Tải bản đầy đủ (.pdf) (205 trang)

Tiểu luận hoàn thiện tổ chức kiểm soát nhằm tăng cường chất lượng thông tin kế toán tài chính các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.85 MB, 205 trang )

CHƯƠNG 1- GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1. Lý do chọn Đề tài
Trong nền kinh tế hiện đại, với sự phát triển của thị trường vốn, các công ty
niêm yết (CTNY) và thơng tin tài chính của các CTNY được cơng khai theo luật
định trên thị trường chứng khốn (TTCK) là khơng thể thiếu. Trên TTCK, ảnh
hưởng của CTNY không chỉ tác động đơn lẻ tới bản thân cơng ty mà cịn ảnh hưởng
tới các nhà đầu tư trong nền kinh tế quốc dân. Vấn đề bảo vệ cổ đông, các nhà đầu
tư được xét đến trên nhiều bình diện nền kinh tế quốc dân. Với tác động dây
chuyền, sự đổ vỡ của một CTNY có thể sẽ dẫn đến sự thất bại của TTCK và từ đó
ảnh hưởng xấu nền kinh tế. Tại Việt Nam, sự đổ vỡ của “bong bóng” thị trường bất
động sản trong thời gian qua đã ảnh hưởng tới TTCK Việt Nam nói riêng và tồn bộ
nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Trong những năm qua, TTCK Việt Nam đã trở nên quen thuộc với các nhà
đầu tư trong nước vì nó được coi là một trong những phương thức đầu tư hợp lý.
Giá cả chứng khoán tăng cao rồi giảm xuống nhanh chóng trong những năm qua
làm niềm tin của các nhà đầu tư vào giá trị của các cơng ty giảm nhanh chóng vì giá
trị một loại cổ phiếu giảm sút phản ánh giá trị thực của CTNY tương ứng. Nhà đầu
tư quan tâm đến chất lượng thơng tin tài chính, đặc biệt là thơng tin kế tốn tài
chính (KTTC) được trình bày trong báo cáo tài chính (BCTC) của CTNY vì đây là
nguồn thơng tin quan trọng để họ đánh giá tình hình tài chính của cơng ty để từ đó
đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
Với vai trò quan trọng trong nền kinh tế, những biến động của thông tin
KTTC cũng như sự tăng – giảm giá cổ phiếu của các CTNY như một “phong vũ
biểu” thể hiện rõ nét sự thịnh vượng hay suy thoái của nền kinh tế. Các nhà đầu tư,
chính phủ hay bất kỳ người quan tâm nào khi tiến hành đầu tư vào CTNY đều xem
xét tới những thơng tin về chiến lược kinh doanh, về tình hình tài chính của các
cơng ty đó. Những thơng tin KTTC của các CTNY được các cơng ty kiểm tốn, soát
xét và đưa ra ý kiến về sự trung thực, hợp lý. Bên cạnh đó, những thơng tin này cịn
được các sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) và các ủy ban chứng khoán nhà nước
(UBCKNN) kiểm tra, giám sát. Do đó, khi đầu tư vào CTNY những nhà đầu tư cảm


1


thấy độ an tồn cao hơn những cơng ty chưa niêm yết nhưng mức độ tin cậy của
thông tin vẫn đang có những điểm hồi nghi.
Theo Agrawal (2005), Brown.J. (2010), làn sóng của các vụ bê bối kế tốn
xuất hiện gần đây trong cộng đồng tài chính quốc tế đã đặt ra những vấn đề về chất
lượng BCTC [44,58]. Một số cơng ty có vị thế đã có những gian lận nghiêm trọng
về kế toán như Enron, WorldCom, Marconi, Parmalat,v.v… làm giảm niềm tin các
nhà đầu tư đối với BCTC của CTNY. Theo Karamanou.I. (2005), Beekes.W.
(2006), Brown.L. (2006), Firth.M. (2007), Petra.S. (2007), việc cơng bố thơng tin
tài chính và số liệu kế tốn khơng trung thực đã đặt ra sự cần thiết tăng cường chất
lượng thông tin KTTC và kiểm sốt thơng tin bằng cách thiết lập cấu trúc quản trị
công ty [54,59,74,92,104]. Tại Việt Nam, khủng hoảng xảy ra ở Công ty cổ phần
Bông Bạch Tuyết (năm 2008) và Tập đồn Vinashin (năm 2010) là những ví dụ
điển hình của sự yếu kém trong quản trị công ty và công bố thông tin KTTC của
công ty.
Hệ lụy từ việc gian lận trong công bố thông tin ảnh hưởng đến các nhà đầu tư
nói riêng và nền kinh tế quốc gia nói chung dẫn đến yêu cầu cấp thiết của kiểm sốt
chất lượng thơng tin KTTC của các CTNY. Kiểm sốt được xét trên các bình diện
khác nhau nhằm đảm bảo sự kiểm sốt tồn diện, bao gồm chủ thể lập và trình bày
thơng tin KTTC (các CTNY) - kiểm sốt nội bộ (KSNB) và kiểm sốt bên ngồi –
kiểm sốt của nền kinh tế. Kiểm sốt bên ngồi gồm kiểm soát của nhà nước
(KSNN), kiểm soát của kiểm toán độc lập, kiểm soát của hiệp hội đầu tư và kiểm
sốt của cơng chúng. Trong đó, sự nắm bắt và điều tiết của chính phủ - KSNN có
ảnh hưởng lớn đến chất lượng thông tin KTTC các công bố của CTNY.
Do đó, cách thức tổ chức kiểm sốt chất lượng thông tin KTTC của các
CTNY trên TTCK Việt Nam phải được tiến hành đồng bộ, đảm bảo sự kết nối hợp
lý và lấy tổ chức KSNB là cơ sở cho việc nâng cao chất lượng thông tin KTTC của
các CTNY. KSNB là công cụ hiệu quả giảm tỷ lệ sai phạm từ phía những người

cung cấp, những người chịu trách nhiệm về nghĩa vụ giải trình để đảm bảo minh
bạch, trung thực về những thơng tin đó. Cách thức tổ chức KSNB CTNY là một yêu
cầu giúp tăng cường các hoạt động của TTCK trong môi trường kinh doanh đầy
biến động hiện nay, giúp các bên liên quan nhận được thông tin phù hợp và tin cậy
2


dựa trên những BCTC minh bạch. Tổ chức KSNB gắn liền với những yêu cầu trong
quản trị công ty, một yêu cầu thiết yếu của các CTNY trên TTCK Việt Nam nói
riêng và TTCK quốc tế nói chung.
KSNN về thơng tin KTTC là yêu cầu của bất kỳ quốc gia nào. KSNN tạo
hành lang pháp lý, qua những quy định của nhà nước, thiết lập các bộ phận chức
năng với vấn đề kiểm sốt và cơng bố thơng tin. Những quy định của nhà nước tạo
dựng sự tin tưởng cho các nhà đầu tư và là những chỉ dẫn tầm vĩ mơ cho các doanh
nghiệp.
Như vậy, thực tế địi hỏi tăng cường chất lượng thông tin KTTC của các
CTNY trên TTCK thông qua tổ chức KSNB trong các CTNY và kiểm sốt từ phía
nhà nước là tất yếu, cần được nghiên cứu và có những giải pháp phù hợp.
Theo tìm hiểu của Tác giả, các nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập nhiều
về tính minh bạch thơng tin tài chính của CTNY trên TTCK, hay mối liên hệ giữa
quản trị công ty với chất lượng thông tin KTTC, hay một khía cạnh tác động của
KSNN tới chất lượng thơng tin KTTC. Tuy nhiên những nghiên cứu trên chưa đề
cập đến sự tác động toàn diện của tổ chức kiểm sốt tới chất lượng thơng tin KTTC.
Do đó, đề tài “Hồn thiện tổ chức kiểm sốt nhằm tăng cường chất lượng thông tin
KTTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam” là mang tính cấp thiết. Đây cũng là cơ
sở cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức kiểm sốt nhằm tăng cường
chất lượng thơng tin KTTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của Luận án là tập trung vào nghiên cứu và giải quyết các

mối quan hệ giữa tổ chức KSNB và KSNN với chất lượng thông tin KTTC của
CTNY nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu thông tin ngày càng cao của các nhà đầu tư.
Cụ thể:
(1) Xác định những tiêu chuẩn của chất lượng thông tin KTTC nói chung và
trong các CTNY nói riêng.
(2) Xác định mối liên hệ giữa tổ chức KSNB trong CTNY với chất lượng thông
tin KTTC của CTNY nhằm xác định nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin
KTTC của các CTNY trên TTCK.
3


(3) Phân tích các nhân tố ảnh hưởng của KSNN đến chất lượng thông tin
KTTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam.
(4) Đánh giá thực trạng chất lượng thông tin KTTC và tổ chức kiểm sốt tới
chất lượng thơng tin KTTC của CTNY.
(5) Đề xuất các giải pháp tăng cường chất lượng thơng tin KTTC của CTNY
thơng qua hồn thiện tổ chức KSNB của CTNY và KSNN đối với CTNY.
Luận án đề cập đến những quy định và môi trường lập BCTC đặc thù ở Việt
Nam cũng như những quy định về cơng bố thơng tin tài chính của các CTNY trên
TTCK tại Việt Nam. Luận án cung cấp cho những nhà nghiên cứu, những nhà
hoạch định chính sách và những nhà đầu tư cả trong nước và quốc tế những quy
định về chất lượng thông tin KTTC, quy định về thông tin KTTC tại Việt Nam và
sự hiểu biết sâu sắc về sự phát triển của TTCK Việt Nam. Đây cũng là một nghiên
cứu kế thừa những nghiên cứu trước và kiểm chứng trực tiếp những BCTC được
công bố của các CTNY trên TTCK Việt Nam.

1.3.Câu hỏi nghiên cứu
Xuất phát từ thực tiễn, từ những vấn đề chất lượng thơng tin KTTC của CTNY
cần được kiểm sốt và mục tiêu nghiên cứu, Tác giả đã đưa ra câu hỏi nghiên cứu
sau: Tổ chức kiểm sốt tồn diện như thế nào để tăng cường chất lượng thông tin

KTTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam? Cụ thể:
(1) Chất lượng thông tin KTTC của CTNY được đánh giá như thế nào?
(2) Cách thức tổ chức kiểm soát nào tốt hơn trong quản trị CTNY nhằm tăng
cường chất lượng thông tin KTTC của CTNY trên TTCK Việt Nam?
(3) Cách thức tổ chức kiểm soát nào của nhà nước nhằm giám sát tốt hơn và tăng
cường hơn chất lượng thông tin KTTC của CTNY trên TTCK Việt Nam?

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu ảnh hưởng của tổ chức kiểm sốt (gồm KSNB và KSNN)
đối với chất lượng thơng tin KTTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam. Cụ thể,
Luận án nghiên cứu các nhân tố của KSNB và KSNN có ảnh hưởng đến chất lượng
thơng tin KTTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam, từ đó đưa ra những đề xuất

4


hồn thiện tổ chức kiểm sốt nhằm nâng cao chất lượng thông tin KTTC của các
CTNY này.
CTNY trên TTCK gồm CTNY phi tài chính và CTNY tài chính. Các cơng ty
tài chính (như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khốn, tổ chức tín dụng,..) có cách thức
tổ chức kiểm sốt khác với các cơng ty phi tài chính do hàng hố và dịch vụ cung
cấp thuộc loại đặc biệt so với các ngành khác. Để đồng nhất nội dung nghiên cứu về
tổ chức KSNB và đảm bảo số lượng CTNY thực hiện khảo sát, Tác giả tập trung
thực hiện thu thập số liệu các CTNY phi tài chính.
Tại Việt Nam, sự hình thành và phát triển của hai SGDCK (SGDCK Thành phố
Hồ Chí Minh - SGDCK TPHCM và SGDCK Hà Nội) tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư, các CTNY trong nước lưu thông vốn. Theo Nghị định 58/2012/NĐCP của Chính phủ ban hành ngày 20/7/2012, điều kiện niêm yết tại SGDCK
TPHCM cao hơn so với SGDCK Hà Nội về vốn, về yêu cầu kết quả kinh doanh.
Mặc dù số lượng CTNY tại SGDCK TPHCM ít hơn nhưng tổng giá trị niêm yết cao
hơn gấp 3 lần so với tổng giá trị niêm yết tại SGDCK Hà Nội (theo số liệu thống kê

đến hết ngày 31/12/2012). Các CTNY phi tài chính tại SGDCK TPHCM đa dạng
các ngành nghề và vị trí địa lý kinh doanh. Để đảm bảo thời gian thực hiện nghiên
cứu, Luận án tập trung thu thập dữ liệu về thông tin KTTC của các CTNY phi tài
chính tại SGDCK TPHCM và thời gian nghiên cứu là năm 2008 đến năm 2012.
Vậy phạm vi nghiên cứu của Luận án là tổ chức KSNB của CTNY và KSNN
với chất lượng thông tin KTTC của các CTNY phi tài chính trên TTCK Việt Nam
tại SGDCK TPHCM.

1.5.Những đóng góp mới của Luận án
Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu là tổ chức kiểm sốt với chất lượng thơng
tin KTTC của các CTNY phi tài chính trên TTCK Việt Nam, Luận án đã thực hiện
quá trình nghiên cứu, khảo sát, phân tích, nhận định. Những đóng góp mới của Luận
án gồm:
(1) Luận án đã sử dụng tổng hợp các phương pháp và mơ hình đo lường các
tiêu chuẩn chất lượng thơng tin KTTC của các CTNY phi tài chính trên TTCK Việt
Nam tại SGDCK TPHCM. Nghiên cứu thực hiện đánh giá từng tiêu chuẩn chất

5


lượng thông tin KTTC của các CTNY nhằm xác định nội dung nào là trọng tâm từ
đó đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường chất lượng thông tin KTTC cho các
CTNY trên TTCK Việt Nam.
(2) Luận án xác định sự ảnh hưởng thuận chiều của kiểm soát trong nội bộ
CTNY đối với chất lượng thông tin KTTC của CTNY. Các thành phần KSNB được
đo lường thông qua thang đo và lượng hoá từng thành phần KSNB. Theo cách thức
tổ chức KSNB trong Luận án, KSNB gồm ba thành phần cơ bản: Mơi trường kiểm
sốt, hệ thống thơng tin (tập trung vào hệ thống thơng tin kế tốn) và thủ tục kiểm
sốt đều có tác động đến chất lượng thơng tin KTTC của CTNY phi tài chính trên
TTCK Việt Nam.

(3) Luận án đã chỉ ra tác động của tổ chức KSNN tới chất lượng thông tin
KTTC của CTNY. Luận án đã thực hiện xác định ảnh hưởng của các tổ chức KSNN
tới chất lượng thông tin KTTC của các CTNY. Từ đó xác định tổ chức quản lý nhà
nước có ảnh hưởng và cần có các thủ tục nhằm tăng cường chất lượng thông tin
KTTC của CTNY. Đồng thời qua q trình khảo sát, phân tích, Luận án đã xác định
ảnh hưởng của chức năng hỗ trợ của các tổ chức quản lý nhà nước tới chất lượng
thông tin KTTC của các CTNY.
(4) Luận án đã tổng hợp đánh giá thực trạng về chất lượng thông tin KTTC của
các CTNY trên TTCK Việt Nam hiện nay. Thơng qua q trình khảo sát, Luận án
đã tiến hành phân tích, đánh giá về chất lượng thông tin KTTC và tác động của tổ
chức KSNB, KSNN tới chất lượng thông tin KTTC của các CTNY phi tài chính
trên SGDCK TPHCM (thơng qua ý kiến kiểm toán độc lập về các BCTC của
CTNY).
(5) Luận án đã sử dụng phương pháp định tính trong bước xác định mối liên
hệ, những tác động ban đầu và đưa ra mơ hình nghiên cứu. Phương pháp định lượng
được sử dụng nhằm kiểm định mối liên hệ giữa tổ chức KSNB và KSNN với chất
lượng thông tin KTTC của các CTNY. Thơng qua việc xây dựng mơ hình kinh tế
lượng cùng với việc sử dụng phần mềm phân tích EViews, Luận án đã lượng hoá
được ảnh hưởng của KSNB, KSNN tới chất lượng thông tin KTTC của các CTNY
trên TTCK Việt Nam.

6


Kết quả kiểm định và hồi quy tương quan cho thấy:
Thứ nhất, chất lượng thông tin KTTC của CTNY phi tài chính trên SGDCK
TPHCM được đánh giá tốt;
Thứ hai, chất lượng KTTC của CTNY chịu tác động của nhiều yếu tố song xét
trên giác độ quản lý, KSNB và KSNN có ảnh hưởng mạnh tới chất lượng thơng tin
này;

Thứ ba, tổ chức KSNB có ảnh hưởng tới chất lượng thơng tin KTTC của
CTNY phi tài chính trên SGDCK TPHCM, trong đó mơi trường kiểm sốt có ảnh
hưởng mạnh nhất, tiếp đến là thủ tục kiểm sốt và hệ thống thơng tin kế tốn;
Thứ tư, tổ chức KSNN có ảnh hưởng tới chất lượng thơng tin KTTC của
CTNY phi tài chính trên SGDCK TPHCM, trong đó ảnh hưởng của tổ chức bộ máy
kiểm sốt, giám sát chất lượng thơng tin KTTC được ước lượng là mạnh.

1.6. Kết cấu của Luận án
Luận án gồm 6 chương:
Chương 1 – Giới thiệu đề tài: Trình bày lý do lựa chọn đề tài, mục tiêu nghiên
cứu, câu hỏi nghiên cứu và những đóng góp mới của Luận án.
Chương 2 – Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu về tổ chức kiểm soát
nhằm tăng cường chất lượng thơng tin kế tốn tài chính các cơng ty niêm yết
trên thị thường chứng khốn. Chương này đã tổng hợp cơ sở lý luận, tổng quan
nghiên cứu về tổ chức kiểm sốt chất lượng thơng tin KTTC của CTNY. Những lý
thuyết về kiểm soát, tổ chức kiểm sốt, thơng tin của CTNY, chất lượng thơng tin
KTTC của CTNY, vai trị của kiểm sốt thơng tin KTTC của CTNY được đề cập
trong chương. Từ đó nội dung tổ chức kiểm sốt chất lượng thơng tin KTTC của
CTNY được xác định gồm: Lượng hóa chất lượng thơng tin KTTC của CTNY, tổ
chức KSNB tới chất lượng thông tin KTTC của CTNY (qua lượng hóa KSNB của
CTNY và xác định mối quan hệ giữa KSNB với chất lượng thông tin KTTC của
CTNY), tổ chức KSNN tới chất lượng thông tin KTTC của CTNY (qua xác định
các tổ chức quản lý ảnh hưởng tới chất lượng thông tin KTTC của CTNY, thủ tục
kiểm soát, những kinh nghiệm của KSNN trên thế giới về thông tin KTTC của
CTNY trên TTCK).
7


Chương 3 - Phương pháp nghiên cứu tổ chức kiểm sốt đối với chất lượng
thơng tin kế tốn tài chính các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khốn Việt

Nam. Chương này giới thiệu về phương pháp nghiên cứu được Tác giả sử dụng
trong Luận án gồm: Phương pháp nghiên cứu định tính, phương pháp nghiên cứu
định lượng. Nội dung của chương đề cập đến nguồn dữ liệu thu thập, lý do giới hạn
phạm vi khảo sát của Luận án. Mơ hình nghiên cứu và giả thiết nghiên cứu được mô
tả trong chương này.
Chương 4 - Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tổ chức kiểm soát đối với
chất lượng thơng tin kế tốn tài chính các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam. Chương này trình bày về kết quả khảo sát và phân tích kết quả
khảo sát về tổ chức kiểm soát chất lượng thơng tin KTTC của các CTNY phi tài
chính tại SGDCK TPHCM. Nội dung chương này đề cập về thực trạng chất lượng
thông tin KTTC CTNY trên TTCK Việt Nam, khảo sát trực tiếp các CTNY về kiểm
sốt chất lượng thơng tin KTTC và đánh giá về kiểm soát của các tổ chức quản lý
(KSNN) hiện tại đối với chất lượng thông tin KTTC của các CTNY thông qua dữ
liệu thứ cấp. Qua dữ liệu sơ cấp thu thập được về các tiêu chuẩn chất lượng thông
tin KTTC, các thành phần của tổ chức KSNB, ảnh hưởng của tổ chức KSNN, Tác
giả lượng hóa và sử dụng phần mềm Eviews để kiểm định thống kê và hồi quy
tương quan, từ đó xác định ảnh hưởng của tổ chức kiểm soát tới chất lượng thơng
tin KTTC của CTNY.
Chương 5 – Phân tích kết quả nghiên cứu và giải pháp hoàn thiện tổ chức
kiểm sốt nhằm tăng cường chất lượng thơng tin kế tốn tài chính các cơng ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Chương này giới thiệu về giải
pháp hồn thiện tổ chức kiểm sốt nhằm tăng cường chất lượng thông tin KTTC của
CTNY trên TTCK Việt Nam dựa trên kết quả khảo sát các nhân tố KSNB, KSNN
tới chất lượng thông tin.
Chương 6 – Kết luận: Tổng hợp những nghiên cứu đã thực hiện trong Luận án
như: Lý luận, phương pháp thực hiện, thực tế khảo sát, những phân tích từ kết quả
khảo sát và những giải pháp hồn thiện tổ chức kiểm sốt nhằm tăng cường chất
lượng thông tin KTTC của CTNY trên TTCK Việt Nam.

8



Kết luận chương 1
Luận án đã xác định đối tượng nghiên cứu là ảnh hưởng của tổ chức KSNB và
KSNN tới chất lượng thông tin KTTC của CTNY phi tài chính. Phạm vi nghiên cứu
của Luận án là tổ chức KSNB của CTNY và KSNN với chất lượng thông tin KTTC
của các CTNY phi tài chính trên TTCK Việt Nam tại SGDCK TPHCM. Luận án
tập trung thu thập dữ liệu về thơng tin KTTC của các CTNY phi tài chính tại
SGDCK TPHCM và thời gian nghiên cứu từ năm 2008 đến năm 2012.
Mục tiêu tổng quát của Luận án là tập trung vào nghiên cứu và giải quyết các
mối quan hệ giữa tổ chức KSNB và KSNN với chất lượng thông tin KTTC của
CTNY để đáp ứng tốt nhất nhu cầu thông tin ngày càng cao của các nhà đầu tư. Từ
đó, xác định câu hỏi nghiên cứu tổng quan: “Tổ chức kiểm sốt tồn diện như thế
nào để tăng cường chất lượng thông tin KTTC của các CTNY trên TTCK Việt
Nam?”
Luận án đã xác định những đóng góp mới như:
(1) Luận án đã sử dụng đã tổng hợp các phương pháp và mơ hình đo lường
các tiêu chuẩn của chất lượng thông tin KTTC của các CTNY phi tài chính trên
TTCK Việt Nam tại SGDCK TPHCM;
(2) Luận án đã xác định sự ảnh hưởng thuận chiều của kiểm soát trong nội bộ
CTNY đối với chất lượng thông tin KTTC của CTNY;
(3) Luận án đã chỉ ra tác động của tổ chức KSNN tới chất lượng thông tin
KTTC của CTNY;
(4) Luận án đã tổng hợp đánh giá thực trạng về chất lượng thông tin KTTC
của các CTNY trên TTCK Việt Nam hiện nay;
(5) Luận án đã sử dụng phương pháp định tính, phương pháp định lượng
được sử dụng nhằm kiểm định mối liên hệ giữa tổ chức KSNB và KSNN với chất
lượng thông tin KTTC của các CTNY. Thông qua việc xây dựng mơ hình kinh tế
lượng cùng với việc sử dụng phần mềm phân tích Eviews để kiểm định mối quan hệ
tương quan của các nhân tố của tổ chức KSNB và KSNN tới chất lượng thông tin

KTTC của các CTNY phi tài chính trên TTCK Việt Nam.

9


2

CHƯƠNG 2- CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
VỀ TỔ CHỨC KIỂM SỐT NHẰM TĂNG CƯỜNG CHẤT LƯỢNG
THƠNG TIN KẾ TỐN TÀI CHÍNH CÁC CƠNG TY NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN
2.1. Tổ chức kiểm sốt thơng tin
2.1.1. Kiểm sốt thơng tin
2.1.1.1. Kiểm sốt trong quản lý
Quản lý ln được nhìn nhận là hoạt động quan trọng trong mọi lĩnh vực
kinh tế - xã hội. Quản lý được tiếp cận theo nhiều khía cạnh khác nhau dẫn đến có
nhiều quan điểm khác nhau về quản lý. Harold Koontz (1992) nhận định: Quản lý là
quá trình nhằm đạt được sự khéo léo sử dụng các nguồn lực có hiệu quả [16, tr30].
Theo định nghĩa này thì quản lý là một q trình tích cực, nó chăm lo đến các
nguồn lực với mục tiêu cuối cùng là sử dụng các nguồn lực đó theo cách hiệu quả
nhất có thể. Và quản lý được coi là một quá trình bao gồm các giai đoạn: Lập kế
hoạch, tổ chức, cung cấp các nguồn lực, điều hành và kiểm soát. Quản lý là một quá
trình do một hay nhiều người thực hiện, nhằm phối hợp các hoạt động của những
người khác để đạt được kết quả mà một người hành động riêng rẽ không thể nào đạt
được, theo James H (2001) [14, tr52].
Theo GS.TS Nguyễn Quang Quynh (2003), quản lý là một quá trình định
hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở các nguồn lực xác định
nhằm đạt hiệu quả cao nhất [25, tr11]. Quá trình này bao gồm nhiều chức năng và
có thể chia thành nhiều giai đoạn từ khi đưa ra định hướng trên cơ sở dự báo các
nguồn lực, mục tiêu cần có và có thể đạt tới, cho đến khi những định hướng này

được triển khai thành các kế hoạch, các chương trình hành động và cuối cùng chúng
được tổ chức thực hiện trong thực tế. Theo quan niệm này, quản lý bao gồm các giai
đoạn: Định hướng, tổ chức thực hiện, cung cấp nguồn lực và điều hành, trong đó
kiểm tra là một chức năng được thực hiện ở tất cả các giai đoạn trong quá trình quản
lý.

10


Theo Nguyễn Ngọc Bích (2006) quản lý là việc tổ chức, điều khiển và theo
dõi thực hiện như đường lối của chính quyền quy định. Như vậy, quản lý là sự tác
động có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng bị quản lý nhằm đạt được các
mục tiêu đã định [24, tr699].
Quá trình quản lý bắt đầu từ việc lập kế hoạch và xây dựng các mục tiêu có
liên quan. Việc lập kế hoạch được trợ giúp bởi việc tổ chức và cung cấp những
nguồn lực cần thiết – kể cả con người. Sau đó các nhà quản lý có những hoạt động
cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu đã xây dựng. Thông thường những hoạt động
đó tự nó chưa được coi là đầy đủ. Mọi việc hiếm khi được thực hiện đúng như dự
định và sai lầm cũng có thể xảy ra khi những điều kiện mơi trường thay đổi. Do đó,
các nhà quản lý cần những biện pháp và hành động phụ thêm để có được những
mục tiêu tốt hơn, ngăn ngừa những loại hành động khơng mong muốn. Chức năng
kiểm sốt chính là đem lại những biện pháp, hành động và thủ tục cần thiết cho
những nhà quản lý. Như vậy, kiểm soát tồn tại như một “khâu” độc lập của quá
trình quản lý nhưng đồng thời lại là một bộ phận chủ yếu của q trình đó.
Kiểm sốt là cần thiết trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người,
trong tổ chức cũng như tồn bộ xã hội. Kiểm sốt là một quy trình giám sát các hoạt
động để đảm bảo rằng các hoạt động này được thực hiện theo kế hoạch và chỉnh sửa
các sai lệch quan trọng. Đích cuối cùng mà q trình quản lý hướng tới chính là
việc đạt được mục tiêu đã đặt ra trong khuôn khổ một tổ chức nhất định. Việc thực
hiện các kế hoạch luôn phải đối mặt với những thay đổi của mơi trường bên trong

và bên ngồi tổ chức, nếu khơng có kiểm sốt, các nhà quản lý sẽ khơng có thơng
tin để ra các quyết định thích hợp nhằm thích ứng và đối phó với sự thay đổi này, vì
vậy, mục tiêu đặt ra khó có thể thực hiện được. Chính vì vậy, nghiên cứu và thực
hiện kiểm sốt ln là nội dung gắn liền với quản lý.
Theo Fayol (1949), kiểm soát là việc kiểm tra để khẳng định mọi việc có
được thực hiện theo đúng kế hoạch hoặc các chỉ dẫn và các nguyên tắc đã được
thiết lập hay khơng, từ đó nhằm chỉ ra các yếu kém và sai phạm cần phải điều
chỉnh, đồng thời ngăn ngừa chúng không được phép tái diễn [71, tr107]. Theo
Harold Koontz (1992) kiểm soát là việc đo lường và chỉnh sửa hoạt động nhằm đảm
bảo rằng các mục tiêu của doanh nghiệp và các kế hoạch được lập ra nhằm thực
11


hiện các mục tiêu đó là đạt được [16, tr45]. Theo Nguyễn Ngọc Bích (2006), kiểm
sốt được hiểu là hoạt động xem xét có gì sai quy tắc, điều lệ, kỷ luật hay khơng và
có - đặt hoặc giữ dưới sức mạnh và quyền hành của chủ thể thực hiện hoạt động
kiểm soát [24,tr474].
Theo GS.TS Nguyễn Quang Quynh (2003), kiểm soát được hiểu là tổng hợp
các phương sách để nắm lấy và điều hành các đối tượng hoặc khách thể quản lý.
Với ý nghĩa như vậy, kiểm soát được hiểu theo nhiều hướng khác nhau, chẳng hạn
như cấp trên kiểm sốt cấp dưới thơng qua các biện pháp hoặc chính sách cụ thể;
đơn vị này kiểm soát đơn vị khác thông qua việc ảnh hưởng hoặc chi phối đáng kể
dựa trên quyền sở hữu và lợi ích tương ứng; nội bộ đơn vị kiểm sốt lẫn nhau thơng
qua nội quy và quy chế,.... Kiểm tra, kiểm soát là một chức năng của quản lý và
quản lý được chia thành: quản lý vĩ mô (quản lý nhà nước) và quản lý vi mô (quản
lý cấp đơn vị). Trong mọi trường hợp để đảm bảo hiệu quả hoạt động, các đơn vị cơ
sở đều phải tiến hành kiểm tra, rà soát các hoạt động của mình [25, tr12-13].
Kiểm sốt là q trình nhà quản lý giám sát và điều tiết tính hiệu quả, hiệu
lực của một tổ chức và các thành viên trong việc thực hiện các hoạt động nhằm đạt
được mục tiêu của tổ chức, theo Jones (2003) [88]. Thực chất kiểm sốt là q trình

đo lường, đánh giá và tác động lên đối tượng kiểm soát nhằm đảm bảo mục tiêu, kế
hoạch của tổ chức được thực hiện một cách có hiệu quả, theo PGS.TS. Nguyễn Thị
Phương Hoa (2009) [28, tr14].
Như vậy, kiểm soát được hiểu là kiểm tra, soát xét nhằm phát hiện những
lệch lạc trong quá trình thực thi các quyết định quản lý so với các quy định, từ đó
điều hành đối tượng và khách thể quản lý nhằm đạt được các mục tiêu đã định. Trên
cơ sở phân tích một số quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, Tác
giả đưa ra khái niệm về kiểm soát như sau: “Kiểm soát là chức năng quan trọng
trong quản lý, được thực hiện tại các cấp độ và giai đoạn khác nhau trong quản lý
theo cách thức phù hợp với đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.
Kiểm soát bao gồm việc đo lường, đánh giá đối tượng kiểm soát nhằm đạt được
hiệu quả trong quản lý”.

12


2.1.1.2. Thơng tin
Thơng tin là một khái niệm đã có từ lâu đời, là một khái niệm rất rộng. Tùy
thuộc vào từng lĩnh vực nghiên cứu, mà đưa ra những định nghĩa khác nhau và giới
hạn khái niệm đó lại phục vụ mục đích nghiên cứu.
Đối với các nhà quản lý kinh tế: Thơng tin là những tín hiệu được thu nhận,
được hiểu và được đánh giá là có ích cho việc ra quyết định;
Đối với các nhà điều khiển học: Thông tin là một phạm trù phản ánh nội dung
và hình thức vận động của các sự vật và hiện tượng. Theo quan điểm hệ thống thì
thơng tin là sự hạn chế tính đa dạng của mỗi hệ thống sự vật đối với mơi trường,
thơng tin là tính trật tự của các đối tượng vật chất có những mối liên hệ biện chứng;
Đối với các nhà triết học: Thông tin là một phạm trù triết học phản ánh sự vận
động và tương tác của các hiện tượng, sự vật và q trình tư duy. Thơng tin là q
trình phản ánh và tiếp nhận phản ánh, biến phản ánh thành hiểu biết, thành tri thức;
Đối với các nhà xã hội học: Thông tin quản lý trong hệ thống kinh tế xã hội là

sự phản ánh nội dung và hình thức vận động, liên hệ giữa các đối tượng, yếu tố của
hệ thống đó và giữa hệ thống đó với mơi trường.
Thơng tin có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, thơng tin gắn liền với q trình điều khiển và cần được kiểm sốt:
Bản thân thơng tin khơng có mục đích tự thân. Nó chỉ tồn tại và có ý nghĩa trong
một hệ thống điều khiển nào đó – nơi phát thông tin. Thông tin được trao đổi từ hệ
thống này sang hệ thống khác trong mối liên hệ với nhau. Việc kiểm sốt nơi phát
thơng tin, q trình trao đổi thông tin được thực hiện đảm bảo độ tin cậy của q
trình truyền tin.
Thứ hai, thơng tin có tính tương đối và cần được lượng hóa: Mỗi thơng tin chỉ
là một sự phản ánh chưa đầy đủ về hiện tượng vào sự vật được phản ánh, đồng thời
nó cũng phụ thuộc vào trình độ và khả năng của nơi phản ánh. Để thông tin được
phản ánh đầy đủ, việc tổ chức tốt nơi phản ánh thông tin là cần thiết. Việc đo lường
thông tin giúp đánh giá sự phản ánh đầy đủ từ nơi phát thông tin.

13


Thứ ba, tính định hướng của thơng tin và kiểm sốt thơng tin: Thơng tin phản
ánh mối quan hệ giữa đối tượng được phản ánh và nơi nhận phản ánh. Thông tin
được cung cấp cho những đối tượng cần thông tin. Độ tin cậy của thông tin nhận
được giúp đánh giá đúng bản chất của nơi phát thông tin. Với những thơng tin có
ảnh hưởng trên diện rộng, đối tượng nhận thơng tin đa dạng, thơng tin cần được
kiểm sốt từ nội bộ nơi – nơi phát thông tin và từ bên ngồi – nơi nhận thơng tin
(như thơng tin KTTC của một CTNY trên TTCK).
Thứ tư, mỗi thông tin đều có vật mang tin và lượng tin: Nội dung tin bao giờ
cũng phải có một vật mang tin nào đó. Trên một vật mang tin có thể có nhiều nội
dung tin và thông tin thường thay đổi vật mang tin trong quá trình luân chuyển của
mình. Vật mang tin được xây dựng đảm bảo cung cấp đủ thông tin nhằm phản ánh
đúng bản chất của nơi phát thông tin (như hệ thống BCTC thể hiện thông tin KTTC

của một công ty).
Thông tin kinh tế được xác định là những tín hiệu, được thu nhận, được hiểu và
được đánh giá là có ích trong việc ra quyết định kinh tế của người sử dụng thông
tin. Thông tin kinh tế đáp ứng những đặc trưng của thơng tin nói trên do đó thơng
tin kinh tế cần được kiểm sốt, đo lường để đảm bảo độ tin cậy thơng tin.

2.1.1.3. Kiểm sốt thơng tin
Theo Peter A. Corning (2007), kiểm sốt thơng tin là năng lực kiểm soát việc
thu nhận, sắp xếp, sử dụng những vấn đề trong q trình sử dụng có mục đích [103].
Kiểm sốt thơng tin có một số đặc tính khác biệt như:
(1) Kiểm sốt thơng tin khơng tồn tại độc lập, không phải là một thể thống
nhất hay cơ chế hoạt động. Nó thể hiện mối liên hệ giữa hệ thống điều khiển (hay
người sử dụng) với môi trường trong nội bộ hoặc bên ngồi;
(2) Kiểm sốt thơng tin khơng tồn tại cho đến khi nó thực sự được sử dụng.
Kiểm sốt thơng tin mang tính thường xun đảm bảo tính chất thống nhất, kết
nối giữa các thành phần thông tin. Thông tin được sử dụng và cần có sự kiểm sốt
nhằm đảm bảo minh bạch thơng tin, tăng độ tin cậy thông tin. Các thông tin sai lệch
và khơng được kiểm sốt sẽ làm ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin.

14


Do đó, kiểm sốt thơng tin là một u cầu tất yếu để đảm bảo thông tin không
bị sai lệch, thơng tin khơng bị bóp méo. Để kiểm sốt thơng tin cần thực hiện tổ
chức kiếm sốt thơng tin phù hợp với đặc điểm của thơng tin đó.

2.1.2. Tổ chức kiểm sốt thơng tin
Thuật ngữ tổ chức được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo Hoàng Phê
(2008), tổ chức là tập hợp người được tổ chức lại, hoạt động vì những quyền lợi
chung, nhằm một mục đích chung [17, tr1249]. Theo cách định nghĩa này, tổ chức

đề cập đến tổ chức về nhân sự với mục tiêu hoạt động chung, chưa đề cập đến các
mối quan hệ bên trong giữa các yếu tố khác trong hệ thống.
Theo Hornby (2010) tổ chức (organization) có nhiều cách hiểu khác nhau : (1)
tổ chức là tập hợp một nhóm người nhằm đạt được mục tiêu cụ thể; (2) tổ chức là
hoạt động sắp xếp cho một việc cụ thể; (3) tổ chức là cách thức liên hệ giữa những
thành phần khác nhau; (4) tổ chức là sự chuẩn bị kỹ lưỡng, logic một công việc cụ
thể. Theo cách định nghĩa này, tổ chức được nhìn nhận dưới rất nhiều khía cạnh
khác nhau như tổ chức con người, cách thức sắp xếp công việc, cách thức đánh giá
chất lượng công việc [80, tr1037].
Tổ chức theo nghĩa rộng phải bao hàm các mối liên hệ giữa các thành phần
khác nhau trong hệ thống bao gồm cả nhân sự và công việc. Mục tiêu chung của tổ
chức là tạo ra mối liên hệ tối ưu giữa các yếu tố của hệ thống, theo TS. Phạm Bính
Ngọ (2011) [33,tr26-28].
Theo Tác giả, tổ chức kiểm sốt thơng tin là cách thức liên hệ giữa các thành
phần khác nhau trong một hệ thống cụ thể, kết hợp kiểm soát nội bộ và kiểm sốt
bên ngồi cùng hướng đến thơng tin quản lý.

2.2. Chất lượng thơng tin kế tốn tài chính của các cơng ty niêm yết
2.2.1. Những tiêu chí phản ánh chất lượng thơng tin kế tốn tài chính
2.2.1.1. Chất lượng thơng tin
Chất lượng
Chất lượng có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Theo Juran, chất lượng là sự
phù hợp với nhu cầu [86, tr11]. Theo Crosby, chất lượng là sự phù hợp với các yêu

15


cầu [105]. Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, ISO 9000:2005, đã đưa ra định
nghĩa “Chất lượng là mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp có đặc tính vốn
có”.

Chất lượng có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, chất lượng là sự thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng. Nếu một
sản phầm vì lý do nào đó mà khơng được nhu cầu chấp nhận thì phải bị coi là có
chất lượng kém, cho dù trình độ tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Chất lượng
được đo bằng sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn luôn biến động nên chất lượng
cũng luôn luôn biến động theo thời gian, không gian và điều kiện sử dụng.
Thứ hai, chất lượng là sự phù hợp với các nhu cầu khác nhau. Khi đánh giá
chất lượng của một đối tượng, ta xét đến mọi đặc tính của đối tượng có liên quan
đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể. Các nhu cầu này khơng chỉ từ phía người sử
dụng mà cịn từ các bên có liên quan, ví dụ như các yêu cầu mang tính pháp chế,
nhu cầu của cộng đồng xã hội.
Thứ ba, chất lượng được tiêu chuẩn hóa cụ thể. Một số nhu cầu có thể được
cơng bố rõ ràng dưới dạng các qui định, tiêu chuẩn nhưng cũng có những nhu cầu
khơng thể miêu tả rõ ràng và được đánh giá qua quá trình sử dụng.
Như vậy, chất lượng được xác định thơng qua việc có đáp ứng được nhu cầu
của người sử dụng, đồng thời phải xét đến đặc tính của sản phẩm cung cấp cho
người sử dụng và chất lượng có thể được tiêu chuẩn hố.
Chất lượng thơng tin
Lợi ích của nền kinh tế thị trường chủ yếu là do từng cá nhân, tổ chức được
phép tối ưu hóa lợi ích của mình. Nhưng điều này chỉ thực sự xảy ra khi cá nhân, tổ
chức được nắm đầy đủ các thông tin cần thiết. Khi thông tin khơng rõ ràng hoặc
khơng chắc chắn thì mức độ rủi ro khi sử dụng thông tin này tăng lên. Khả năng ra
quyết định tối ưu sẽ bị giảm đi, hoạt động của thị trường bị giảm tính hiệu quả. Vấn
đề của nền kinh tế thị trường là chất lượng thông tin cần bảo đảm, đáp ứng yêu cầu
của người sử dụng thông tin.
Chất lượng thông tin là thuật ngữ mô tả chất lượng của các thành phần trong
hệ thống thông tin, sự phù hợp với yêu cầu của người sử dụng thông tin. Chất lượng
16



thông tin thường được hiểu là thước đo về giá trị thông tin cung cấp cho người sử
dụng [123].
Theo Wang (1996) [121,tr5-34], chất lượng thông tin được khẳng định các
mặt cơ bản là: (1) Tính nội tại của chất lượng thơng tin gồm: Tính chính xác, tính
khách quan, độ tin cậy và uy tín cung cấp thơng tin; (2) Chất lượng thơng tin trong
tình huống cụ thể gồm: Sự phù hợp, giá trị gia tăng, kịp thời, đầy đủ; (3) Tính đại
diện của chất lượng thơng tin gồm: Sự dễ hiểu, biểu mẫu quy định, tính phổ thơng,
có thể so sánh được; (4) Khả năng tiếp cận thông tin gồm: Khả năng tiếp cận thơng
tin, tính bảo mật thơng tin.
Như vậy, chất lượng thông tin đảm bảo các đặc trưng của chất lượng là:
thỏa mãn nhu cầu, đáp ứng các nhu cầu khác nhau và được tiêu chuẩn hóa. Các
tiêu chuẩn hóa của chất lượng thơng tin thường giúp đáp ứng các nhu cầu khác
nhau, như độ tin cậy, tính khách quan, tính kịp thời, sự phù hợp, tính dễ hiểu, có thể
so sánh của thơng tin. Trong đó, độ tin cậy được coi là tiêu chuẩn quan trọng của
chất lượng thơng tin. Bên cạnh đó căn cứ vào đặc trưng của thông tin (mục 2.1.1.2),
chất lượng thông tin phải được lượng hóa phù hợp với đặc tính của thơng tin và
kiểm sốt thơng tin để đảm bảo chất lượng thông tin từ nơi phát thông tin tới nơi
nhận thông tin.

2.2.1.2. Tiêu chuẩn hóa thơng tin kế tốn tài chính
Trong thực tế, thông tin KTTC phục vụ cho quyết định đầu tư của những
thành phần tham gia thị trường. Thông tin tài chính thực sự có hiệu quả với các chủ
đầu tư, nhà cung cấp tín dụng, các đối tác và cơ quan có thẩm quyền nếu nó cung
cấp tình hình hoạt động trong q khứ, dự đốn lợi nhuận tương lai và kiểm soát
hành động của BGĐ, theo Robert M. Bushman and Abbie J. Smith (2003) [108,
tr65-87]. Thông tin KTTC có được từ hệ thống kế tốn, đây là hệ thống thu thập, xử
lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thơng tin kinh tế, tài chính của các đơn vị bằng
BCTC cho đối tượng có nhu cầu sử dụng thơng tin của đơn vị kế tốn (Điều 4, Luật
Kế tốn) [34].
Những quy định về thơng tin KTTC thơng qua BCTC được trình bày trong

CFFF (Conceptual Framework for Financial Reporting 2013) của IASB

17


(International Accounting Standards Board), theo IFRS (2013) [82, tr54-64]. IASB
đã chỉ ra cách thức phát triển một hệ thống chuẩn mực kế toán chất lượng cao và
được sử dụng rộng rãi trên tồn thế giới.
Theo IFRS (2013), thơng tin KTTC được tiêu chuẩn hóa như sau:
(1) Phù hợp (Relevance): Thơng tin KTTC phù hợp với người sử dụng, bao
gồm cả giá trị xác định và giá trị dự toán trong tương lai.
(2) Trình bày trung thực (Fairthful representation): Các thơng tin và số liệu
kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách
quan, xác thực với thực tế về hiện trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ
kinh tế phát sinh. Trình bày trung thực khơng có nghĩa là chính xác trên mọi khía
cạnh.
(3) Có thể so sánh (Comparability): Các thơng tin và số liệu kế tốn giữa các
kỳ kế toán trong một doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp chỉ có thể so sánh
được khi tính tốn và trình bày nhất quán.
(4) Xác nhận (Verifiability): Số liệu kế tốn phải được xác nhận tránh tình
trạng hiểu lầm cần phải giải thích rõ các phương pháp, các giả định kế tốn áp dụng
trong BCTC.
(5) Đúng kỳ (Timeliness): Các thơng tin và số liệu kế toán phải được ghi
chép và báo cáo kịp thời, đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được chậm trễ.
Thông tin chậm thường không hữu ích đối với người sử dụng thông tin.
(6) Dễ hiểu (Understandability): Các thơng tin và số liệu kế tốn trình bày
trong BCTC phải rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng.
Các tiêu chuẩn của Việt Nam tương đồng với tiêu chuẩn thông tin KTTC
quốc tế. Theo Chuẩn mực kế tốn Việt Nam số 01, chất lượng của thơng tin kế tốn
cần [2]:

Một, trình bày trung thực: Các thơng tin và số liệu kế toán phải được ghi
chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế
về hiện trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

18


Hai, khách quan: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo
cáo đúng với thực tế, khơng bị xun tạc, khơng bị bóp méo.
Ba, đầy đủ: Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến kỳ kế
toán phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, khơng bị bỏ sót.
Bốn, đúng kỳ: Các thơng tin và số liệu kế tốn phải được ghi chép và báo cáo
kịp thời, đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được chậm trễ.
Năm, dễ hiểu: Các thơng tin và số liệu kế tốn trình bày trong BCTC phải rõ
ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng. Người sử dụng ở đây được hiểu là người có
hiểu biết về kinh doanh, về kinh tế, tài chính, kế tốn ở mức trung bình. Thơng tin
về những vấn đề phức tạp trong BCTC phải được giải trình trong phần thuyết minh.
Sáu, có thể so sánh: Các thơng tin và số liệu kế toán giữa các kỳ kế toán
trong một doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp chỉ có thể so sánh được khi tính
tốn và trình bày nhất qn. Trường hợp khơng nhất qn thì phải giải trình trong
phần thuyết minh để người sử dụng BCTC có thể so sánh thơng tin giữa các kỳ kế
tốn, giữa các doanh nghiệp hoặc giữa thông tin thực hiện với thông tin dự tốn, kế
hoạch.
Như vậy, tiêu chuẩn hóa thơng tin KTTC của Việt Nam và quy định quốc tế
có sự tương đồng và thông tin KTTC (thể hiện qua BCTC) bao gồm: Sự phù hợp,
trình bày trung thực (tin cậy) (hai tiêu chuẩn căn bản) và các tiêu chuẩn làm gia
tăng chất lượng thông tin KTTC là dễ hiểu, so sánh được, xác nhận và đúng kỳ.

2.2.1.3. Chất lượng thông tin kế tốn tài chính
Sự ảnh hưởng rộng lớn của thơng tin KTTC (thông qua BCTC) của công ty

tới các cổ đông, các nhà đầu tư và các bên liên quan dẫn đến tầm quan trọng của
công chúng tới chất lượng thông tin KTTC các công ty (đặc biệt đối với CTNY).
Thơng tin của từng lĩnh vực có những điểm khác biệt song vẫn gồm những
đặc trưng cơ bản của thông tin. Thơng tin KTTC có các đặc trưng cơ bản sau:
(1) Thông tin KTTC gắn với việc ghi nhận, phản ánh tình hình kinh doanh
của một cơng ty, việc cung cấp thông tin KTTC chủ yếu do bộ phận KTTC và ban
quản trị cơng ty. Để có được thơng tin KTTC cung cấp ra bên ngoài, dữ liệu được

19


trao đổi giữa các bộ phận khác nhau trong toàn công ty, trước khi tập hợp về bộ
phận KTTC. Nhằm tăng cường độ chính xác của thơng tin KTTC cung cấp, việc
KSNB cơng ty trong q trình cung cấp thơng tin là yêu cầu tất yếu để đảm bảo độ
tin cậy thơng tin phát đi.
(2) Thơng tin KTTC có tính tương đối khi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh trong một công ty. Thông tin KTTC không mang tính tuyệt đối, số liệu có
thể thay đổi theo những giả định, ước tính của nhà quản trị cơng ty. Do đó, lượng
hóa thơng tin KTTC để đánh giá mức độ cung cấp thông tin, đảm bảo việc cung cấp
thông tin là đầy đủ cho người sử dụng ra quyết định.
(3) Thơng tin KTTC có tính định hướng khi cung cấp thông tin. Các đối
tượng khác nhau sử dụng thông tin KTTC cho những mục đích khác nhau, như ra
quyết định đầu tư đúng đắn (nhà đầu tư), ra quyết định kinh doanh (ban quản trị
công ty), nghĩa vụ thuế (cơ quan thuế), sự gia tăng giá trị sản xuất trong nền kinh tế
quốc dân (cơ quan thống kê), sự phát triển của công ty trong nền kinh tế (nhà
nghiên cứu, công chúng), sự tăng trưởng công ty gắn với thu nhập (người lao
động),…Đáp ứng nhu cầu đó nên thơng tin KTTC được tiêu chuẩn hóa, phải tuân
thủ quy định khi cung cấp thơng tin ra bên ngồi. Việc kiểm sốt cung cấp thơng tin
KTTC khơng chỉ dừng trong nội bộ cơng ty mà từ bên ngồi (đặc biệt của nhà
nước).

(4) Thông tin KTTC được thể hiện qua hệ thống BCTC của công ty. Một hệ
thống được xây dựng theo quy định với nhiều bảng biểu, chỉ tiêu nhằm cung cấp
đầy đủ thông tin cho người sử dụng và đảm bảo sự đồng nhất để người đọc có thể so
sánh được công ty này với công ty khác. Hệ thống BCTC được các quốc gia đưa ra
khuôn mẫu cụ thể đảm bảo công bằng, minh bạch giữa các đối tượng sử dụng thông
tin khác nhau.
Chất lượng thông tin KTTC đảm bảo các đặc trưng của chất lượng là thỏa
mãn nhu cầu, đáp ứng các nhu cầu khác nhau và được tiêu chuẩn hóa. Các tiêu
chuẩn hóa của chất lượng thơng tin KTTC bao gồm: sự phù hợp, trình bày trung
thực (tin cậy), dễ hiểu, so sánh được, xác nhận và đúng kỳ. Chất lượng thông tin

20


KTTC phải được lượng hóa và kiểm sốt thơng tin để đảm bảo chất lượng thông tin
cung cấp cho các đối tượng sử dụng thông tin thông qua các BCTC.

2.2.2. u cầu về chất lượng thơng tin kế tốn tài chính đối với các cơng
ty niêm yết
2.2.2.1. Thị trường chứng khốn và cơng ty niêm yết
Thị trường chứng khốn là thuật ngữ dùng để chỉ cơ chế hoạt động giao dịch
mua bán chứng khoán dài hạn như các loại trái phiếu, cổ phiếu và các cơng cụ tài
chính khác. Theo GS.TS Lê Văn Tư (2005), TTCK được quan niệm là một thị
trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán
các loại chứng khoán trung và dài hạn giữa những người phát hành chứng khoán,
mua chứng khoán hoặc kinh doanh chứng khoán [21, tr9].
TTCK là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho đầu tư và phát
triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến các nhà đầu tư nói riêng và nền kinh tế
nói chung, TS.Bùi Kim Yến (2005). TTCK là thị trường cao cấp, nơi tập trung
nhiều đối tượng tham gia với các mục đích, sự hiểu biết và lợi ích khác nhau; các

giao dịch các sản phẩm tài chính được thực hiện với giá trị lớn [6, tr20]. Đặc tính
này của TTCK cũng là môi trường dễ xảy ra gian lận, không minh bạch gây tổn thất
cho các nhà đầu tư, cho thị trường và toàn bộ nền kinh tế.
Theo nghiên cứu của TS.Nguyễn Đình Hùng (2010), TTCK cần đảm bảo
minh bạch thơng tin [23]. Đây là một trong những nhân tố giúp TTCK phát triển.
Khi cổ phiếu của công ty được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khốn thì minh
bạch thơng tin doanh nghiệp nói chung và thơng tin về tình hình tài chính doanh
nghiệp nói riêng khơng chỉ cung cấp cho người sở hữu mà cho tất cả các đối tượng
khác có liên quan đến TTCK.
Như vậy, những nhà đầu tư và những người quan tâm khác cần thông tin tài
chính và số liệu kế tốn đầy đủ, chính xác, đúng kỳ để thực hiện các quyết định của
mình. Nếu thông tin trên TTCK không đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch, kịp
thời sẽ dẫn đến những thiệt hại nặng nề cho các nhà đầu tư và nền kinh tế.
Cơng ty cổ phần là một trong những loại hình công ty căn bản tồn tại trên thị
trường và để niêm yết trên TTCK. Công ty cổ phần đại chúng là cơng ty cổ phần có
21


phát hành cổ phiếu rộng rãi ra cơng chúng, ngồi những đối tượng nội bộ. Các công
ty cổ phần đại chúng có đủ điều kiện niêm yết tại SGDCK sẽ trở thành CTNY [6,
tr20-26].
Theo Luật Chứng khốn số 70/2006/QH11, cơng ty cổ phần đại chúng muốn
được niêm yết trên TTCK (SGDCK hoặc Trung tâm Giao dịch Chứng khoán) phải
đáp ứng các điều kiện về vốn, hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính, số cổ
đơng hoặc số người sở hữu chứng khốn [36].
Như vậy, CTNY là loại hình cơng ty cổ phần đại chúng, có quy mơ lớn, có đủ
điều kiện về vốn, được niêm yết chứng khoán trên TTCK tập trung, hoạt động kinh
doanh và khả năng tài chính, số cổ đơng hoặc số người sở hữu chứng khốn và
được niêm yết trên TTCK.
Cơng ty niêm yết có những đặc điểm chính sau:

Một là, CTNY là cơng ty cổ phần đại chúng, có quy mơ lớn: Cơng ty cổ phần
có đặc trưng là sự tách rời giữa người sở hữu vốn (cổ đông) và người quản lý. Sự
tách biệt này cho thấy thông tin KTTC mà CTNY công bố từ phía người quản lý
cần được đảm bảo độ tin cậy cho người sở hữu vốn của công ty. Bên cạnh đó,
CTNY có các cơ cấu cổ đơng khác nhau gồm cổ đông lớn và cổ đông thiểu số. Yêu
cầu về bảo về quyền lợi của cổ đông thiểu số và ảnh hưởng của các cổ đơng lớn địi
hỏi thông tin công bố cần trung thực (đặc biệt là thông tin KTTC).
Hai là, CTNY được quyền phát hành chứng khoán, được niêm yết chứng
khoán trên TTCK tập trung dưới hai dạng là cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng nếu
đáp ứng các yêu cầu phát hành theo luật định. Cơng chúng ở đây chính là các nhà
đầu tư. Các quyết định của nhà đầu tư đối với cổ phiếu của CTNY chủ yếu dựa trên
thơng tin do chính CTNY cung cấp theo quy định và thông tin này được bao gồm
trong Bản cáo bạch, các BCTC thường niên, bán niên,... Để đảm bảo quyền lợi của
nhà đầu tư, thông tin CTNY cung cấp bao gồm thơng tin tài chính và phi tài chính
phải đảm bảo sự trình bày trung thực.
Ba là, cơng khai thơng tin tài chính của CTNY là bắt buộc theo luật về công
khai các thông tin trên BCTC. Hoạt động của CTNY nhận được sự quan tâm bởi
cộng đồng các nhà đầu tư có thể là cá nhân và tổ chức, trong đó có các thơng tin tài

22


chính do CTNY cơng bố và phải được xác nhận độ tin cậy từ một bên thứ ba độc
lập.
Bốn là, số lượng và trình độ người quan tâm đến thơng tin KTTC của CTNY
rất lớn và phức tạp: Do đặc trưng của CTNY là công ty cổ phần đại chúng niêm yết
trên TTCK, CTNY nhận được sự quan tâm của nhiều đối tượng quan tâm như nhà
quản lý, ngân hàng, khách hàng, nhà cung cấp, các chuyên gia, cổ đông, cơng
chúng. Bên cạnh đó, trình độ của người quan tâm cũng khác biệt đối với thông tin
KTTC (mức độ hiểu biết khác nhau từ chuyên sâu đến mức độ hiểu biết hẹp). Do

đó, đặc điểm này địi hỏi thơng tin KTTC mà CTNY cung cấp phải đảm bảo đầy đủ
thông tin, đem lại sự dễ hiểu và có sự so sánh cho người quan tâm.
Năm là, hoạt động của CTNY được quản lý chặt chẽ bởi hệ thống pháp luật
như Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán và các văn bản pháp luật liên quan khác
về công bố thông tin tài chính và số liệu kế tốn của CTNY. CTNY chịu sự giám sát
của các chủ thế tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động của TTCK.
Đặc điểm này địi hịi những u cầu cơng bố thơng tin KTTC theo mẫu biểu quy
định và đảm bảo tính đúng kỳ.
Theo sự phân tích trên có thể nhận thấy các đặc điểm CTNY chi phối đến
yêu cầu về chất lượng thơng tin KTTC của CTNY như: Sự địi hỏi về độ tin cậy
của thơng tin, sự trình bày trung thực, thơng tin phải được xác nhận, thơng tin được
trình bày dễ hiểu, có sự so sánh và đảm bảo tính đúng kỳ.

2.2.2.2. Những u cầu về thơng tin kế tốn tài chính của cơng ty niêm yết
Đối với CTNY, thông tin KTTC được công khai cho các đối tượng quan tâm
trên TTCK. Một doanh nghiệp cổ phần (tổ chức phát hành) muốn thực hiện chào
bán chứng khốn ra cơng chúng phải hoàn tất bộ hồ sơ đăng ký chào bán chứng
khốn ra cơng chúng trong đó có Bản cáo bạch. Trong nội dung bản cáo bạch,
BCTC của CTNY là nội dung bắt buộc. BCTC bao gồm Bảng cân đối kế toán, Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh
BCTC.
Cùng với sự phát triển của thị trường mở, tồn cầu hố nền kinh tế, chất
lượng thông tin KTTC không chỉ dừng ở biên giới quốc gia mà có tính tương tác

23


mang tầm quốc tế (do sự phát triển của các tập đoàn đa quốc gia). Những đặc điểm
của CTNY và yêu cầu của TTCK đưa đến các yêu cầu cơ bản sau đối với thông tin
KTTC của CTNY:

Thứ nhất, thông tin KTTC của CTNY là thông tin cung cấp ra bên ngồi,
thơng tin chính thức và duy nhất của CTNY. Thơng tin KTTC của CTNY được cung
cấp ra bên ngồi thơng qua hệ thống BCTC. Có rất nhiều đối tượng khác nhau sử
dụng BCTC trong đó nhà đầu tư cần thông tin này hơn. Để giám sát, quản lý thị
trường vốn, các tổ chức, cơ quan quản lý chức năng cũng giám sát hoạt động của
CTNY thông qua hệ thống BCTC duy nhất này.
Thứ hai, thông tin KTTC của CTNY phải đảm bảo minh bạch và được công
khai theo yêu cầu của pháp luật. Thông tin KTTC của CTNY được sự quan tâm của
rất nhiều đối tượng, không chỉ là chính ban quản trị doanh nghiệp, các cơ quan quản
lý chức năng (UBCK, Sở giao dịch,...), nhà cung cấp, khách hàng, các nhà cung cấp
tín dụng (ngân hàng, các tổ chức tài chính...), cơng chúng, các nhà đầu tư cá nhân
và nhà đầu tư tổ chức (các quĩ đầu tư, các cơng ty chứng khốn,...). Sự minh bạch
thơng tin giúp nhà đầu tư và những người quan tâm khác có được thơng tin chính
xác, kịp thời cho q trình ra quyết định của chính mình.
Thứ ba, thơng tin KTTC của CTNY bao gồm nhiều chỉ tiêu. Các CTNY
thường có quy mô lớn và hoạt động đa ngành nghề, tham gia vào nhiều lĩnh vực
kinh doanh, bao gồm cả lĩnh vực đầu tư nhiều rủi ro như đầu tư tài chính, vì thế các
chỉ tiêu trên BCTC thường phản ánh các nghiệp vụ phức tạp, đặc biệt là đối với các
BCTC hợp nhất của các cơng ty mẹ có nhiều hệ thống các cơng ty con. Ngồi
những chỉ tiêu về số liệu kế tốn thuần t, những chỉ tiêu tài chính của CTNY
được rất nhiều bên quan tâm nhằm đưa ra quyết định đúng đắn khi đánh giá về
chiến lược, hướng đầu tư, các thông tin bổ sung khác.
Thứ tư, thông tin KTTC của CTNY (thông qua BCTC) phải tuân thủ các quy
định của SGDCK nơi niêm yết, bị kiểm soát, xử lý khi có hành vi vi phạm cơng bố
thơng tin, như: BCTC phải được công bố từng quý, sáu tháng, một năm và tuân thủ
thời gian công bố thông tin nghiêm ngặt hơn so với các doanh nghiệp thông thường;
BCTC phải được kiểm toán hàng năm và soát xét bán niên bởi một tổ chức kiểm

24



toán đủ điều kiện kiểm toán CTNY (được chấp thuận kiểm tốn bởi UBCKNN)
trước khi cơng bố cơng khai; việc lập BCTC của CTNY phải tuân thủ chuẩn mực
chung, chuẩn mực kế tốn quốc gia.
Thứ năm, thơng tin KTTC của CTNY phải công bố kịp thời. Do ảnh hưởng
các bên liên quan và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, việc cơng bố thơng tin trong đó có
thơng tin KTTC phải đảm bảo kịp thời. Công bố thông tin theo quy định gồm công
bố thông tin định kỳ và công bố thơng tin bất thường. Trong q trình cơng bố
thơng tin sai, các CTNY phải thông báo sự việc sai và sửa sai cho các nhà đầu tư.
Thứ sáu, thông tin KTTC cung cấp đảm bảo định giá giá trị công ty. Các
CTNY cung cấp các cổ phiếu giao dịch nơi cơng ty niêm yết chứng khốn. Hàng
ngày các giao dịch mua bán cổ phiếu được thực hiện, thu hút vốn của các nhà đầu
tư. Các nhà đầu tư trước khi quyết định mua cổ phiếu thông qua các kỹ thuật phân
tích và những tư vấn của chun gia. Thơng tin KTTC của CTNY được sử dụng
trong quá trình phân tích cơ bản và là yếu tố quan trọng xác định giá trị các cổ phiếu
giao dịch trên thị trường cũng như làm cơ sở để xác định giá trị thuần của CTNY.
Với những yêu cầu trên có thể thấy địi hỏi về chất lượng thơng tin KTTC
của CTNY trên TTCK rất cao.Việc đáp ứng những yêu cầu thông tin KTTC của
CTNY sẽ đảm bảo chất lượng thông tin, giúp thúc đẩy TTCK hoạt động có hiệu
quả, giảm thiểu rủi ro cho hoạt động của thị trường, của các nhà đầu tư và nền kinh
tế quốc dân.

2.2.3. Vai trò của chất lượng thơng tin kế tốn tài chính của cơng ty niêm
yết trên thị trường chứng khốn
Thơng tin KTTC (gồm thơng tin tài chính và số liệu kế tốn) thơng qua hệ
thống BCTC là cơ sở để các nhà đầu tư đưa ra quyết định, thực hiện mua hay bán cổ
phiếu trên thị trường. IFRS (2013) trong Chương 1 - Mục tiêu chung của BCTC đã
đề cập đến mục đích của BCTC khơng phải trình bày giá trị của cơng ty mà nhằm
cung cấp thông tin về sự tồn tại công ty, cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, các
tổ chức tín dụng, nhà cung cấp xác định giá trị của công ty [82, tr43-52]. Những

người sử dụng thông tin KTTC cần nội dung thông tin khác nhau từ BCTC, IASB

25


×