢNG

vii


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ

viii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQ
CC
CN
DV
ĐVT

LĐXK
SL

NN
KT
TTCN
Trđ
XKLĐ
XH
NN&PTNT
SX
XD

: Bình quân
: Cơ cấu
: Công nghiệp
: Dịch vụ
: Đơn vị tính
: Lao động
: Lao động xuất khẩu
: Số lượng
: Nông nghiệp
: Kinh tế
: Tiểu thủ công nghiệp
: Triệu đồng
: Xuất khẩu lao động
: Xã hội
: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
: Sản xuất
: Xây dựng

ix



PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất và đầu tư bùng nổ vào những thập
kỉ gần đây, xuất khẩu lao động đã dần trở thành một phần không thể tách khỏi
của hệ thống kinh tế thế giới. Nó là một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng
của các quốc gia, đã và đang đem lại những lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể.
Việt Nam, sau gần 20 năm đổi mới nền kinh tế, từ một nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa và có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế nước nhà đã đạt được
những thành tựu quan trọng bước đầu, song cũng chỉ đáp ứng được một phần
trước những nhu cầu cấp thiết của xã hội, đặc biệt là nhu cầu việc làm do tỷ lệ
thất nghiệp gia tăng từ chuyển đổi nền kinh tế và bùng nổ dân số.
Trong những năm gần đây, xuất khẩu lao động đã trở thành một hoạt
động kinh tế - xã hội quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta.
Từ khi ra đời và phát triển đến nay đã được hơn 20 năm, xuất khẩu lao động
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần xóa đói giảm
nghèo và thu thêm ngoại tệ cho gần nửa triệu lao động, bao gồm cả lao động
kỹ thuật và lao động giản đơn.
Những năm gần đây, tỷ lệ lao động xuất khẩu nữ đi xuất khẩu là tăng
khá nhanh, nếu ở những năm 2003 tỷ lệ lao động nữ là 32,2% thì đến năm
2009 tỷ lệ này là 48,78% [8]. Điều này khiến không ít người đặt ra câu hỏi tại
sao càng ngày lao động nữ lại xuất khẩu nhiều như vậy trong khi mọi điều
kiện xuất khẩu lao động lại hạn chế hơn lao động nam về thị trường xuất
khẩu cũng như về công việc.
Xã Thiên Lộc, xuất phát từ một làng nông nghiệp truyền thống, người
dân chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nhưng từ hơn 10 năm nay số người đi
xuất khẩu lao động đã không ngừng tăng lên và đến nay đã trở thành làng

1



“xuất ngoại”. Từ năm 1999 đến nay xã đã có hơn 628 người đi xuất khẩu lao
động trong đó lao động nữ chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Khoản tiền mà mỗi
ngưòi mang về mỗi năm trung bình từ 80 đến 120 triệu đồng. Đây là một
khoản thu nhập không nhỏ chút nào đối với lao động nông thôn.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực mà xuất khẩu lao động mang
lại thì cũng có không ít những vấn đề bất cập nảy sinh không chỉ đối với bản
thân người lao động mà còn đối với gia đình và cộng đồng có người đi xuất
khẩu lao động với vùng nông nghiệp truyền thống như xã Thiên Lộc. Đặc biệt
khi lao động xuất khẩu là nữ thì những tác động đó sẽ như thế nào? Họ phải
đánh đổi những gì? Nguyên nhân nào khiến họ quyết định đi xuất khẩu lao
động?
Xuất phát từ những vấn đề thực tế đó tôi thực tế đó, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu tác động của xuất khẩu lao động nữ
đến gia đình và cộng đồng ở xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh”.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích thực trạng và những tác động của xuất khẩu lao
động nữ đến gia đình và cộng đồng tại địa phương thời gian qua đề xuất các
giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực do
xuất khẩu lao động nữ mang lại đối với người dân địa phương.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
1) Phân tích thực trạng xuất khẩu lao động ở xã Thiên Lộc thời gian
qua;
2) Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định đi xuất khẩu
của lao động nữ ở địa phương;
3) Phân tích những tác động của xuất khẩu lao động nữ đối với gia đình
và cộng đồng;


2


4) Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những
tác động tiêu cực do xuất khẩu lao động nữ mang lại đối với gia đình và cộng
đồng ở xã Thiên Lộc.
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này nhằm trả lời các câu hỏi sau đây:
1) Thực trạng xuất khẩu lao động của xã trong những năm gần đây như
thế nào?
2) Những yếu tố nào ảnh hưởng đến quyết định đi xuất khẩu lao động
của lao động nữ?
3) Những tác động của xuất khẩu lao động nữ đối với gia đình và xã
hội ở xã Thiên Lộc như thế nào?
4) Những giải pháp nào nhằm điều chỉnh và đẩy mạnh xuất khẩu lao
động ở xã?
1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề KT-XH gắn liền với hiện tượng đi xuất khẩu lao
động ở địa phương.
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp là các hộ gia đình có lao động tham gia
xuất khẩu lao động.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Những tác động của xuất khẩu lao động nữ đến
gia đình và địa phương trên phương diện kinh tế và xã hội.
- Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu tình hình thay đổi của các
nhóm hộ có lao động tham gia XKLĐ từ năm 2005 đến năm 2009.
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu các hộ có lao động tham gia
XKLĐ tại xã Thiên Lộc - huyện Can Lộc - tỉnh Hà Tĩnh.


3


PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm cơ bản về lao động- sức lao động
 Lao động:
Lao động là hoạt động có bản chất nhất và là phẩm chất đặc biệt của
con người, nó khác với hoạt động theo bản năng của con vật.
Theo từ điển Tiếng Việt, lao động là hoạt động có mục đích của con
người, nhằm tạo ra những của cải vật chất, tinh thần cho xã hội [22]
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin đã viết: lao động không chỉ
tạo ra của cải vật chất để nuôi sống con người mà còn cải tạo bản thân con
người, phát triển con người cả về mặt thể lẫn trí lực. “Trong khi tác động vào
tự nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó và làm thay đổi tự nhiên, con
người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của chính nó” [9]
Như vậy, lao động là hoạt động có chủ đích, có ý thức của con người
nhằm thay đổi những những vật thể tự nhiên phù hợp với lợi ích của mình.
Lao động còn là sự vận động của sức lao động trong quá trình tạo ra của cải,
vật chất và tinh thần, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản
xuất.
 Sức lao động.
Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá
trình lao động tạo ra của cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con
người, là điều kiện đầu tiên, cần thiết trong quá trình lao động xã hội.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường sức lao động cũng là một
loại hàng hóa và được trao đổi trên thị trường ngoài nước. Đó là một loại
hàng hóa đặc biệt không chỉ vì sự khác biệt với hàng hóa thông thường là khi
sử dụng sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn bản thân nó, mà còn thể hiện ở chất


4


lượng hàng hóa này. Chất lượng của hàng hóa sức lao động ở đây được phản
ánh ở khả năng dẻo dai, bền bỉ trong lao động của người lao động, khả năng
thành thạo và sáng tạo trong công việc và khối lượng của công việc hoặc sản
phẩm được hoàn thành bởi Người lao động trong một đơn vị thời gian.
 Khái niệm việc làm:
Theo Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ban hành năm 2006, việc làm là: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập,
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [11]. Khái niệm trên
mang tính khái quát cao, có thể xem xét khái niệm này trên hai khía cạnh cơ
bản:
Thứ nhất: việc làm phải tạo ra thu nhập. Nếu một công việc không tạo ra
thu nhập thì không được gọi là việc làm. Thu nhập ở đây có thể không phải
của người trực tiếp làm công việc đó.
Thứ hai: Đó là công việc không bị pháp luật cấm. Như vậy, các công việc
như mua bán hàng hóa cấm, thực hiện giao dịch trái pháp luật không được coi
là thu nhập.
2.1.1.2 Khái niệm về xuất khẩu lao động
Là một hiện tượng kinh tế - xã hội, chính thức xuất hiện từ cuối thế kỷ
19, trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Xuất khẩu lao động
(XKLĐ) ngày càng trở nên phổ biến và trở thành xu hướng chung của thế
giới.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về định nghĩa XKLĐ. Nếu như trước
đây với thuật ngữ “hợp tác quốc tế lao động”, XKLĐ được hiểu là sự trao đổi
lao động giữa các quốc gia thông qua các hiệp định được thỏa thuận và ký kết
giữa các quốc gia đó hay là hay là sự di chuyển lao động có thời hạn giữa các
quốc gia một cách hợp pháp và có tổ chức. Trong hành vi trao đổi này, nước

đưa lao động đi được coi là nước XKLĐ, còn nước tiếp nhận sử dụng lao
động thì được coi là nước nhập khẩu lao động.

5


Ngoài ra XKLĐ còn được hiểu là một bộ phận của hoạt động kinh tế
đối ngoại, là hoạt động xuất khẩu hàng hóa vô hình, đó là sức lao động ra
nước ngoài để tăng thu nhập.
Trong chỉ thị số 41- CT/TƯ ngày 29/09/1998 của Bộ Chính trị cũng
khẳng định: “XKLĐ và chuyên gia là một hoạt động KT-XH góp phần phát
triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ
tay nghề cho người lao động, tăng thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường
quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước”.
Như vậy XKLĐ là một hoạt động xuất khẩu đặc biệt trong đó hàng hóa
được là sức lao động của con người – hàng hóa vô hình, do vậy Nhà nước,
doanh nghiệp XKLĐ cũng như chính bản thân người lao động cần phải hết
sức chú ý đến hoạt động này, nó không chỉ mang lại thu nhập cao cho người
lao động mà còn đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia.
 Khái niệm về thị trường lao động: Thị trường lao động là một lĩnh vực
của nền kinh tế, nó bao gồm toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong
lĩnh vực mua bán, trao đổi và thuê mướn sức lao động. Trên thị trường lao
động, mối quan hệ được thiết lập giữa một bên là người lao động và một bên
là người sử dụng lao động.
 Thị trường lao động trong nước: Là một loại thị trường lao động, trong
đó mọi lao động đều có thể di chuyển tự do từ nơi bày đến nơi khác nhưng
trong phạm vi biên giới của một quốc gia.
 Thị trường lao động quốc tế: Là một bộ phận cấu thành của hệ thống
thị trường lao động thế giới, trong đó người lao động có thể di chuyển từ quốc

gia này đến quốc gia khác.
2.1.1.3 Các hình thức xuất khẩu lao động
 Hình thức xuất khẩu lao động: Là cách thức thực hiện việc đưa người
lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài do nhà nước quy định.

6


Hình thức XKLĐ lao động có thể được phân loại như sau:
 Phân loại theo cách thức tổ chức đưa lao động ra nước ngoài :
- Xuất nhập khẩu lao động theo các Hiệp định giữa Chính phủ với
Chính phủ.
- Các doanh nghiệp nhận thầu các công trình ở nước ngoài, họ đưa
chuyên gia, lao động ra nước ngoài làm việc ở các dự án mà họ trúng thầu.
- Các công ty gửi lao động, chuyên gia ra nước ngoài làm việc ở công
ty mẹ và công ty con, hoặc các công ty khác trong cùng một tập đoàn đóng ở
các nước khác nhau, hoặc đến làm việc tại các văn phòng đại diện, chi nhánh
công ty đặt ở các nước khác.
- Các chuyên gia, người lao động được các công ty cung ứng dịch vụ
lao động gửi ra nước ngoài lao động có thời hạn theo hợp đồng cung ứng lao
động.
- Lao động tự do: Tự tìm việc làm ở nước ngoài, sau một thời gian sẽ
trở về đất nước.
 Phân loại theo trình độ của người lao động:
- Xuất khẩu chuyên gia cao cấp.
- Xuất khẩu lao động có trình độ cung cấp.
- Xuất khẩu lao động phổ thông.
 Phân loại theo địa điểm xuất khẩu lao động :
- Xuất khẩu lao động ra nước ngoài làm việc.
- Xuất khẩu tại chỗ lao động: Người lao động làm việc trong các cơ quan,

tổ chức quốc tế, các chi nhánh, công ty nước ngoài, làm việc ở các đại sứ
quán.
Ở Việt Nam cho đến nay đã tồn tại các hình thức XKLĐ sau:
 Đưa lao động đi bồi dưỡng, học nghề, nâng cao trình độ và làm việc có
thời gian ở nước ngoài. Đây là hình thức được chúng ta thực hiện chủ yếu
trong giai đoạn 1980 - 1990. Thông qua việc ký hiệp định hợp tác, sử dụng
lao động với các nước: Liên xô (cũ), CHDC Đức, Tiệp Khắc trước đây, lao
động của nước ta ở tại các nước này được sống, sinh hoạt theo đoàn, đội, có
sự quản lý thống nhất từ trên xuống dưới và làm việc xen ghép với lao động
của các nước. Đây là hình thức được áp dụng cho cả hai đối tượng là lao động
có nghề và lao động không có nghề.

7


 Hợp tác lao động và chuyên gia: Đây là hình thức được áp dụng đối với
các nước Trung Đông và châu Phi trong việc cung ứng lao động và chuyên
gia sang làm việc tại một số nước. Số lao động này có thể đi theo các đoàn,
đội hay các nhóm, cá nhân…
 Đưa lao động đi làm tại các công trình doanh nghiệp Việt Nam nhân
thầu khoán xây dựng, liên doanh hay liên kết tạo ra sản phẩm ở nước ngoài
hay đầu tư ra nước ngoài. Hình thức này được áp dụng chủ yếu trong lĩnh vực
xây dựng. Đây là hình thức người lao động thuộc quyền quản lý của các
doanh nghiệp Việt Nam được đi nước ngoài làm việc đồng bộ tại các công
trình cho doanh nghiệp Việt Nam. Cung ứng lao động trực tiếp theo các yêu
cầu của công ty nước ngoài thông qua các hợp đồng lao động được ký kết bởi
các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung ứng lao động. Được hình thành
từ sau khi có nghị định 370/HĐBT ngày 9/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ) hình thức này đã trở nên phổ biến nhất hiện nay. Việc
cung ứng lao động cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài chủ yếu được giao

cho các tổ chức kinh tế có chức năng đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài. Đây là các doanh nghiệp chuyên doanh về XKLĐ, được Nhà
nước cấp giấy phép hành nghề, thực hiện việc ký kết, đưa lao động đi nước
ngoài làm việc và quản lý số lao động đó theo quy định của Nhà nước. Hình
thức này đòi hỏi đối tượng lao động tương đối đa dạng, tuỳ theo yêu cầu và
mức độ phức tạp của công việc mà bên nước ngoài yêu cầu lao động giản đơn
hay lao động có tay nghề cao. Người lao động trực tiếp ký với cá nhân, tổ
chức nước ngoài nhưng khi làm thủ tục phải thông qua một doanh nghiệp
chuyên doanh về XKLĐ để thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm với Nhà
nước, với tổ chức kinh tế đưa đi và cũng là để đảm bảo quyền lợi cho người
lao động trong quá trình làm việc ở nước ngoài. Hình thức này hiện nay ở
nước ta chưa phổ biến lắm. Do người lao động vẫn chưa có nhiều cơ hội để
tiếp xúc và tìm hiểu về các công ty nước ngoài đang cần thuê lao động một
cách trực tiếp và phổ biến.

8


 XKLĐ tại chỗ là hình thức các tổ chức kinh tế của ta cung ứng lao
động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài ở Việt Nam, bao gồm: Các xí nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài; các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công
nghiệp cao; các tổ chức, cơ quan ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam.
2.1.2 Vai trò của xuất khẩu lao động
Đối với nhiều quốc gia thì xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế
quan trọng. Điều này đã được chứng minh trong nhiều thập kỷ vừa qua. Đặc
biệt đối với các nước có nền kinh tế chậm và đang phát triển như Việt Nam
thì XKLĐ mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
`Về cơ bản XKLĐ có những vai trò sau:
 Giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho người lao động
Nguồn lao động là tiềm năng sống, tiềm năng này không được khai

thác sử dụng triệt để hợp lý sẽ là sự lãng phí rất lớn cho nguồn lực xã hội. Vì
vậy giải quyết việc làm, tạo thu nhập là vấn đề hàng đầu của mỗi quốc gia,
trong đó xuất khẩu lao động được coi là một trong những giải pháp cần được
khai thác. Với những lợi ích thu được từ xuất khẩu lao động đã mang lại
nhiều lợi ích đáng kể vừa giải quyết việc làm cho bản thân người lao động,
tăng thu nhập đồng thời là cái van an toàn đối với sức ép việc làm trong nước
mà còn góp phần quan trọng đối với cán cân thanh toán quốc gia.
 Nâng cao tay nghề và trình độ kỹ thuật chuyên môn
Dù là lao động phổ thông, lao động tay nghề hay chuyên gia khi đi xuất
khẩu lao động điều đầu tiên mà họ học hỏi được ở nước ngoài là cung cách
làm việc, kinh nghiệm thực tế, trình độ nhận thức cũng được nâng cao. Khi về
nước, điều này trở thành lợi thế cho cá nhân họ. Người lao động được làm
việc ở các nước có nền công nghiệp phát triển sẽ có điều kiện tiếp xúc với kỹ
thuật hiện đại và tiên tiến. Đây là cơ hội đào tạo tại chỗ về tay nghề và trình
độ chuyên môn.
 Mở rộng quan hệ hợp tác
Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu lao động là vô cùng quan
trọng, từ đó quan hệ giữa nước cung ứng lao động và nước tiếp nhận lao động
trở nên gắn bó hơn, hiểu nhau hơn tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.

9


Cung cấp cho nhau những thông tin quan trọng về vấn đề hai nước cùng quan
tâm và thống nhất quan điểm hai bên cùng có lợi. Sự đa dạng hóa các quan hệ
hợp tác quốc tế được mở rộng thông qua hợp tác quốc tế về lao động sẽ tạo
điều kiện mở rộng hơn nữa các quan hệ hợp tác khác.
 Tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Lợi ích từ việc xuất khẩu lao động là thu ngoại tệ. Lương của người lao
động có thể được quy ra đồng tiền quốc tế. Ví dụ như đồng đô la Mỹ để

chuyển về nước, điều này rất quan trọng vì nó tích luỹ ngoại tệ cho đất nước
góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đồng thời giải quyết việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống cho người lao động do vậy góp
phần rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa nước phát triển và nước đang
phát triển.
Tóm lại, xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần
phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao
trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước
và tăng trưởng quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta và các nước. Cùng với
các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động là
một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho
công cuộc xây dựng đất nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa…
2.1.3 Nguyên nhân của việc xuất khẩu lao động
Việc di chuyển quốc tế sức lao động có thể vì nhiều nguyên nhân khác
nhau cụ thể như sau:
 Tài nguyên, đất đai, dân cư không phân bổ đồng đều giữa các nước.
Nhiều nước tài nguyên nhiều như các nước dầu mỏ ở Trung Cận Đông, nhu
cầu xây dựng lớn nhưng dân cư ít dẫn tới nhu cầu phải nhập khẩu lao động;
trong khi đó, có nhiều nước đông dân như: Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines,
Việt Nam,… đất đai canh tác tính trên đầu người thấp, kinh tế phát triển chưa
cao dẫn tới thừa tương đối lao động, có nhu cầu cần xuất khẩu lao động.
 Trình độ khoa học kĩ thuật của các nước không đồng đều nhau. Ở các
nước phát triển và đang phát triển, lực lượng lao động đang được tri thức hoá
mạnh, lực lượng lao động chân tay giản đơn thiếu hụt, nên những nước đó có

10


nhiều kinh nghiệm xuất khẩu chuyên gia (lao động cao cấp, có kỹ năng) và
nhập khẩu lao động chân tay. Trong khi đó, ở các quốc gia kém phát triển lại

có hiện tượng dư thừa lao động tay nghề thấp. Do đó, dòng người lao động có
tay nghề thấp chuyển dịch sang các nước phát triển hơn để tìm cơ hội việc
làm ngày càng tăng lên, nên họ sẽ nhập khẩu chuyên gia, nhà quản lý cao cấp
và xuất khẩu lao động chân tay.
 Mức thu nhập tiền lương của các nước khác nhau dẫn đến có nhu cầu
dịch chuyển lao động từ nước có thu nhập thấp đến các nước có mức sống và
thu nhập cao, có điều kiện làm việc tốt hơn. Đó chính là do yếu tố kinh tế. Đa
số những người xuất khẩu lao động đều với mục đích là để có được một thu
nhập cao hơn so với khi họ làm việc ở trên đất nước mình.
 Bên cạnh đó, sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường và xu thế
hội nhập toàn cầu như việc ra đời các liên kết kinh tế quốc tế cao cấp như EU,
như cộng đồng kinh tế ở các nước châu lục đã phần nào tạo điều kiện cho sự
dịch chuyển quốc tế sức lao động diễn ra phổ biến và dễ dàng hơn.
 Mục đích thăng tiến trong học tập hay công việc. Ở những nước có nền
kinh tế phát triển, nền giáo dục và thực tiễn xã hội tạo nhiều điều kiện thuận
lợi cho việc học tập và có được công việc tốt hơn, đúng với khả năng của
mình hơn so với ở trong các nước kém phát triển. Đó là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng “chảy máu chất xám” đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới.
 Tại các nước có nền kinh tế kém phát triển, dân số tăng nhanh làm cho
tình trạng thiếu việc làm gia tăng. Thất nghiệp khiến việc xuất khẩu lao động
sang các nước khác, đặc biệt là các nước phát triển hơn trở nên phổ biến. Đây
cũng là một trong những biện pháp khắc phục tình trạng thất nghiệp trong
nước của chính phủ nhiều nước trên thế giới. Xuất khẩu lao động đồng thời
cũng sẽ góp phần đưa về nguồn ngoại tệ không nhỏ cho các nước này.
Tóm lại, nguyên nhân của XKLĐ là do tài nguyên, đất đai, dân cư
không phân bổ đồng đều giữa các nước, trình độ khoa học kĩ thuật của các
nước không đồng đều nhau, mức thu nhập tiền lương của các nước khác. Bên
cạnh đó, sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập

11



toàn. Mục đích thăng tiến trong học tập hay công việc cũng là một trong
những nguyên nhân và cuối cùng tại các nước có nền kinh tế kém phát triển,
dân số tăng nhanh làm cho tình trạng thiếu việc làm gia tăng.
2.1.4 Đặc điểm của xuất khẩu lao động
 XKLĐ mang tính tất yếu khách quan
Xuất khẩu lao động diễn ra chủ yếu là do các nước trên thế giới có sự
chênh lệch về kinh tế - xã hội. Những nước giàu có nền kinh tế phát triển
mạnh thường có nhiều lao động có tay nghề cao hơn, nhiều chuyên gia giỏi có
trình độ cao mà lại thiếu những lao động phổ thông, lao động cho những công
việc vất vả, nặng nhọc, độc hại hoặc những công việc có thu nhập tương đối
thấp so với thu nhập chung của xã hội. Điều ngược lại lại diễn ra tại những
quốc gia nghèo đang phát triển, nơi mà dân số đông nên rất dồi dào về lao
động song do nền kinh tế chậm phát triển nên trình độ lao động còn thấp chủ
yếu là lao động giản đơn thủ công là chính cộng thêm với mức thu nhập thấp,
thiếu việc làm, thiếu hụt những chuyên gia giỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao. Vậy điều đương nhiên sẽ xẩy ra là lao động từ chỗ dư thừa sẽ chảy về
chỗ thiếu hụt. Đó cũng chính là nguyên lý chính của quy luật cung – cầu trong
nền kinh tế thị trường
 XKLĐ là một hoạt động kinh tế
Ở nhiều nước trên thế giới, XKLĐ là một trong những giải pháp quan
trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng lên của nước họ và thu ngoại tệ
bằng hình thức chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích khác.
Những lợi ích này đã buộc các nước xuất khẩu phải chiếm lĩnh ở mức cao
nhất thị trường lao động ở nước ngoài, mà việc chiếm lĩnh được hay không lại
dựa trên quan hệ cung cầu sức lao động - nó chịu sự điều tiết, sự tác động của
các quy luật của kinh tế thị trường. Bên cung phải tính toán mọi hoạt động
của mình làm sao để bù đắp được chi phí và có phần lãi vì vậy cần phải có cơ


12


chế thích hợp để tăng khả năng tối đa về cung lao động. Bên cầu cũng phải
tính toán kỹ lưỡng hiệu quả của việc nhập khẩu lao động.
Như vậy, việc quản lý Nhà nước, sự điều chỉnh pháp luật luôn luôn
bám sát đặc điểm này của hoạt động XKLĐ: Làm sao để mục tiêu kinh tế
phải là mục số một của mọi chính sách pháp luật về XKLĐ.
 XKLĐ là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội
Thực chất, XKLĐ không tách rời khỏi người lao động. Do vậy, mọi
chính sách pháp luật trong lĩnh vực XKLĐ phải kết hợp với các chính sách xã
hội: Phải đảm bảo làm sao để người lao động ở nước ngoài được lao động
như cam kết trong hợp đồng lao động, cũng như đảm bảo các hoạt động công
đoàn… hơn nữa, người lao động xuất khẩu dẫu sao cũng chỉ có thời hạn, do
vậy, cần phải có những chế độ tiếp nhận và sử dụng người lao động sau khi
họ hoàn thành hợp đồng lao động ở nước ngoài và trở về nước.
 XKLĐ diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt
Tính gay gắt trong cạnh tranh của XKLĐ bắt nguồn từ hai nguyên nhân
chủ yếu. Một là, xuất khẩu lao động mang lại lợi ích kinh tế khá lớn cho các
nước đang có khó khăn về giải quyết việc làm. Do vậy, đã buộc các nước xuất
khẩu lao động phải cố gắng tối đa để chiếm lĩnh thị trường ngoài nước. Nghĩa
là, họ phải đầu tư nhiều cho chương trình marketing, cho chương trình đào
tạo, tập huấn nhằm tăng giá trị sử dụng của sức lao động. Hai là, XKLĐ đang
diễn ra trong môi trường suy giảm kinh tế trong khu vực. Nhiều nước trước
đây thu nhận nhiều lao động nước ngoài như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan
và một số thị trường các nước Châu Phi…cũng đang phải đối đầu với tỷ lệ
thất nghiệp ngày càng gia tăng. Mặt khác các thị trường trọng điểm nhập
nhiều lao động đã bị các nước khác chiếm lĩnh từ nhiều năm trước. Điều này
hạn chế rất lớn đến việc tiếp nhận lao động nước ngoài trong thời gian từ 5 10 năm đầu của thế kỷ 21.


13


Như vậy, các chính sách và pháp luật của Nhà nước cần phải lường
trước được tính chất gay gắt trong cạnh tranh xuất khẩu lao động để có
chương trình dài hạn cho marketing, đào tạo nguồn lao động chất lượng cao
để xuất khẩu.
 Xuất khẩu lao động là hoạt động đầy biến đổi
Hoạt động xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào nước có nhu cầu nhập
khẩu lao động do vậy cần phải có sự phân tích toàn diện các dự án ở nước
ngoài đang và sẽ được thực hiện để xây dựng chính sách và chương trình đào
tạo giáo dục, định hướng phù hợp và linh hoạt. Chỉ có những nước nào chuẩn
bị được đội ngũ công nhân với tay nghề thích hợp mới có điều kiện thuận lợi
hơn trong việc chiếm lĩnh thị phần lao động ở ngoài nước. Và cũng chỉ có
nước nào nhìn xa, trông rộng, phân tích đánh giá và dự đoán đúng tình hình
mới không bị động trước sự biến đổi của tình hình từ đó đưa ra được chính
sách đón đầu trong hoạt động xuất khẩu lao động.
 XKLĐ phụ thuộc nhiều vào chính sách quốc gia
Xuất khẩu lao động là một trong những hoạt động có liên quan đến mối
quan hệ hợp tác giữa các quốc gia với nhau bởi thế chính sách mỗi quốc gia
có liên quan mật thiết đến hoạt động xuất khẩu lao động. Chính sách, pháp
luật của quốc gia đưa lao động đi xuất khẩu có ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu lao động của nước đó là điều đương nhiên vì nó quyết định đến sự
khuyến khích hay hạn chế của hoạt động xuất khẩu lao động. Nhưng chính
sách, pháp luật của quốc gia tiếp nhận lao động cũng có ảnh hưởng rất lớn
đến đến hoạt động xuất khẩu lao động, ví dụ một quốc gia đưa ra chính sách
hạn chế lượng người nước ngoài nhập cư thì ngay lập tức sẽ hạn chế đến hoạt
động xuất khẩu của những quốc gia có lao động đi làm việc tại nước đó và
ngược lại.
2.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN

2.2.1 Kinh nghiệm xuất khẩu lao động ở các nước

14


2.2.2.1 Inđônêxia
Indonesia là một nước xuất khẩu lao động lâu năm, ngay từ những năm
1930 đến những năm 1950 đã có hơn 200.000 người Indonesia di cư lao động
sang các đảo của Malaysia. Theo số liệu của Bộ nhân lực Indonesia thì số
lượng lao động Indonesia ra nước ngoài làm việc trong giai đoạn 1969 đến
1993 là 877.400 (số lượng tăng lên rất nhanh từ 7.400 người trong những năm
1970 lên đến hơn 405.000 người những năm 1989-1993 là hơn 465.000
người). Vào những năm 1994 - 1998 số lượng người lao động Indonesia làm
việc ở nước ngoài đã gia tăng rõ rệt từ 2,1 triệu người lên 3,2 triệu người. Vào
năm 1999 số lượng lao động muốn tìm kiếm việc làm ở nước ngoài gia tăng
đáng kể. Bộ Nhân lực đã thống kê trong năm 1999 có khoảng 2,3 triệu người
đăng ký muốn làm việc ở nước ngoài. Nguồn thu nhập ngoại tệ chuyển về
nước từ năm 1996 đến năm 1999 vào khoảng 2,72 tỷ USD, trong đó lớn nhất
là từ khu vực Châu Á Thái Bình Dương, tiếp sau đó là khu vực Trung Đông
[17]
Cơ cấu thị trường lao động, thị trường lao động của Indonesia ở nước
ngoài tập trung vào các nước và khu vực như Đông Nam Á (Malaysia,
Singapore,Brunei), Đông Bắc Á (Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản), Trung
Đông, Bắc Mỹ, Úc và Tây Âu. Trong đó tập trung nhiều nhất là A Rập Saudi,
Malaysia. Singapo, Đài Loan, Hà Lan, Mỹ.
Về chính sách, để đẩy mạnh xuất khẩu lao động, Indonesia xây dựng
chính sách về hệ thống tuyển mộ và đào tạo lao động, chính sách đưa lao
động ra nước ngoài làm việc và chính sách quan hệ hợp tác lao động với nước
ngoài. Chính phủ Indonesia can thiệp vào hoạt động xuất khẩu lao động thông
qua quản lý và chỉ đạo chương trình việc làm ngoài nước. Năm 1994 Chính

phủ đã ban hành nghị định số PER - 02/MEN 1994, trong đó quy định các thủ
tục và hệ thống tuyển mộ lao động; các điều kiện và yêu cầu của tổ chức
tuyển mộ; quy trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, trình tự giải quyết

15


tranh chấp và các vấn đề pháp lý. Quy định này đảm bảo cho người lao động
không bị lạm dụng bóc lột và đảm bảo được tiền lương phù hợp cho họ, an
toàn về công việc của họ ở nước ngoài cho đến khi họ về nước.
2.2.2.2 Thái Lan
Thái Lan cũng là một nước xuất khẩu lao động từ lâu, từ những năm
1970, khi ở Trung Đông "bùng nổ" xây dựng công trình khai thác dầu lửa. Số
lượng lao động Thái Lan đi làm việc ở nước ngoài tăng dần lên qua các năm
293 người năm 1973, 3.870 người năm 1977 lên 21.500 người 1980, gần
110.000 năm 1982, đặc biệt trong những năm cuối 1990 trung bình hàng năm
Thái Lan đưa được khoảng 200.000 lao động ra nước ngoài làm việc, trong
đó hơn 50% là đến Đài Loan. Lượng tiền chuyển về nước của người lao động
qua hệ thống ngân hàng Thái Lan cũng tăng dần lên từ 52 tỷ Bath (đồng tiền
Thái Lan) năm 1997 lên gần 60 tỷ Bath/năm (tương đương với 1,5 tỷ
USD/năm) trong năm 1998 và 1999.
Về cơ cấu lao động xuất khẩu, phần lớn lao động Thái Lan ra nước
ngoài làm việc chủ yếu là lao động không nghề có trình độ tiểu học làm các
công việc có tay nghề thấp, chiếm khoảng 50% số lượng lao động xuất khẩu.
Người đi lao động xuất khẩu chủ yếu từ vùng nông thôn, nhiều nhất từ khu
vực Đông Bắc Thái Lan nơi cuộc sống còn nhiều khó khăn. Trong những năm
cuối 1990 Thái Lan đưa hơn 10.000 lao động/năm đi làm nông nghiệp ở
Israen và hơn 100.000 lao động/năm sang làm việc ở Đài Loan trong các lĩnh
vực nghề may, lắp ráp điện tử, giúp việc gia đình và xây dựng.
Về chính sách, Thái Lan thực hiện chính sách tự do hoá XKLĐ. Thời

kỳ đầu hoạt động XKLĐ do cá nhân người lao động và các đại lý tuyển lao
động tư nhân thực hiện. Nhiều lao động Thái Lan đi làm việc ở nước ngoài
bằng visa du lịch sau đó ở lại và làm việc bất hợp pháp. Tuy nhiên, sau đó để
bảo vệ quyền lợi cho người lao động ở nước ngoài, Chính phủ thành lập Văn
phòng Quản lý việc làm ngoài nước thuộc Tổng cục Lao động Bộ Nội vụ.

16


×