Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Chuyển dịch lao động khi việt nam gia nhập AEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.18 KB, 35 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
1


Hiện nay, khi AEC được thành lập sẽ là một bước ngoặt đánh dấu sự hội nhập khu
vực một cách toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á, hướng tới mô hình cộng đồng
kinh tế – an ninh – xã hội. Kinh tế khu vực dự kiến sẽ được nâng cao tính cạnh tranh,
giúp ASEAN trở thành một thị trường rộng lớn với hơn 600 triệu dân và tổng GDP hàng
năm vào khoảng 2.000 tỷ USD.
AEC được định hướng sẽ trở thành một khu vực kinh tế ổn định và là thị trường
thống nhất của 10 nước ASEAN (trong đó có Việt Nam), thúc đẩy sự lưu thông tự do của
hàng hóa, vốn, dịch vụ, đầu tư, lao động có tay nghề trong các nước với mục tiêu thúc
đẩy phát triển kinh tế một cách công bằng; các rào cản pháp lý về ngăn cản thương mại,
thu hút đầu tư của một nước ASEAN này trên một nước ASEAN khác được dỡ bỏ, mang
lại cơ hội lớn cho các nước ASEAN thông qua một thị trường rộng lớn và bình đẳng.
Cơ hội mở ra cho thấy, khi AEC đi vào hoạt động sẽ tạo ra một thị trường đơn
nhất, khai thác được tối đa các ưu đãi thương mại tự do (FTA) mang lại, thuế suất lưu
thông hàng hóa giữa các nước trong khu vực sẽ được cắt giảm dần về 0%. Theo Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO), khi tham gia vào AEC, kinh tế của Việt Nam sẽ có cơ hội tăng
trưởng thêm 14,5%, người tiêu dùng có cơ hội được dùng các loại hàng hóa tốt hơn, rẻ
hơn, dòng vốn ngoại đầu tư vào Việt Nam hứa hẹn sẽ nhiều hơn. Các doanh nghiệp (DN)
Việt Nam sẽ có thị trường rộng hơn, có thể bán hàng sang các nước ASEAN gần như bán
hàng trong nước.
Gia nhập AEC sẽ giúp vấn đề việc làm của Việt Nam được cải thiện, các lĩnh vực
được hợp tác khi hình thành AEC sẽ bao trùm lên nhiều lĩnh vực, từ phát triển nguồn
nhân lực đến trao đổi chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành trong nền kinh tế Việt
Nam. Vì vậy nhóm chọn đề tài: “Chuyển dịch lao động của Việt Nam khi gia nhập AEC
”.


2


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ LÍ THUYẾT VỀ CHUYỂN DỊCH LAO ĐỘNG
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm về lực lượng lao động

Lực lượng lao động bao gồm tất cả những người đang ở trong độ tuổi lao động
(thường là lớn hơn một độ tuổi nhất định (trong khoảng từ 14 đến 16 tuổi) và chưa
đến tuổi nghỉ hưu (thường trong khoảng 65 tuổi) đang tham gia lao động.
Lực lượng lao động là một bộ phận của nguồn lao động bao gồm những người
trong độ tuổi lao động, đang có việc làm và những người chưa có việc làm nhưng có
nhu cầu làm việc.
1.1.2 Khái niệm về dịch chuyển lao động
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự vận động chuyển hóa từ trạng thái cơ cấu
lao động này (cơ cấu lao động cũ) sang trạng thái kia (cơ cấu lao động mới) phù hợp
với quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là một quá trình nhằm thay đổi cơ cấu trúc và mối
liên hệ lao động theo một mục tiêu nhất định. Nói cách khác chuyển dịch cơ cấu là
một quá trình phân bố, bố trí lực lượng lao động theo những quy luật những xu
hướng tiến bộ nhằm mục đích sử dụng đầy đủ và có hiệu quả nguồn lực lao động để
thực hiện các mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.2 Nội dung của chuyển dịch lao động
1.2.1 Chuyển dịch theo cơ cấu ngành kinh tế


Chuy

Khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
ển dịch


cơ c

ấu lao động

theo

ổi tỷ trọng và chất

ngành là quá trình thay đ

lượng lao động vào các ngành khác nhau, diễn ra trong một khoảng không gian, thời
à theo một xu hướng nhất địn

gian v

h.

à quá trình phân bố lại lao động trong nền kinh tế
Thực chất, chuyển dịch CCLĐ l
ớng tiến bộ, nhằm mục đích sử dụng lao động có hiệu quả. Quá trình đó vừa diễn
theo hư
3


ra trên quy mô toàn b

ộ nền kinh tế vừa diễn ra trong phạm vi của từng nhóm ngành, nội

bộ mỗi ngành. CCLĐ theo ngành thay đổi khi có sự thay đổi về số lượng và chất lượng lao

ộng trong nội bộ ngành đó.

đ



Th
hay t

N

ội dung chuyển dịch

ứ nhất,

chuy

ển dịch

ỷ trọng trong các ngành

cơ c

cơ c

ấu lao động

ấu lao động

theo ngành


theo ngành và n

ội bộ ngành xét về quy



ự thay đổi quy mô, tỷ ọng lao
. Theo đó, quá trình này là s
tr

động trong các ngành kinh tế để đảm bảo cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu lao
động trong
với

từng thời kỳ phát triển, xoá bỏ khoảng cách giữa

cơ cấu kinh tế

chuyển dịch
động

cơ cấu lao động

còn lạc hậu

đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình

cơ cấu lao động


theo ngành hiện nay là quá trình chuyển dịch

cơ cấu lao

từ ngành nông, lâm, thủy sản sang ngành công nghiệp – xây dựng và thương mại -

dịch vụ.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và nội bộ ngành xét về chất


ợng

(i)

. Theo đó, quá trình này
Chuy

đòi hỏi xem xét trên các mặt:

ển dịch cơ cấu lao động

theo ngành có làm cho trình

độ



chuyên môn k

thuật ủa người lao động tăng

c
lên hay không;

(ii)

ển dịch cơ cấu lao động theo ngành có đưa đến một cơ cấu lao động theo
Chuy

ngành

ợp với cơ cấu ngành

ngày càng phù h

ế
kinh t ;
4


(iii) Chuy

ển dịch cơ cấu lao động theo ngành có

ngành ngày một tăng lên

(iv) Chuy

mang đ

ến năng suất lao động các


;

ển dịch cơ cấu lao động theo ngành có

ại thu nhập cao hơn cho người
đem l

lao động.
1.2.2

Chuyển dịch lao động theo khu vực

Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, lao động di cư
là một phần không thể tách rời giữa các nền kinh tế. Thực tế cho thấy, lao động di cư đã
có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của các nước nhập khẩu và các
nước xuất khẩu lao động.
Có hai loại lao động di cư cơ bản: di cư từ vùng này đến vùng khác trong phạm vi
biên giới của một quốc gia và di cư từ quốc gia này đến quốc gia khác.
Di cư lao động trong vùng được hiểu là những người lao động di chuyển từ vùng
này sang vùng khác làm việc, chuyển từ vùng có kinh tế kém phát triển sang những vùng
có kinh tế phát triển hơn, sang những vùng có cơ hội việc làm hơn.
Di chuyển lao động ra nước ngoài làm việc được hiểu đó là việc những người lao
động ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng lao động, cung ứng dịch vụ hoặc hiện diện
nhân thể và không nhằm mục tiêu định định cư. Với nội hàm đó, việc di chuyển lao động
ra nước ngoài làm việc tác động hai chiều đến sự phát triển của kinh tế. Di chuyển lao
động ra nước ngoài tạo điều kiện để nước nhà toàn dụng nguồn nhân lực làm tăng thu
nhập quốc gia (GNI). Di chuyển lao động ra nước ngoài sẽ mở ra cơ hội sử dụng số lao
động thất nghiệp vào việc sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ tại nước khác, mang lại thu
nhập cho người lao động.

1.3

Lý thuyết về chuyển dịch kinh tế.
1.3.1 Cơ cấu kinh tế

5


Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ
chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một không gian và thời gian nhất định,
trong những điều kiện xã hội cụ thể, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả
về số lượng lẫn chất lượng, phù hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế gồm 3 phương diện hợp thành. Đó là:




Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu thành phần kinh tế
Cơ cấu vùng lãnh thổ
 Cơ cấu ngành kinh tế:
Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu

hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành kinh tế phản
ánh phần nào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội của
một quốc gia. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát
triển. Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia người ta thường phân tích theo 3
nhóm ngành (khu vực) chính:





Nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông, lâm ngư nghiệp.
Nhóm ngành công nghiệp: bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng.
Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm thương mại, bưu điện, du lịch, giao thông vận tải...
 Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ
Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ là việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý, và

cũng là biểu hiện của phân công lao động xã hội.
Xu hướng phát triển kinh tế lãnh thổ thường là phát triển nhiều mặt, tổng hợp, có
ưu tiên một vài ngành và gắn liền với hình thành sự phân bổ dân cư phù hợp với các điều
kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ đó. Việc chuyển dịch cơ cấu theo lãnh thổ
phải bảo đảm sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành kinh tế, các thành
phần kinh tế theo lãnh thổ và trên phạm vi cả nước, phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh
tế xã hôik, phong tục tập quán, truyền thống của mỗi vùng, nhằm khai thác triệt để thế
mạnh của vùng đó.
6


 Cơ cấu thành phần kinh tế.

Nếu như phân công lao động xã hội là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu
lãnh thổ, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành nên cơ cấu thành phần kinh tế. Cơ cấu
thành phần kinh tế biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế với các chế độ tổ chức khác nhau.
Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với
chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân
công lao động xã hội...Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ
cấu ngành kinh tế trong quá trình phát triển.
Ba loại hình cơ cấu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cơ cấu
ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể

được dịch chuyển đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả nước.
1.3.2

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia, cơ cấu kinh tế luôn luôn thay
đổi. Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với
môi trường phát triển theo từng thời kỳ phát triển gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình tất yếu gắn liền với sự phát triển kinh
tế của một quốc gia, đặc biệt là quá trình phát triển trong quá trình hội nhập. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra như thế nào phụ thuộc vào các yếu tố như quy mô
kinh tế, mức độ mở cửa của nền kinh tế với bên ngoài, dân số của quốc gia, các lợi thế về
tự nhiên, nhân lực, điều kiện kinh tế, văn hoá...Nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó là quá trình chuyên môn hoá trong phạm vi quốc gia và mở
rộng chuyên môn hoá quốc tế và thay đổi công nghệ tiến bộ kỹ thuật. Chuyên môn hoá
mở đường cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại, áp dụng công nghệ tiên tiến, hoàn thiện tổ
chức, nâng cao năng suất lao động xã hội. Chuyên môn hóa cũng tạo ra những hoạt động
dịch vụ và chế biến mới. Tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ lại thúc đẩy quá trình
chuyên môn hóa. Điều đó làm cho tỷ trọng các ngành truyền thống giảm đi, tỷ trọng các
ngành dịch vụ kỹ thuật mới tăng trưởng nhanh chóng và dần chiếm ưu thế. Phân công lao
7


động và sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ ngày càng phát triển sâu sắc tạo ra những tiền đề
cho việc phát triển thị trường các yếu tố sản xuất. Và ngược lại, việc phát triển thị trường
các yếu tố sản xuất lại thúc đẩy quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế và do vậy làm
sâu sắc thêm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội
dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng
cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu

mới hiện đại và phù hợp với mục tiêu kinh tế- xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát
triển.
Thực chất của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự phát triển không đều giữa các
ngành. Ngành có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thì sẽ
tăng tỷ trọng và ngược lại, ngành có tốc độ thấp hơn sẽ giảm tỷ trọng. Nếu tất cả các
ngành có cùng một tốc độ tăng trưởng thì tỷ trọng các ngành sẽ không đổi, nghĩa là
không có chuyển dịch cơ cấu ngành.
CHƯƠNG 2. KHÁI QUÁT VỀ AEC VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆT NAM KHI GIA
NHẬP AEC
2.1. Khái quát về AEC
2.1.1. Giới thiệu chung về AEC
Cộng đồng kinh tế ASEAN (Asean Economic Community, viết tắt: AEC) là một
khối kinh tế khu vực của 10 quốc gia thành viên ASEAN chính thức được thành lập vào
ngày 31 tháng 12 năm 2015, khi bản tuyên bố thành lập chính thức có hiệu lực. AEC là
một trong ba trụ cột quan trọng của Cộng đồng ASEAN nhằm thực hiện các mục tiêu đề
ra trong Tầm nhìn ASEAN 2020. Hai trụ cột còn lại là: Cộng đồng An ninh ASEAN và
Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN.
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) là sự hội nhập của các quốc gia thành viên
ASEAN thành một khối sản xuất, thương mại và đầu tư, tạo ra thị trường chung của một
khu vực có dân số 600 triệu người, tổng sản lượng (GDP) hằng năm khoảng 2.000 tỷ
8


USD và là nền kinh tế đứng thứ bảy thế giới.
Trong tinh thần này, AEC sẽ thực hiện tự do luân chuyển năm yếu tố căn bản: vốn
liếng, hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và lao động lành nghề. Khi AEC ra đời, thuế nhập khẩu
sản phẩm và dịch vụ từ các nước thành viên sẽ giảm về 0%, tất cả các lĩnh vực kinh tế sẽ
được mở cửa tiếp nhận đầu tư và doanh nghiệp một nước thành viên làm ăn ở các nước
AEC khác sẽ được đối xử bình đẳng với doanh nghiệp sở tại.



Lịch sử hình thành AEC:
Tại Tuyên bố Tầm nhìn ASEAN 2020 thông qua tháng 12/1997, các nhà lãnh đạo

ASEAN đã định hướng phát triển ASEAN thành một Cộng đồng ASEAN.
Ý tưởng đó được tái khẳng định tại Hội nghị cấp cao ASEAN 9 tháng 10/2003, thể
hiện trong Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II). Theo đó,
ASEAN nhất trí hướng đến mục tiêu hình thành một cộng đồng ASEAN vào năm 2020
với 3 trụ cột chính là hợp tác chính trị - an ninh (Cộng đồng an ninh ASEAN – ASC), hợp
tác kinh tế (Cộng đồng Kinh tế ASEAN – AEC) và hợp tác văn hoá xã hội (Cộng đồng
Văn hoá Xã hội ASEAN – ASCC).
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 tháng 1/2007 các nước ASEAN đã quyết
định rút ngắn thời hạn hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN từ 2020 xuống 2015.


Bốn mục tiêu của AEC:
Bốn mục tiêu và cũng là bốn yếu tố cấu thành AEC bao gồm:
- Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung: được xây dựng thông qua: Tự

do lưu chuyển hàng hóa; Tự do lưu chuyển dịch vụ; Tự do lưu chuyển đầu tư; Tự do lưu
chuyển vốn và Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề.
- Một khu vực kinh tế cạnh tranh: được xây dựng thông qua các khuôn khổ chính
sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng,
thuế quan và thương mại điện tử.
- Phát triển kinh tế cân bằng: được thực hiện thông qua các kế hoạch phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thực hiện sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng
cách phát triển trong ASEAN.
- Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu: được thực hiện thông qua việc tham vấn chặt
9



chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu
(WTO).


Các biện pháp thực hiện
Các biện pháp chính mà ASEAN sẽ cần thực hiện để xây dựng một thị trường

ASEAN thống nhất bao gồm: hài hòa hóa các tiêu chuẩn sản phẩm (hợp chuẩn) và qui
chế, giải quyết nhanh chóng hơn các thủ tục hải quan và thương mại, và hoàn chỉnh các
quy tắc về xuất xứ.
Các biện pháp để xây dựng một cơ sở sản xuất ASEAN thống nhất sẽ bao gồm:
củng cố mạng lưới sản xuất khu vực thông qua nâng cấp cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong
các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, công nghệ thông tin và viễn thông, và phát
triển các kỹ năng thích hợp.
Các biện pháp nói trên đều đã và đang được các nước thành viên ASEAN triển
khai trong khuôn khổ các thỏa thuận và hiệp định của ASEAN. Như vậy, AEC chính là sự
đẩy mạnh những cơ chế liên kết hiện có của ASEAN, như Hiệp định Khu vực Mậu dịch
Tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS), Khu vực Đầu tư
ASEAN (AIA), Hiệp định Khung về Hợp tác Công nghiệp ASEAN (AICO), Lộ trình Hội
nhập Tài chính và Tiền tệ ASEAN, v.v…, để xây dựng ASEAN thành "một thị trường và
cơ sở sản xuất thống nhất". Nói cách khác, AEC là mô hình liên kết kinh tế khu vực dựa
trên và nâng cao những cơ chế liên kết kinh tế hiện có của ASEAN có bổ sung thêm hai
nội dung mới là tự do di chuyển lao động và di chuyển vốn tự do hơn.


Quá trình thực hiện
Để bước đầu hiện thực hóa AEC, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9 (2003) đồng

ý: ASEAN sẽ thực hiện các khuyến nghị về liên kết kinh tế của Nhóm Đặc Trách Cao cấp

(HLTF) về Liên kết Kinh tế của Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM).
Cụ thể là:
- Đẩy mạnh việc thực hiện những sáng kiến kinh tế hiện có, bao gồm Khu vực
Mậu dịch Tự do ASEAN, Hiệp định Khung ASEAN về Dịch vụ, và Khu vực Đầu tư
ASEAN;
- Thúc đẩy hội nhập khu vực trong các ngành ưu tiên;
10


- Tạo thuận lợi cho việc đi lại của doanh nhân, lao động lành nghề và nhân tài, và
tăng cường các thể chế của ASEAN và thu hẹp khoảng cách phát triển.


Bản chất AEC
Mặc dù được gọi với cái tên “Cộng đồng kinh tế”, AEC thực chất chưa thể được

coi là một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng Kinh tế châu Âu bởi AEC không có
cơ cấu tổ chức chặt chẽ và những cam kết ràng buộc với lộ trình thực hiện cụ thể.
AEC thực chất là đích hướng tới của các nước ASEAN thông qua việc hiện thực
hóa dần dần 04 mục tiêu kể trên (trong đó chỉ mục tiêu 01 là được thực hiện tương đối
toàn diện và đầy đủ thông qua các hiệp định và thỏa thuận ràng buộc, các mục tiêu còn
lại mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng lộ trình và thực hiện một số sáng kiến khu vực).
AEC là một tiến trình hội nhập kinh tế khu vực chứ không phải là một Thỏa thuận
hay Hiệp định với các cam kết ràng buộc thực chất. Tham gia vào các mục tiêu của AEC
là hàng loạt các Hiệp định, Thỏa thuận, Tuyên bố… giữa các nước ASEAN có liên quan
tới các mục tiêu này. Những văn bản này có thể bao gồm những cam kết có tính ràng
buộc thực thi, cũng có những văn bản mang tính tuyên bố, mục tiêu hướng tới không bắt
buộc của các nước ASEAN.
Việc hiện thực hóa AEC đã được triển khai trong cả quá trình dài trước đây
(thông qua việc thực hiện các cam kết tại các Hiệp định cụ thể về thương mại đã ký kết

giữa các nước ASEAN) và sẽ được tiếp tục thực hiện trong thời gian tới (tiếp tục thực
hiện theo lộ trình các Hiệp định, Thỏa thuận đã có và các vấn đề mới, nếu có).
2.1.2. Các hiệp định chính trong AEC.


Hiệp định Thương mại Hàng hoá ASEAN (ATIGA)
Hiệp định ATIGA 2010 có tiền thân là Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực

chung (CEPT/AFTA) được thực hiện từ năm 1992.
ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại
hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết cắt giảm/loại
bỏ thuế quan đã được thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các hiệp định, nghị định thư có
liên quan.
Nguyên tắc xây dựng cam kết trong ATIGA là các nước ASEAN phải dành cho
11


nhau mức ưu đãi tương đương hoặc thuận lợi hơn mức ưu đãi dành cho các nước đối tác
trong các Thỏa thuận thương mại tự do (FTA) mà ASEAN là một bên của thỏa thuận.
Ngoài mục tiêu xóa bỏ hàng rào thuế quan, ATIGA hướng nỗ lực chung của
ASEAN để xử lý tối đa các hàng rào phi thuế quan, hợp tác hải quan và vệ sinh, kiểm
dịch... đồng thời xác lập mục tiêu hài hòa chính sách giữa các thành viên ASEAN trong
bối cảnh xây dựng AEC.
Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 nhưng đến năm 1999 mới bắt đầu thực
thi CEPT và sau này là ATIGA.
Theo ATIGA, đến năm 2010 các nước ASEAN-6 phải xóa bỏ thuế nhập khẩu đối
với 100% dòng thuế thuộc Danh mục thông thường; chỉ giữ lại một số dòng thuế thuộc
Danh mục loại trừ chung gồm những sản phẩm được miễn trừ vĩnh viễn vì lý do an ninh
quốc gia, đạo đức và sức khỏe). Các nước nhóm CLMV (gồm Campuchia, Lào,
Myanmar và Việt Nam) có lộ trình dài hơn xóa bỏ thuế cho hàng hóa từ các nước

ASEAN muộn hơn, đến năm 2015 mới phải xóa bỏ toàn bộ thuế nhập khẩu trong Danh
mục thông thường nhưng được linh hoạt giữ lại thuế suất đối với 7% số dòng thuế đến
năm 2018.


Hiệp định Khung về Dịch vụ ASEAN (AFAS)
Hiệp định Khung về Dịch vụ của ASEAN (AFAS) được ký năm 1995 và Nghị

định thư sửa đổi AFAS ký năm 2003 nhằm điều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ giữa
các nước ASEAN. Nội dung của AFAS tương tự Hiệp định Chung về Thương mại Dịch
vụ của WTO.
Trên cơ sở AFAS, các nước ASEAN đến nay đã hoàn thành 8 Gói cam kết về dịch
vụ (cam kết cho 80 phân ngành), và đang đàm phán Gói thứ 9 (cam kết cho 104 phân
ngành) và sau đó sẽ đàm phán Gói cuối cùng (cam kết cho 124 phân ngành) nhằm hướng
tới mục tiêu tự do hóa dịch vụ đến năm 2015.
Trong các Gói cam kết trên, các Gói cam kết 1-7 của Việt Nam có mức độ mở cửa
dịch vụ chỉ thấp hơn hoặc bằng so với mức độ mở cửa dịch vụ của Việt Nam trong WTO.
Nhưng bắt đầu từ Gói thứ 8 trở đi, một số cam kết của Việt Nam trong một số phân ngành
đã bắt đầu cao hơn mức độ mở cửa trong WTO và bổ sung thêm cam kết cho một số phân
12


ngành mới. Hiệu lực của các Gói cam kết này phụ thuộc vào thông báo hoàn thành thủ
tục phê chuẩn nội bộ của các nước thành viên ASEAN. Tuy nhiên, hiện không có thông
tin chính xác về số lượng các nước ASEAN đã hoàn thành thủ tục phê chuẩn nội địa cho
từng Gói cam kết cũng như tình trạng hiệu lực của các Gói cam kết này.
Hiện tại các nước ASEAN đang đàm phán Hiệp định Thương mại dịch vụ ASEAN
(ATISA) nhằm nâng cấp Hiệp định AFAS và tổng hợp các cam kết dịch vụ trong các FTA
ASEAN với các đối tác bên ngoài ASEAN.



Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA)
Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) được ký kết tháng 2/2009 và có hiệu

lực từ 29/3/2012 thay thế cho Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư ASEAN (IGA)
1987 và Hiệp định Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) 1998).
ACIA bao gồm 4 nội dung chính: Tự do hóa đầu tư, Bảo hộ đầu tư, Thuận lợi hóa
đầu tư và Xúc tiến đầu tư. Phạm vi điều chỉnh của ACIA bao gồm cả đầu tư trực tiếp và
gián tiếp. Phạm vi tự do hóa bao gồm các ngành phi dịch vụ (các ngành dịch vụ thuộc
phạm vi điều chỉnh của AFAS về dịch vụ như giới thiệu ở trên): sản xuất, nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp, khai khoáng và các dịch vụ liên quan đến các ngành trên.
Một số đặc điểm nổi bật của ACIA:
- ACIA mở rộng về phạm vi định nghĩa nhà đầu tư (ví dụ doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài khối tại một nước ASEAN khi đầu tư sang một nước ASEAN khác được coi
là nhà đầu tư ASEAN).
- ACIA quy định về các biện pháp/yêu cầu đối với đầu tư bị cấm mà các nước
thành viên không được phép sử dụng (ví dụ yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa, cân bằng cán cân
thanh toán)
- ACIA quy định cơ chế giải quyết tranh chấp trực tiếp giữa Nhà nước và nhà đầu
tư. ACIA bao gồm: 49 Điều; 02 phụ lục: 01 Danh mục bảo lưu: Danh mục này của Việt
Nam bao gồm các trường hợp loại lệ không áp dung nghĩa vụ đối xử quốc gia và nghĩa
vụ đối với quản lý cấp cao và ban giám đốc.
2.2 Đặc điểm của Việt Nam khi tiến tới AEC
2.2.1 Vị trí trên khu vực và trên thế giới
13


Việt Nam là quốc gia thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương - một khu vực
phát triển năng động nhất và cũng là khu vực rất quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá,
an ninh... trên thế giới. Việt Nam nằm giữa hai châu lục lớn nhất là châu Á và châu Mỹ

với những cường quốc lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga... Vì thế, vai trò của Việt Nam phụ
thuộc rất lớn vào việc bảo đảm chính sách đối ngoại đa phương, tận dụng được các nguồn
lực bên ngoài trên cơ sở phát huy có hiệu quả các nguồn lực nội sinh.
Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong vành đai châu Á - Thái Bình Dương. Với vị
trí chiến lược - nằm giữa Đông Bắc Á và Đông Nam Á - có đường lãnh hải dài và chung
đường biên giới trên bộ với Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia, Việt Nam chiếm vị trí
trung tâm của các hoạt động kinh tế diễn ra khắp châu Á - Thái Bình Dương. Vì thế, Việt
Nam sẽ được hưởng lợi từ sự phát triển của các nước lớn trong khu vực cũng như đóng
vai trò cầu nối hữu ích giữa các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
Việt Nam đã và đang nỗ lực cùng các nước đóng góp vào sự nghiệp phát triển
chung của khu vực. Đặc biệt, kể từ khi gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều Hội nghị quốc tế lớn, trong
đó, đáng lưu ý là Hội nghị cấp cao ASEAN 1996, Hội nghị cấp cao Cộng đồng Pháp ngữ
1997, Chủ tịch ASEAN năm 1998, Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác châu Á - Thái
Bình Dương (APEC-16) năm 2006, Hội nghị cấp cao Diễn đàn Á - Âu (ASEM) năm
2007 và đặc biệt là gánh vác vai trò Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo An Liên
hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 bao gồm cả trọng trách 2 lần Chủ tịch luân phiên của Hội
đồng và Chủ tịch Hội nghị Giải trừ quân bị của Liên hợp quốc khoá 2009… Việt Nam đã
có nhiều sáng kiến, đóng góp cho các vấn đề quan trọng giúp các quốc gia Đông Nam Á
triển khai thành công nhiều lĩnh vực hợp tác bản lề.Trong vai trò Chủ tịch ASEAN năm
2010, Việt Nam đã thực hiện tốt vai trò của mình khi tham gia các diễn đàn quốc tế quan
trọng như Hội nghị Bộ trưởng ngọai giao ASEAN – EU, Hội nghị ASEAN - Hội đồng
hợp tác vùng Vịnh, Diễn đàn kinh tế thế giới Đông Á. Việt Nam không chỉ đảm nhiệm tốt
vai trò Chủ tịch ASEAN trên các diễn đàn đối thoại toàn cầu mà còn đóng góp rất nhiều
vào sự thành công trong việc tổ chức các hội nghị cấp cao của ASEAN, các hội nghị
chuyên ngành và nhiều hoạt động cộng đồng có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao
14


tầm ảnh hưởng và uy tín của Việt Nam nói riêng và các nước ASEAN nói chung trong

khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.
Cộng đồng ASEAN được xây dựng trên ba trụ cột chính: Cộng đồng văn hóa - xã
hội, Cộng đồng chính trị - an ninh và Cộng đồng kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu đề ra
trong Tầm nhìn ASEAN 2020. Một trong ba trụ cột của cộng đồng ASEAN: Cộng đồng
văn hóa - xã hội là sáng kiến của Việt Nam. Cộng đồng kinh tế ASEAN (tiếng Anh:
ASEAN Economic Community, viết tắt: AEC) là một khối kinh tế khu vực của 10 quốc
gia thành viên ASEAN chính thức được thành lập vào ngày 31 tháng 12 năm 2015, khi
bản tuyên bố thành lập chính thức có hiệu lực.
Việt Nam chính thức gia nhập Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương (APEC) tháng 11 năm 1998. Mặc dù không phải là thành viên
sáng lập ra APEC và trình độ phát triển còn thấp so với nhiều nền kinh tế APEC khác,
nhưng Việt Nam đã chủ động tham gia, đóng góp tích cực cho nhiều hoạt động hợp tác
của APEC với tinh thần trách nhiệm cao, chủ động tham gia các chương trình hợp tác
kinh tế, thương mại, đầu tư và quá trình tự do hóa thương mại của APEC. Việt Nam đã
tham gia mạnh mẽ vào một số kế hoạch hành động tập thể, đưa ra nhiều sáng kiến và đề
xuất nhiều dự án được chấp thuận. Việc tổ chức thành công rực rỡ Hội nghị cấp cao
APEC-16 năm 2006 là bằng chứng cho thấy những đóng góp to lớn của Việt Nam đối với
khu vực châu Á – Thái Bình Dương, khẳng định năng lực và nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Việc Việt Nam tổ chức chu đáo trên 100 sự kiện lớn, nhỏ, trong
đó có Hội nghị thượng đỉnh và nhiều hội nghị cấp bộ trưởng, đã thể hiện sự lớn mạnh cả
về thế và lực của đất nước, giành được sự tin tưởng và tôn trọng của bạn bè quốc tế. Việt
Nam ủng hộ mạnh mẽ tuyên bố cấp cao tại Hội nghị APEC Peru 2008, thúc đẩy sự phát
triển của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó đặc biệt là việc đẩy mạnh liên kết
kinh tế khu vực, tiến hành cải tổ cơ cấu, cải thiện an ninh lương thực và xử lý hài hòa
những vấn đề xã hội trong quá trình toàn cầu hóa.
Không chỉ có vai trò quan trọng về chính trị, Việt Nam nằm trong top 2 nước
(cùng với Trung Quốc) dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng kinh tế trong khu vực châu Á –
Thái Bình Dương. Tăng trưởng kinh tế trung bình của Việt Nam đạt khoảng 7% - 8% liên
15



tục trong 25 năm qua. Trao đổi thương mại với thế giới tăng bình quân 15 - 20%. Việt
Nam đã giải quyết thành công vấn đề an ninh lương thực, vươn lên xếp thứ 2 thế giới về
xuất khẩu gạo. ASEAN ngày nay là một khu vực hòa bình, nền kinh tế gắn kết và thống
nhất với tổng GDP 2.600 tỷ USD (tăng 80% trong 7 năm qua), không chỉ hội nhập sâu
rộng vào cấu trúc an ninh và kinh tế toàn cầu, mà còn là một khu vực năng động với
nhiều cơ hội và triển vọng phát triển to lớn.Tăng trưởng tại khu vực Hiệp hội các Quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) được dự báo đạt mức trung bình 4,6% trong năm 2015 và
5,2% trong thời kỳ 2016-20, quốc gia tăng trưởng đứng đầu là Philippines và Việt Nam
trong các quốc gia ASEAN-5 và CLM (Campuchia, CHDCND Lào và Myanmar). Năm
2010, Việt Nam là 1 trong 2 quốc gia Đông Nam Á (cùng với Phi-líp-pin) đạt tốc độ tăng
trưởng trung bình cao nhất, khoảng 7%. Thành tựu này có phần đóng góp quan trọng của
nỗ lực hội nhập quốc tế ở mọi tầng nấc của Việt Nam. Thành công về kinh tế và sự ổn
định về chính trị đã biến Việt Nam thành điểm đến của nhiều công ty đa quốc gia, các
định chế tài chính như Ngân hàng Thế giới (WB) và cả các công ty du lịch. Việt Nam vẫn
là một trong những điểm đến hàng đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương về phát
triển kinh doanh đối với các công ty nước ngoài. 83% các công ty đa quốc gia tuyên bố sẽ
tăng hoặc duy trì tỉ lệ đầu tư của họ vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Việt Nam là một thực thể quan trọng có vai trò ngày càng tăng trong cộng đồng
ASEAN. Các nỗ lực của Việt Nam đã góp phần biến ASEAN thành một nhân tố quan
trọng đối với hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và thế giới. Gia nhập vào
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam đã giúp làm xích lại gần nhau giữa 2
nhóm nước ASEAN 6 (ASEAN cũ) và ASEAN mới (Lào, Cam-pu-chia và Mi-an-ma),
đóng góp vào sự trưởng thành của ASEAN, từ đó, tạo nên những bước tiến của liên kết
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Năm 2003, ASEAN nhất trí xây dựng Cộng đồng
Kinh tế ASEAN và cũng là lúc ý tưởng xây dựng Khu vực mậu dịch tự do châu Á - Thái
Bình Dương được nhen nhóm. ASEAN giữ vai trò chủ đạo trong một số khuôn khổ hợp
tác khu vực, nhất là Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) - đây là cơ chế khu vực duy nhất
để đối thoại và hợp tác về các vấn đề chính trị - an ninh ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Thập kỷ qua, ASEAN đã thiết lập một mạng lưới các Khu vực mậu dịch tự do

16


với hầu hết các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương như với Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân. Hợp tác giữa ASEAN với các đối
tác lớn khác như Mỹ, Nga, châu Âu…đang đi vào chiều sâu. Việt Nam đã quyết định
tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)
với tư cách thành viên chính thức, và đã kí kết thành công Hiệp định ngày 4/2/2016.
Bối cảnh quốc tế sẽ có nhiều thời cơ đan xen với thách thức. Châu Á - Thái Bình
Dương sẽ vẫn là khu vực phát triển năng động, trong đó, Trung Quốc có vai trò ngày
càng lớn. Bên cạnh đó Mỹ cũng có điều chỉnh quan tâm nhiều đến khu vực. Là thành
viên trong ASEAN, một mặt Việt Nam cần tiếp tục đổi mới và tái cấu trúc nền kinh tế và
hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu, mặt khác với vị trí địa lí của Việt Nam nói
riêng và ASEAN nói chung ở trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương cần tận dụng tạo
nên một tam giác năng động giữa Trung Quốc, Mỹ và ASEAN.
2.2.2 Những điều kiện thuận lợi của VN khi gia nhập AEC


Điều kiện tự nhiên:
Việt Nam nằm trên ngã tư đường hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng với
nhiều cảng biển như: Cái Lân, Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn… và các sân bay quốc tế:
Nội Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất…cùng với các tuyến đường bộ, đường sắt xuyên Á,
đường biển, đường hàng không nối liền ta với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á
và thế giới, tạo điều kiện cho nước ta giao lưu thuận lợi với các nước. Hơn thế nữa, nước
ta còn là cửa ngõ mở lối ra biển thuận lợi cho nước Lào, các khu vực Đông Bắc Thái Lan
và Campuchia, Tây Nam Trung Quốc.
Địa hình bờ biển đa dạng: nơi thấp phẳng, nơi nhiều vịnh, đảo, quần đảo.
Vùng biển nông, tuy nhiên vẫn có vịnh nước sâu thuận lợi cho phát triển kinh tế
biển.
Điều kiện phát triển giao thông vận tải biển: Nằm gần các tuyến hàng hải quốc tế;

có nhiều vụng biển kín, cửa sông thuận lợi cho việc xây dựng cảng.


Điều kiện xã hội:
Dân số đông nên có nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn
17


nên là điều kiện thuận lợi để kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài. Cơ cấu dân số trẻ
nên người lao động năng động, nhanh nhẹn, dễ tiếp thu khoa học công nghệ, phương
pháp quản lý và ứng dụng những cái mới. Người lao động cần cù, chịu khó dễ thu hút đầu
tư.
Về văn hóa-xã hội, vị trí liền kề cùng với nhiều nét tương đồng về lịch sử, văn
hóa-xã hội và mối giao lưu lâu đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta chung sống hòa
bình- hợp tác hữu nghị và cùng phát triển với các nước láng giềng và các nước trong khu
vực Đông Nam Á. Đồng thời với lịch sử ra đời lâu nên Việt Nam có nền tảng văn hóa
phong phú, đa dạng điều đó sẽ thu hút khách du lịch các nơi về thăm quan, du lịch.
Chính trị: Theo quan điểm địa lí chính trị và địa lí quân sự, nước ta có vị trí đặc
biệt quan trọng ở vùng Đông Nam Á, một khu vực kinh tế rất năng động và nhạy cảm với
những biến động chính trị trên thế giới. Đặc biệt, Biển Đông đối với nước ta là một
hướng chiến lược quan trọng trong cuộc xây dựng, phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước.
Đồng thời là một nước có nền chính trị ổn định, không có các cuộc khủng bố và ít
xảy ra bãi công, mâu thuẫn tôn giáo nên tạo được sự thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển
kinh tế thương mại.
2.3 Thực trạng lao động của Việt Nam
2.3.1 Thực trạng cơ cấu lao động Việt Nam trong giai đoạn gần đây
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước. Quá trình này tất yếu làm tăng tỷ trọng lao động trong
các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, và làm giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp.
Biểu 2.3 cho thấy chuyển dịch cơ cấu lao động trong 10 năm qua theo ba khu vực kinh tế:

"Nông, lâm, thuỷ sản", "Công nghiệp và xây dựng" và "Dịch vụ". Đến nay, khu vực
"Nông, lâm, thuỷ sản" chiếm 48,4% lao động (giảm 13,8 điểm phần trăm so với năm
2000), khu vực "Công nghiệp và xây dựng" chiếm 21,3% và khu vực "Dịch vụ" chiếm
30,3%.
Bảng 2.3 Cơ cấu lao động của các khu vực kinh tế, thời kỳ 2010-2011

18


Dựa vào biểu trên ta có thể thấy được: Tỉ lệ lao động trong ngành dịch vụ tăng lên
qua các năm. Năm 2000 là 24,8 % đến năm 2005 tăng lêm 27,3% và đến năm 2011 đã
tăng lên đến 30,3%.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong quý I/2014, cơ cấu lao động ở nước ta
đã có sự chuyển dịch đáng chú ý.
Số lao động đang làm việc ở nhóm ngành nông-lâm nghiệp-thủy sản so với cùng
kỳ 2013 đã tăng từ hơn 24,289 triệu người lên hơn 24,868 triệu người, hay tăng 2,39%
nên tỷ trọng của nhóm ngành này trong tổng số các nhóm ngành đã tăng từ 46,8% lên
47,1%. Số lao động đang làm việc ở nhóm ngành công nghiệp-xây dựng đã giảm từ hơn
11 triệu người, xuống còn 10,982 triệu người, giảm 0,19% nên tỷ trọng của nhóm ngành
này trong tổng số đã giảm từ 21,2% xuống còn 20,8%.
Số lao động đang làm việc ở nhóm ngành dịch vụ đã tăng từ 16,608 triệu người
lên gần 17 triệu người, tăng 2,05% nên tỷ trọng của nhóm ngành này trong tổng số đã
tăng từ 32% lên 32,1%.
Những con số chuyển dịch tỷ trọng lao động trong các nhóm ngành cho thấy xu
hướng không tích cực, bởi năng suất lao động trong nhóm ngành công nghiệp - xây dựng
cao gấp 1,34 lần nhóm ngành dịch vụ và cao gấp 4,63 lần nhóm ngành nông -lâm nghiệp
- thủy sản.
2.3.2 Đánh giá chất lượng lao động VN khi tiến tới AEC
19



Việt Nam đang ở trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng giai đoạn 2010-2040 và theo
kinh nghiệm các nước, đây là giai đoạn nền kinh tế có khả năng cất cánh để trở thành
nước công nghiệp. Giai đoạn này của Việt Nam tương tự với Indonesia và Malaysia. Có
thể nói, đây là thời điểm tốt nhất để nguồn nhân lực Việt Nam có thể tham gia vào thị
trường lao động AEC. Hiện nay, Việt Nam đang xuất khẩu nhiều lao động sang các nước
ASEAN, đặc biệt sang Malaysia với hàng ngàn chỉ tiêu mỗi năm với thu nhập trung bình
150-200USD/tháng với nhiều loại ngành nghề khác nhau, từ đơn giản như giúp việc gia
đình đến làm nghề xây dựng. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng, doanh nghiệp
(Vietcombank, Agribank, Sacombank, Tập đoàn Hoàng Anh Gialai…) Việt Nam đã mở
chi nhánh và hoạt động khá hiệu quả tại Lào, Campuchia cũng cho thấy khả năng hội
nhập nhanh chóng của lao động Việt Nam trong ASEAN gắn với dòng di chuyển thương
mại, vốn đầu tư, dịch vụ.
Thực tiễn cho thấy, thương mại Việt Nam với các nước ASEAN chiếm tỷ trọng
đáng kể với khoảng 20% tổng thương mại của tất cả các đối tác. Nhiều đối tác đầu tư trực
tiếp quan trọng tại Việt Nam là các nước ASEAN (như Singapore luôn là một trong ba
nhà đầu tư dẫn đầu tại Việt Nam). Nhân lực Việt Nam có khả năng đảm nhận những công
việc kể cả vị trí điều hành khá cao trong doanh nghiệp của các đối tác đầu tư đến từ
ASEAN (cuộc thi tay nghề ASEAN tổ chức vào cuối năm 2014 tại Hà Nội với kết quả
giải nhất thuộc về đội Việt Nam đã chứng tỏ điều đó). Chưa kể, một số lượng đáng kể
người Việt Nam di chuyển sang các nước ASEAN bằng con đường du lịch và tìm việc
làm phi chính thức tại các nước ASEAN cũng là dấu hiệu cho thấy, khả năng tiếp cận
nhanh chóng với thị trường lao động ASEAN. Hầu hết các danh mục ngành nghề của
Việt Nam các nước ASEAN tương tự nhau, cho nên đây là khía cạnh không tạo ra sự
khác biệt quá lớn trong đào tạo nghề nghiệp và sự công nhận lẫn nhau. Đến nay, ASEAN
cũng đã có Hiệp định về di chuyển tự nhiên nhân lực trong ASEAN và thỏa thuận công
nhận lẫn nhau về chứng chỉ lành nghề của cơ quan chính thức như: Dịch vụ kỹ thuật, dịch
vụ điều dưỡng, dịch vụ kiến trúc, chứng chỉ giám sát, nhân lực nghề y, nha khoa, kế toán,
du lịch. Những dấu hiệu trên cho thấy, tiềm năng đáng kể của lao động Việt Nam trong
việc sẵn sàng tham gia cộng đồng ASEAN.

20


Đánh giá của Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng, Việt Nam đang rất thiếu lao động có
trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam
còn hạn chế, có khoảng cách khá lớn so với các nước phát triển trong khu vực.
Nếu lấy thang điểm là 10, Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm – xếp thứ 11/12 nước châu
Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới. Việt Nam còn thiếu nhiều lao động lành
nghề, nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp về tay nghề và
các kỹ năng mềm khác.
Sự chuẩn bị kiến thức, kỹ năng và thái độ, cũng như trạng thái tâm lý để sẵn sàng
di chuyển sang làm việc tại các nước ASEAN của lao động Việt Nam chưa cao.
Các yếu tố cấu thành thế mạnh và mức độ sẵn sàng của lao động Việt Nam trong
tham gia AEC cũng cho thấy có những yếu tố cản trở hoặc làm giảm mức độ sẵn sàng
này:
Thứ nhất,năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Theo đánh giá của Tổ chức
Lao động thế giới (ILO), năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn 15 lần so với
Singapore, bằng 1/5 năng suất lao động của Thái Lan và Malaysia. Đó là chưa đề cập đến
so sánh với năng xuất lao động của Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Ấn Độ, Newzealand
mà những đối tác này đã có các hiệp định quan trọng với ASEAN và khả năng mở rộng
thị trường lao động sang các nước này là không tránh khỏi. Đây là yếu tố làm giảm khả
năng hấp dẫn lao động Việt Nam trước các nhà tuyển dụng nước ngoài, thậm chí là khía
cạnh để các nhà tuyển dụng tăng tính khắt khe trong yêu cầu đối với lao động Việt Nam.
Thứ hai,trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động Việt Nam chưa đồng đều,
trong đó tỷ trọng của trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp dưới 50% tổng số lao động
cùng với chỉ số phát triển con người (HDI) khá thấp so với các nước ASEAN 6 và không
cao hơn đáng kể so với nhóm CLM (Capuchia, Lào, Myanmar). Chỉ số HDI của Việt
Nam là 0,638 trong khi của Singapore là 0,901 và Myanmar là 0,524.
Thứ ba,sự chuẩn bị kiến thức, kỹ năng và thái độ cũng như trạng thái tâm lý để sẵn
sàng di chuyển sang làm việc tại các nước ASEAN chưa cao. Chẳng hạn, chỉ xét về đào

tạo ngoại ngữ ở Việt Nam đặc biệt các thành phố lớn, rất ít lao động Việt Nam học các
thứ tiếng Thái Lan, Lào, Campuchia hoặc tiếng của các nước ASEAN khác. Cho nên, khả
21


năng thích nghi với môi trường làm việc mới khó khăn. Ngoài ra, vấn đề kỹ luật lao
động, ý thức tuân thủ pháp luật cũng như cường độ lao động cũng cần có sự phân tích và
nhận dạng đúng để có giải pháp khắc phục.
CHƯƠNG 3. CHUYỂN DỊCH LAO ĐỘNG KHI VIỆT NAM GIA NHẬP AEC
3.1 Chuyển dịch lao động Việt Nam khi gia nhập AEC


3.1.1 Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
Giai đoạn trước khi gia nhập AEC.
Tại Việt Nam, từ năm 1996 đến năm 2013, tỷ lệ lao động trong ngành công

nghiệp tăng gấp đôi từ 10,6% lên 21,2%, tỷ trọng việc làm trong ngành nông nghiệp
giảm từ 70% xuống còn 46,8%, trong khi đó tỷ trọng việc làm của ngành dịch vụ tăng
từ 12,6% lên 32%.

Nguồn: Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới việc làm tốt hơn và
thịnh vượng chung
Biểu đồ 3.1 Việc làm theo ngành, năm 1992, 2003 và 2013 (%)
Chuyển dịch cơ cấu trong thị trường lao động đã và đang đóng một vai trò quan
trọng trong việc nâng cao năng suất lao động tổng hợp.
• Sau khi gia nhập AEC.
Theo Nghiên cứu về tác động của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đối với thị
trường lao động Việt Nam của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), ADB và Ban Thư ký
22



ASEAN, đến năm 2025, AEC sẽ hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng GDP của Việt Nam thêm
14,5% và tăng trưởng việc làm thêm 10,5%, hàng triệu việc làm mới trong các lĩnh vực
xây dựng, giao thông vận tải, dệt may và chế biến thực phẩm. Đặc biệt lao động trong
lĩnh vực dịch vụ có cơ hội cao hơn khi có 8 ngành nghề lao động trong các nước ASEAN
được tự do di chuyển thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương, bao
gồm: Kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên ngành du
lịch.

Nguồn: Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới việc làm tốt hơn và thịnh vượng
chung
Biểu đồ 3.3: Thay đổi năng suất lao động ở Việt Nam từ hội nhập AEC 2010-2025 (%)
Với sự chuyển dịch cơ cấu ngày càng nhanh dưới tác động của AEC, cùng với một
lực lượng lao động có kỹ năng tay nghề cao hơn, Việt Nam có thể cạnh tranh hơn nữa
trên thị trường toàn cầu dựa vào lợi thế năng suất lao động và điều kiện làm việc. Các mô
phỏng từ mô hình cho thấy năng suất lao động của Việt Nam sẽ tăng trên hai lần trong
giai đoạn 2010-2025. Năng suất lao động trong ngành dịch vụ sẽ tăng (83,8%).
Ngoài ra còn làm thay đổi trong phân bổ việc làm giữa các ngành. Việc làm tăng
thêm trong ngành thương mại và vận tải chiếm một nửa mức tăng chung ở Việt Nam.

23


Nguồn: ước tính của ILO
Biểu đồ 3.4 – Thay đổi việc làm theo ngành theo dự tính AEC năm 2025 (nghìn)
=> Kết luận: Khi gia nhập AEC, hội nhập thương mại sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu việc làm.
Tăng nhanh tỉ lệ việc làm trong ngành dịch vụ đặc biệt là 8 nghề: Kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ,
bác sĩ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên ngành du lịch.
3.1.2 Chuyển dịch lao động VN trong khu vực ASEAN
Báo cáo “Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới việc làm tốt

hơn và thịnh vượng chung” do Tổ chức Lao động Quốc tế và Ngân hàng Phát triển châu
Á thực hiện dự báo: Khi ra đời, Cộng đồng Kinh tế ASEAN có quy mô GDP 2.200 tỷ
USD; thu nhập bình quân đầu người 3.100 USD/năm, nhưng chênh lệch rất lớn, từ 1.000
USD/người/năm (Campuchia, Myanmar) đến 50.000 USD/người/năm (Singapore).
Chênh lệch quá lớn về thu nhập có thể là nguyên nhân thúc đẩy di chuyển lao động trong
khối.
Trong khi đó, các nước ASEAN mới cho phép lao động thuộc 8 ngành (kiểm toán,
kiến trúc, kỹ sư, nha sỹ, bác sỹ, y tá, điều tra viên và du lịch) được quyền di chuyển tìm
việc làm sau khi Cộng đồng ASEAN hình thành, thông qua các thỏa thuận công nhận tay
nghề tương đương. Đây là những lao động thuộc nhóm lao động có chất lượng, được đào
24


tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên, thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là
tiếng Anh.
Số liệu thống kê của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho thấy, 8 nhóm
ngành nghề trên chỉ chiếm khoảng từ 1 đến 1,5% lực lượng lao động của Việt Nam
nhưng đây đều là những vị trí việc làm tốt. Việt Nam sẽ là một trong những nước hưởng
lợi lớn từ những tác động của việc hình thành Cộng đồng ASEAN về tăng trưởng việc
làm, nâng cao năng suất lao động, nhất là năng suất lao động ngành công nghiệp... Số
lượng việc làm tạo thêm ở Việt Nam khá cao (đến năm 2025 là 6 triệu, chiếm 9,5% tổng
số việc làm tạo thêm ở Cộng đồng ASEAN) nhưng chất lượng làm việc chưa cao, 65%
việc làm mới là dễ bị tổn thương (cao nhất trong khu vực). Theo Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, bình quân hàng năm, mỗi lao động làm việc ở nước ngoài tiết kiệm được
xấp xỉ 4.000 USD. Nếu người lao động đi làm việc 5 năm ở nước ngoài, họ có thể tiết
kiệm được 20.000 USD đây là khoản tiền có thể giúp gia đình tự đầu tư hoặc góp vốn sản
xuất sản xuất kinh doanh.
Thực tế, theo báo cáo xếp hạng năng lực cạnh tranh nhân tài toàn cầu 2015-2016
(Global Talent Competitiveness Index - GTCI) do Trường đào tạo về kinh doanh
INSEAD (Pháp) phối hợp cùng Tập đoàn dịch vụ tuyển dụng nhân sự Adecco (Thụy Sỹ)

và Viện Human Capital Leadership Institute -HCLI (Singapore) thực hiện, so với một số
nước khác trong khu vực Đông Nam Á như Singapore, Malaysia, Philippines và Thái
Lan, thứ hạng về thu hút nhân tài Việt Nam năm nay còn khoảng cách khá xa.
Cụ thể, báo cáo cho thấy Malaysia được xếp hạng 30, Philippines 56, Thái Lan
69 và đặc biệt Singapore xếp thứ 2. Trong khối ASEAN này, báo cáo nghiên cứu cho thấy
Việt Nam (thứ 82) chỉ được xếp hạng cao hơn Campuchia (96) và Indonesia (90) về thu
hút nhân tài.
Theo đánh giá của ông Simon Matthews của Manpower Group, đối với Việt Nam,
lĩnh vực dịch chuyển nhiều nhất sẽ tập trung ở người lao động bán lành nghề trong những

25


×