Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Xu hướng biến đổi và tác động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã hội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.34 KB, 20 trang )

XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY
A. MỞ ĐẦU
Tôn giáo, tín ngưỡng không phải là những ảo tưởng tồn tại ở đâu đó ngoài
thế giới, mà bản thân chúng chính là sản phẩm của thế giới này, do những con
người hiện thực tạo nên. Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, tôn giáo, tín
ngưỡng là sự phản ánh tồn tại xã hội, chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Cho
nên, bất kỳ sự thay đổi nào đó của đời sống hiện thực, tôn giáo, tín ngưỡng cũng
không tránh khỏi những biến đổi nhất định. Nhưng tôn giáo, tín ngưỡng cũng có
tính độc lập tương đối của mình và trong chừng mực nào đó, chúng có tác động
rất lớn đền đời sống hiện thực thông qua những hệ thống tổ chức, hệ thống đạo
đức, hệ thống giáo lý và những lễ nghi. Người Việt Nam không độc tôn một tôn
giáo nào giống như nhiều nước phương Tây, nhưng không ít ý kiến nhìn nhận
thờ cúng tổ tiên như một tôn giáo dân tộc của Việt Nam. Vấn đề đó còn cần bàn
bạc thêm, nhưng một điều không thể phủ nhận là: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
đã ăn sâu bám rễ vào đời sống người dân Việt Nam bao đời nay và có những tác
động to lớn trong nhiều lĩnh vực cuộc sống.
Trong bài viết này, dựa vào kết quả nghiên cứu của những người đi trước,
người viết cố gắng nhìn nhận xu hướng phát triển của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên và chỉ ra một số tác động của tín ngưỡng này trong xã hội hiện nay.

1


B. NỘI DUNG
1. Mấy nét khái quát về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
Trong bài viết này, có một vấn đề cần làm rõ trước tiên đó là thuật ngữ “Tín
ngưỡng” - một khái niệm mà lâu nay vẫn được sử dụng nhiều khi đồng thời với
khái niệm “Tôn giáo”. Cơ bản có hai cách hiểu về hai thuật ngữ này. Cách thứ
nhất ủng hộ quan điểm rằng tín ngưỡng và tôn giáo có sự phân biệt nhau ở chỗ
coi tín ngưỡng ở trình độ phát triển thấp hơn so với tôn giáo. Loại quan điểm


thứ hai đồng nhất giữa tôn giáo và tín ngưỡng, và đều gọi chung là tôn giáo, tuy
có sự phân biệt tôn giáo dân tộc, tôn giáo nguyên thuỷ, tôn giáo địa phương, tôn
giáo thế giới.
Theo người viết, cơ sở của mọi tôn giáo, tín ngưỡng là niềm tin của con
người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên. Nhưng trong bài viết này,
người viết xem xét khái niệm tín ngưỡng với tư cách như một hình thức thể hiện
niềm tin vào cái thiêng liêng của con người, của một cộng đồng người nào đó ở
một trình độ phát triển xã hội cụ thể. Nói như vậy không có nghĩa là xem xét tín
ngưỡng ở mức độ (trình độ) thấp hơn so với tôn giáo, nhưng xem xét tín ngưỡng
và tôn giáo như là hai hình thái 1 khác nhau của niềm tin con người vào cái
“thiêng liêng”. Và như thế, tín ngưỡng là sự biểu hiện nìên tin dưới dạng tâm lý
xã hội vào cái thiêng liêng thông qua hệ thống nghi lễ thờ cúng của con người
và cộng đồng người trong xã hội.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng, thờ cúng tổ tiên là một hình
thức tín ngưỡng cơ bản vàphổ biến của người Việt, bất kể họ ở đồng bằng hay
miền núi, nông thôn hay thành thị. Có nhiều cách gọi khác nhau về tín ngưỡng
này, như thờ cúng tổ tiên, Đạo tổ tiên, Đạo thờ cúng tổ tiên, Đạo Ông bà, thậm
1

Về sự phân biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo, xin tham khảo, Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hoá
tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 18.

2


chí có người coi tục thờ cúng tổ tiên như một tôn giáo dân tộc của người Việt2.
Khi ấy, vấn đề thứ hai cần thống nhất đó là, Tổ tiên nên hiểu là những nào và tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên hiểu theo nghĩa nào? Thiết nghĩ, để thấy được những
tác đọng to lớn của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã hội hiện nay, ở đây,
người viết xem xét tín ngưỡng này theo nghĩa rộng, nghĩa là không chỉ thờ

những người có cùng huyết thống đã mất nhưu cụ kỵ, ông bà, cha mẹ,… mà thờ
cả những người có công với cộng đồng làng xã, đất nước. Hiểu như vậy, người
viết cần có một cái nhìn rộng rãi, sâu sắc, nhưng do nhiều hạn chế nên ở đây
chác chắn sẽ không phân tích được đầy đủ những biểu hiện cũng như tác động
nhiều mặt của của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã hội hiện nay.
Người Việt quan niệm, trong con người có linh hồn và thể xác. Họ còn tách
linh hồn ra thành hồn và vía. Người Việt cho rằng, con nguời có ba hồn nhưng
vía thì nam có bảy và nữ có chín. Ba hồn là yếu tố tinh thần cai quản ba vị trí
trên cơ thể gồm đầu, mình và chân. Còn vía là cái làm hoạt động các quang
năng, nhưng nơi cơ thể tiếp xúc với môi trường xung quanh. Khi con người
chết, hồn và vía đều lìa khỏi xác mà đi. Vì thế có tục gọi hồn mỗi khi ai đó mới
qua đời. Khi chết, hồn từ cõi dương sang cõi âm. Đó là thế giới bên kia.3
Thờ cúng tổ tiên là sự tiếp nối của tín ngưỡng Tôtem giáo là tín ngưỡng gắn
liền với tổ chức thị tộc. Mỗi tổ chức thị tộc có hình thức riêng, trong khuân khổ
các tập tục thờ cúng vật thiêng Tôtem. Rồi trong mối quan hệ với người chất,
với vũ trụ luận thế giới bên kia, linh hồn người chết vẫn có nhu cầu sinh hoạt
như người sống. Vì thế, người ta chôn theo người chết những đồ tuỳ táng. Dần
về sau, người ta đốt vàng mã cho người chết mỗi khi cầu khấn. từ ý niệm trên
2

Xem, Đặng Nghiêm Vạn (1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt nam hiện nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.
311 – 315.
3
Ăngghen trong tác phẩm “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, khi lý giải về giấc
mơ, ông cho rằng: “Ngay từ thời hết sức xa xưa, khi con ngưươì hoàn toàn chưa biết gì về cấu tạo thân thể của
họ và chưa biết giải thích những điều thấy trong giấc mơ, họ đã đi đến chỗ quan niệm rằng giữa tư duy và cảm
giác của họ không phải là hoạt động của chính thân thể họ mà là hoạt động của một linh hồn đặc biệt nào đó cư
ngụ trong thân thể và rời bỏ thân thể khi họ chết, - ngay từ thời đó, họ đã phải suy nghĩ về quan hệ giữa linh hồn
ấy với thế giới bên ngoài.” – Dẫn theo, Nguyễn Đức Sự (1999), C. Mác, Ph. Ăngghen về vấn đề tôn giáo, Nxb
KHXH, Hà Nội, tr. 490 – 491.


3


đây, mối liên hệ giữa người sống và người chết được tiếp tục duy trì, nhất là đối
với ông bà, cha mẹ đã qua đời. Việc thờ cúng trở thành phong tục – phong tục
thờ cúng tổ tiên.
Đặc biệt đối với người Việt, như học giả L.Cadiere đã nhận xét, “sự trường
tồn của tổ tiên, sự hiện diện của các ngài ở giữa gia đình, gkhông phải là một
sáo ngữ, một lối nói, một cách bóng gió thi vị mà là một thực tại sâu xa, ai ai
cũng thừa nhận”4. Trước đây, khi chưa có ảnh, bàn thờ tổ tiên người Việt đặt bài
vị. Sự hiện diện của tổ tiên trong bài vị là một điều hiển nhiên không cần bàn
cãi. Cũng theo Cadiere, “Ta chẳng cón cách nào minh nhiên hơn để quả quyết là
hồn người chết vẫn tiếp tục ở bên cạnh người sống. Đối với người Việt, người
chết chỉ có thể xác là rời gia đình, còn linh hồn thì vẫn trở về ở đó, trong bài vị,
thực sự cư ngụ trong đó một cách nhiệm màu”, và “Sự hiện diện của linh hồn
người chết trong bài vị một mặt nào đó có thể xem như người quá cố đang có
mặt và làm cho các buổi cúng tế gần giũ, xác thịt hơn”5.
Khi bước vào chế độ thị tộc phụ quyền với nền kinh tế nông ngiẹp gia đình
phụ quyền, vai trò của người đàn ông trong gia đình được đề cao. Dân ta có câu,
cha mẹ nuôi con bằng trời bằng biển”, đó không chỉ là ý nghĩa thiêng liêng, cha
mẹ sinh thành ra con cái mà còn ở chỗ là cha mẹ chưa lo xong ba việc lớn cho
mỗi đứa con trai là mẫu ruộng, dựng nhà, lấy vợ thi cha mẹ nhắm mắt chư yên.
Chính vì những lý do kinh tế và tình cảm thiêng liên đó mà người Việt đối với
cha mẹ, tôn khi sống, thờ khi chết. Và cứ thế, đời qua đời, ông đối với cha, cha
đối với con thành tập tục. Cho nên, có thể nói, phong tục thờ cúng tổ tiên của
người Việt đã có cái gốc, cáinền nội sinh. Khi Nho giáo du nhập vàonước ta,
với triết lý đề co gia đình, gia tộc “dương danh hiển gia”, cùng với nội dung chữ
hiếu làm nền tảng đã làm cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt trở nên
có triết lý hơn. Điều này rất phù hợp với việc củng cố gia tộc, dòng họ phong

4

Theo, Đỗ Trinh Huệ (2006), Văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan học giả Cadiere, Nxb
Thuận Hoá, Huế, tr. 160.
5
Theo, Đỗ Trinh Huệ, Sđd, tr. 162.

4


kién. Nên đến thế kỷ XV, khi Nho giáo chiếm địa vị chủ đạo trong xã hội, nhà
nước phong kiến Lê đã thể chế hoá việc thờ cúng tổ tiên. Trong Quốc triều hình
luật, đièu 399 ghi rõ việc con cháu phải thờ cúng tổ tiên năm đời. Điều 400 quy
định, ruộng hương hoả, ruộng đèn nhang, dù con cháu nghèo cũng không được
bán. Đến triều Nguyễn, sách “Thọ mai gia lễ” ghi rất tỷ mỉ về nghi lễ tang ma,
thờ cúng tổ tiên của người Việt.
Trong quan niệm dân gian của người Việt, qua việc thờ cúng tổ tiên, giới vô
hình và giới hữu hình luôn luônco sự liên lạc mật thiết. Sự thờ cúng chính là
môi trường gặp gỡ giữa thế giưói hữu hình và vũ trụ thần linh. Đối với người
Việt cổ, chết chưa phải là hết, thể xác tiêu tan nhưng linh hồn bất diệt. Tục ta lại
tin rằng, “dương sao âm vậy”. và vong hồn tổ tiên thường ngự trên bàn thờ để
gần gũi con cháu trong cuộc sống hàng ngày và giúp con cháu trong những
trường hợp cần thiết. Toan Ánh rất có lý khi cho rằng, “Sự tin tưởng vào vong
hồn ông bà cha mẹ ngự trên bàn thờ, có ảnh hưởng nhiều đến hành động của
người sống. Nhiều người vì sợ vong hồn cha mẹ phải tủi hổ qua hành động của
mình mà mang tội bất hiếu”6.
Tóm lại, có thể nói như giáo sư Ngô Đức Thịnh trong “Tín ngưỡng và văn
hoá tín ngưỡng ở Việt Nam”, nội dung tín ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên là
quan niệm về sự tồn tại của linh hồn và mối liên hệ giữa người đã chết và người
sống bàng con đường: hồn về chúng kiến, theo dõi hành vi con cháu, quở trách

hoặc phù hộ cuộc sống của họ. Trong tín ngưỡng này, đạo lý là nội dung nổi
trội7.
2. Xu hướng và tác động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã hội
hiện nay
2.1. Xu hướng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã hội hiện nay
Như chúng ta đều được biết, tôn giáo – tín ngưỡng là sản phẩm của con
người, do con người sáng tạo ra, là sự phản ánh “hư ảo” tồn tại xã hội, và tôn
6
7

Toan Ánh (2000), Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt nam, Nxb Văn hoá dân tộc, tr. 56.
Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt nam, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 53.

5


giáo – tín ngưỡng sẽ mất đi khi nhưũng cơ sở cho sự tồn tại của nó không còn.
Nhưng để nói về sự têu vong của tôn giáo là điều không đơn giản. Trong một
thời gian dài, chúng ta đã nghĩ về một thắng lợi hoàn toàn và triệt để của Chủ
nghĩa xã hội trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, trong đó bao gồm cả
sự tự tiêu vong của tôn giáo; còn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
tôn giáo cũng chỉ tồn tại nhưu một tàn dư của xã hội cũ. Sự khảo nghiệm của
thực tiễn đã chứng minh rằng cách nghĩ như vậy có phần đơn giản. Vì nguồn
gốc xã hội của tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài trong chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy,
không thể coi tôn giáo là tàn dư của xã hội mà nó có cơ sở xã hội trong xã hội
Xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, phải chăng trong cuộc sống con người, cái tâm linh
cũng như cái tiềm thức, cái vô thức là cài tồn tại khách quan mà bấy lâu nay ta
không nhận ra.
Có thể khẳng định một điều là, tôn giáo – tín ngưỡng sẽ còn tồn tai lau dài
trong xã hội. Điều đó được thể hịên phần nào trong xu hưỡng vận động của tín

ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Trước hết, hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay chịu tác động
của điều kiện lịch sử và hiện tại.
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1986, đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội của ngwoif Việt có nhiều biến động lớn lao. Hoạt động thờ
cúng về thực chất ít được chú ý vì cảc nước bị cuốn hút vào nhưũng vấn đề lớn
của dân tộc, của thời đại, đó là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
xâm luợc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Trong những năm gần đây, thành tựu của sự nghiệp đổi mới đã đưa nước ta
sang thời kỳ phát triển mới, thưòi kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bên cạnh việc phát triển kinh tế, chưa bao giờ vấn đề xây dựng môi trường văn
hoá – xã hội lành mạnh, trong đó có vấn đề tư tưởng, đao đứcm, lối sống lại
được đề cập cách toàn diện và sâu sắc như ngày nay.

6


Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, trong xã hội cũng nảy sinh nhiều mặt
tiêu cực, yếu kém như tệ nạn tham nhũng, cửa quyền, quan liêu, mất dân chủ,
lối sống thực dụng, buông thả, sự phân hoá giàu nghèo,…
Những điều kiện lịch sử, xã hội ấy ảnh hưỏng trực tiếp và giàn tiếp tới xu
hưóng vận động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt.
Một xu hướng nổi bật mà hầu hết các nhà nghiên cứu đều thừa nhận đó là tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên ngày càng được củng cố và coi trọng. Trước cuộc sống
mới bộn bề công việc, con người có nhiều nhu cầu quan trọng nhưu việc làm,
gia đình, học tập, vui chơi,giải trí,… song, nhu cầu tâm linh không vì thế mà bị
xem nhẹ, đặc biệt là nhu cầu thoả mãn lòng mong muốn tri ân tổ tiên đã có công
xây đắp, gìn giữ cuộc sống hôm nay. Hầu như mỗi con người, mỗi gia đình đều
trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia hoạt động thờ cúng tổ tiên. Số liệu điều tra ở
Hà Nội do Viện nghiên cứu Tôn giáo công bố cho chúng ta thấy rõ điều đó: có

80% số người được hỏi trả lời là thường xuyên thờ cúng tổ tiên; 17,4% trả lời là
không thường xuyên và 0,6% trả lời là không thờ cúng tổ tiên8.
Trong chuyên luận “Thực trạng văn hoá gia đình Việt Nam”, qua khảo sát
năm địa bàn: Hà Nội, Hà Tây, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ, các
nhà nghiên cứu đã thu được kết quả như sau: 100% gia đình có bàn thờ tổ tiên;
96,75% bàn thờ đựoc đặt ở vị trí tôn nghiêm nhất trong nhà, 95,85% các cặp vợ
chồng đều nhớ ngày giỗ của người thân. Việc chăm sóc mồ mả tổ tiên những
năm gần đây được chú trọng hơn trước, gần 100% gia đình ở nông thôn thường
xuyên chăm nom. Ở Hà Nội, con số này là 85% và ở thành phố Hồ Chí Minh là
89%.9
Bàn thờ tổ tiên là yếu tố rất được coi trọng. Nhiều gia đình do làm ăn khấm
khá đã xây được nhà mới, mua những bộ đồ mới đắt tiền như bàn thờ, lư hương,
đỉnh đồng hay hoành phi, câu đối bằng gỗ vàng tâm được viết bằng chữ Nho,
8

Theo, Đặng Nghiêm Vạn (1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt nam hiện nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.
316.
9
Theo, Ngô Đức Thịnh, Sđd, tr. 84.

7


chạm khắc cầu kỳ. Cũng vì những nhu cầu ấy mà ở các thành phố và thị xã xuất
hiện ngày càng nhiều cửa hàng, cửa hiệu bán đồ thờ.
Các gia đình không chỉ chú trọng tới bàn thờ gia tiên mà còn chú trọng chăm
nom phần mộ tổ tiên. Trước đây, khi chưa có điều kiện, mồ mả tổ tiên thường
được đắp bằng đất. Cứ đến tết Thanh Minh mọi người đi tảo mộ, rẫy cỏ, vun
đắp, sửa sang. Ngày nay, kinh tế phát triển, mồ mả tổ tiên được xây dựng khang
trang, nhiều khi cầu kỳ. Có gia đình xây to, cao, ốp đá hoa cương, vòm cuốn

trông như lăng tẩm của vua chúa ngày xưa.
Những năm gần đây, ở nhiều nơi dấy lên phong trào khôi phục lại việc họ.
Nhiều họ thành lập ban liên lạc, thông báo cho những người ở xa tin tức về việc
họ. Mọi người quyên góp tiền tu sửa lại nhà thở thuỷ tổ, nhà thờ tổ chi, tổ chức
ngày giổ tổ họ, tìm và viết lại gia phả,… Ngày nay, nhiều họ con cháu thành
đạt, ngày giỗ tổ cũng là ngày “vinh quy bái tổ” nên thường dành nhiều tâm sức,
tiền của lo việc họ. Người tham gia lo việc họ bây giờ thường thuộc ngành
trưởng hoặc những người tâm đức, có khả năng quy tụ mọi người, đồng thời
cũng phải là người có thời gian, có khả năng tài chính nhất định.
Một điều đáng nói là xu hướng trên đây diễn ra ngay cả trong bộ phận người
Công giáo Việt Nam. Trước đây (trước Công đồng Vatican II), Giáo hội không
cho phép tín đồ giữ đạo tổ tiên, cũng như thờ cúng các vị thần tôn giáo khác, vì
họ quan niệm rằng, tất cả các vị ấy đều là “ma quỷ”, và vì lễ nghi thờ cúng là
mê tín dị đoan. Do nguyện vọng và đòi hỏi chính đáng của giáo dân, ngày 15
tháng 6 năm 1965, theo thông báo của Hội đồng Giám mục Việt Nam, và theo
thông báo bổ sung ngày 17 tháng 11 năm 1974 thì giáo dân được lập bàn thờ gia
tiên, được thắp hương cúng giỗ, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên theo phong
tục Việt Nam. Đó cũng là việc làm thể hiện lòng hiếu kính với tổ tiên, và cũng
phù hợp với lời dạy của Chúa Kitô là phải hiếu thảo với cha mẹ. (Điều răn thứ 4
trong 10 điều răn: “Thảo kính cha mẹ”). Theo điều tra xã hội học tôn giáo của
Viện nghiên cứu tôn giáo, ở Hà Nội, trong thời gian từ 1995 đến 1998, có
8


94,7% giáo dân được hỏi cho biết có thực hiện việc thờ cúng tổ tiên. Tỷ lệ đó ở
Huế là 98,3% và ở thành phố Hồ Chí Minh là 97,8%10.
Hoạt động thờ cúng tổ tiên những năm gần đây không chỉ bó hẹp trong phạm
vi gia đình, dòng họ. Khắp nơi mở hội làng, trước hết là tưởng nhớ công ơn của
thành hoàng làng, của các vị tổ sư, tổ nghề, các danh nhân văn hóa và các anh
hùng dân tộc mà tên tuổi gắn liền với lịch sử địa phương mình. Trong các lễ hội

ở các địa phương, có thể nói lễ hội Đền Hùng là lễ hội tiêu biểu nhất thể hiện
đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam.
Có lẽ không có dân tộc nào trên thế giới lại có ngày giỗ tổ nước như Việt
Nam. Từ sau ngày giành độc lập đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm,
bảo vệ, tôn tạo và xây dựng khu di tích lịch sử Đền Hùng. Những năm gần đây,
nhân dân khắp nơi thăm viếng được tổ chức long trọng trong 10 ngày từ ngày 5
đến ngày14 tháng 4 theo nghi thức Quốc lễ. Về dự lễ có các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hóa – Thông tin (ngày nay là Bộ Văn hóa - Thể thao
và Du lịch), đại diện UNESCO tại Việt Nam và tổ chức UNESCO Việt Nam,
các đồng chí lãnh đạo của nhiều tỉnh thành trong cả nước, và khoảng hơn một
triệu người hành hương về đất tổ.
Như vậy, các hoạt động thờ cúng ngày càng được củng cố, coi trọng là xu
hướng nổi bật của nổi bật của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện
nay. Điều đó thể hiện rõ trongg một số mặt, một số khía cạnh có khi bao hàm cả
sự đối lập nhau.
Trong hoạt động thờ cúng tổ tiên hiện nay đồng thời tồn tại hai xu hướng.
Xu hướng thứ nhất là xu hướng đơn giản hóa những nghi lễ thờ cúng cũng như
không gian thờ cúng. Cái mới, cái tích cực đang định hình, có xu hướng phủ
nhận cái cũ, cái lạc hậu trên cơ sở kế thừa những yếu tố tích cực của truyền
thống.
10

Theo Đặng Nghiêm Vạn (2005), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tr. 315.

9


Có thể nói đây là xu hướng chủ đạo. Ở đây, hoạt động thờ cúng đươc biểu
hiện như là một hoạt động văn hóa mang tính xã hội và gia đình. Không phải ai

thờ cúng, vái lạy, cầu khấn tổ tiên cũng là một người duy tâm, mê tín. Bởi vì
những yêu cầu thiết thực của sự tồn tai không cho phép họ dành hết thời gian
cho hoạt động tâm linh. Việc thờ cúng xưa nay không cốt yếu ở lễ vật mà ở lòng
thành. Trong hoạt động thờ cúng tổ tiên, hình thức biểu hiện là cụ thể, song đối
tượng thờ cúng là trừu tượng và vô hình, chỉ tồn tại ý thức tâm linh. Tuy nhiên,
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ đơn thuần là sự đền bù hư ảo mà là những
biểu tượng tổ tiên có cơ sở hiện thực và mục đích thờ cúng cũng thể hiện những
nội dung hiện thực.
Được hình thành từ xa xưa, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên phần nào đáp ứng
được nhu cầu tâm linh, nhu cầu tâm lý của cá nhân và cộng đồng người Việt.
Các lễ giỗ tổ, giỗ họ là điều kiện để mọi người xum họp, hỏi han, động viên
nhau, lo cho cái chung gia đình, dòng họ, làng xã, cao hơn là dân tộc, quốc gia.
Hướng về lợi ích thế tục, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên “chứa đựng những hạt
nhân hợp lý”. Nếu hoạt động thờ cúng tổ tiên được các cấp chính quyền, các
ngành và đoàn thể định hướng và quản lý tốt, chủ thể thờ cúng nhận thức và tự
giác loại trừ những biểu hiện tiêu cực thì xu hướng tích cự sẽ chiếm vị trí chủ
đạo vì bản chất của các hoạt động văn hóa là không vụ lợi. Nhiều tỉnh, thành
phố đã có những việc làm thiết thực đẩy mạnh phong trào xây dưng gia đình
văn hóa, thôn ấy văn hóa, bước đầu hình thành một số nghi thức mới trong việc
cưới, việc tang, lễ hội, cải tạo phong tục tập quán lạc hậu, phát huy đạo lý uống
nước nhớ nguồn, hiếu thảo, thủy chung của dân tộc.
Song song với xu hướng tích cực như trên, trong hoạt động thờ cúng tổ tiên
có xu hướng tiếp tục phục hồi những hủ tục cũ và duy trì các nghi thức truyền
thống trong giỗ chạp, tang ma, cưới xin theo xu hướng mê tín.
Xu hướng mê tín biểu hiện ở chỗ, nhiều người tin vào tồn tại thực của tổ
tiên, nên bất cứ làm việc gì cũng phải khấn vái tổ tiên, mong tổ tiên phù hộ độ
10


trì, vạn sự như ý. Cúng lễ ở nhà chưa đủ, họ đi đến đình, đền, miếu, phủ, chùa,

… để cầu cúng. Họ làm những lễ thật to, nhiều khi tốn kém rất nhiều của cải.
Trong dòng người đi lễ có cả cán bộ, công chức, sinh viên, học sinh. Trong thực
tế, những năm gần đây, số người đi lễ bái có xu hướng gia tăng, và thiên về
những hoạt động mang tính mê tín, dị đoan ảnh hưởng xấu đến đời sống gia
đình và xã hội. Trong hoạt động thờ cúng, nội dung tư tưởng lành mạnh bị hình
thức mê tín lấn át. Họ cầu cúng chỉ hướng vào việc cầu may, hạn rủi, mong sung
sướng an lạc. Họ mất dần sự tự tin, thiếu tích cực chủ động, sáng tạo trong cuộc
sống (trong trường hợp này, tôn giáo – như Mác nói – “là thuốc phiện của nhân
dân”).
Một xu hướng nữa trong hoạt động thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng tổ tiên
là việc thực hiện các nghi lễ thờ cúng trong giỗ chạp, tang ma, cưới xin mang
tính hình thức, phô trương lãng phí, thương mại hóa chưa giảm đáng kể mà còn
nhiều biểu hiện mới. Hiện nay, ở hầu hết các địa phương, đặc biệt là ở những
nơi có đời sống kinh tế khá giả, xuất hiện xu hướng đua đòi xây mồ mả với quy
mô ngày càng bành trướng. Trong khi đó, diện tích đất nghĩa trang có hạn, diện
tích đất canh tác bị thu hẹp dần. Nguy cơ “người chết không có đất chôn” trong
tương lai là hiện hữu. Bên cạnh những hủ tục như cỗ bàn linh đình để “trả nợ
miệng”, lại thêm các “khổ nạn” mới như hối lộ, biếu xén bằng phong bì dưới
dạng mừng, phúng. Những hiện tượng trên trở thành những vấn đề nhức nhối
làm xói mòn các giá trị đạo đức truyền thống, lối sống cần kiệm, giản dị của dân
tộc, phá hoại thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng xấu đến đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân.
Tình hình trên đây cho thấy hoạt động thờ cúng tổ tiên trong những năm gần
đây diễn biến khá phức tạp. Nó phản ánh sự đa dạng, phong phú những biến đổi
sâu sắc trong cuộc sống.
Tôn giáo – tín ngưỡng là một hình thái ý thức xã hội, nên nó có tính độc lập
tương đối, nó có khả năng tác động ngược lại hiện thực (như Mác nói, tôn giáo
11



không chỉ là sự biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, mà còn là sự phản kháng
chống lại sự nghèo nàn hiện thực ấy). Theo đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có
tác động rất lớn đến đời sống người Việt.
2.2. Một số tác động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã hội hiện
nay
Khi nói tới khái niệm “tác động”, chúng ta thường nhầm lẫn với khái niệm
“ảnh hưởng”, tuy nhiên theo người viết, hai khái niệm này không thể đồng nhất
với nhau. Mặc dù đều nói đến mối tương quan giữa hai đối tượng, nhưng nếu
nói A ảnh hưởng tới B thì điều đó có nghĩ là sự ảnh hưởng đó của A chỉ mang
tính tĩnh theo nghĩa không mang tính chủ động; còn khi nói A tác động đến B
bao hàm nghĩa A chủ động.
Một khái niệm khác cũng gần gũi với khái niệm “tác động” đó là khái niệm
“ý nghĩa”. Nói đến tác động thì có tác động tích cực và tác động tiêu cực nhưng
nói về ý nghĩa thì chúng ta thường nghĩ tới những yếu tố tích cực. Tuy nhiên, ý
nghĩa là bản thân sự vật hiện tượng có, nhưng từ ý nghĩa đó có tạo ra điều gì ở
đối tượng khác không thì lại là chuyện khác. Khi ấy, nói “tác động” sẽ bao hàm
cả những ý nghĩa tích cực và những yếu tố tiêu cực nhưng mang nghĩa chủ
động.
Trong những tác động tích cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã hội
hiện nay, tác động đầu tiên có thể nhận thấy đó là tín ngưỡng này vừa là sự biểu
hiện vừa là sự duy trì và củng cố đạo Hiếu – đạo làm người.
Nguời Việt Nam rất coi trọng chữ Hiếu. Trong gia đình, dòng họ, điều cốt lõi
là con người phải có hiếu. Toan Ánh viết: “Người Việt thờ cúng tổ tiên chính là
vì hiếu và vì biết ơn các bậc đã sinh thành ra mình, nuôi nấng và tác thành cho
mình. Cha mẹ sinh ra mình, mình không biết hiếu kính, biết ơn thờ phụng, thì
hỏi còn có thể thờ phụng một giáo chủ nào với tất cả lòng chân thành được nữa.
Người Việt tuy có theo các tôn giáo nhưng vẫn không bao giờ vì tôn giáo bỏ các

12



đấng sinh thành ra mình, nghĩa là bỏ tổ tiên được” 11.Trước đây, các triều đại
phong kiến việt Nam đều đề cao chữ Hiếu, lấy hiếu để củng cố gia đình và ổn
định xã hội. Chữ nhiếu được nhà nước phong kiến hóa, thể chế hóa. Điều 475
luật hồng Đức quy định: “con cháu đánh ông bà cha mẹ thì phâir đi lưu đầy
Châu Xa, đánh bị thương thì phải tội giảo…” (Đỗ trinh huệ, tr 98). Sách “Nhị
thập tứ hiếu” được in và truyền bá rộng rãi thời Nguyễn. Nhiều tấm gương hiếu
đễ nhưu Nguyễn Huy Đức, Phan Hữu Tự,… xin từ quan để về quê dạy học, để
chăm sóc mẹ già, được vua phong quan tiến chức và khen ngợi vì có hiếu với
mẹ.
Mà chữ hiếu là biểu hiện của chữ Nhân, gốc của nhân lại là kính ái. Người
có hiếu trước hết khơi lòng yêu mến kính trọng người thân mình: “Lập ái tự
thân thủy, giáo dân mục giả. Lập kính tự trưởng thủy, giáo dân thuận giả”; tức là
xây dựng lòng yêu mến khởi đầu từ cha mẹ, tức là dậy dân hòa mục vậy, lòng
kính trọng khởi đầu từ huynh trưởng tức là dậy dân kính thuận vậy. Trần Trọng
Kim viết: “cái lẽ thường thì cha mẹ và anh chị em là người thân thiết nhất của
ta, tất ta phải kính yêu, rồi đối với người ngoài mới có lòng từ ái trung thứ được.
Nếu ở với cha mẹ mà không hiếu thảo, ở với anh em mà không kính thuận, tức
là tình cảm của ta rất bạc, thì làm thế nào mà làm người nhân được” 12. Đối với
người Việt, hiếu kính với cha mẹ không chỉ là sự biểu hiện tình cảm, lòng biết
ơn, còn là trách nhiệm, nghĩa vụ đạo làm con. Hiếu với tổ tiên, ông bà, cha mẹ
trước hết phải là cách cư xử với người đang sống. Từ ngàn xưa, người Việt đã
có câu “Khi sống thì chẳng cho ăn, đến khi chết mới làm cơm cúng ruồi” để chê
bai những kẻ làm con không biết giữ tròn đạo hiếu với ông bà, cha mẹ khi còn
sống thì lúc chết dù có cúng mâm cao cỗ đầy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Thật

11

Toan Ánh (2000), Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, tr. 76 –
77)

12
Trần Trọng Kim, Nho giáo, nxb Tân Việt, tr. 1400.

13


đáng buồn cho những người con khi “cha mẹ nuôi con bằng trời bằng biển, con
nuôi cha mẹ con kể từng ngày”.
Bàn thờ tổ tiên không chỉ là biểu tượng cho sự ‘hiện diện” của tổ tiên bên
con cháu mà quan trọng hơn, nhờ có bàn thờ tổ tiên, trông vào đó con cháu nhìn
lại mình, nhìn lại những điều trong quá khứ đã không phải với ông bà, cha mẹ,
từ đó mà “ăn năn hối cải”, thay đổi tâm tính để thành một con người tốt hơn,
không để hương hồn ông bà cha mẹ phải hổ thẹn nơi chín suối. Đó cũng là nơi
các thế hệ trước nhắc nhở các thế hệ sau noi gương tổ tiên mà làm sáng danh
gia đình, dòng họ.
Đạo hiếu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhắc nhở con cháu không chỉ
hiếu thảo với ông bà cha mẹ mà phải “hiếu đễ” với anh chị em trong gia tộc.
Trong nhà, anh em phải biết “kính trên nhường dưới”. Anh em phải có trách
nhiệm với nhau, nhất là khi cha mẹ đã qua đời. Hàng năm, đến ngày giỗ cha mẹ,
các em đến nhà anh trưởng góp giỗ. Ngày giỗ vì thế chẳng những có ý nghĩa
thiêng liêng về mặt tâm linh thể hiện sâu sắc ý thức,lòng biết ơn công sinh thành
của cha mẹ, tổ tiên, mà còn có ý nghĩa sum họp, đoàn kết, thân ái trong gia tộc.
Anh em, con cháu sum vầy, hỏi han về công việc, sức khỏe, bảo ban những điều
hay lẽ phải, mong ch “trong ấm ngoài êm”. Để có cuộc sống ấm no hạnh phúc,
có thể tự hào báo kính với tổ tiên, khỏi phải hổ thẹn với tổ tiên, các lớp con
cháu phải phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện. Do đó, việc thực hiện đạo hiếu không
những nhắc nhở con cháu phải năng làm mà còn phải hiếu học. Con cháu học
hành giỏi giang cũng là báo hiếu ông bà, cha mẹ vậy.
Đạo hiếu không chỉ bó hẹp trong gia đình, gia tộc, mà đã được mở rộng ra
phạm vi làng xóm, quốc gia, dân tộc. Trong quan niệm của người Việt, người

trong làng nước đều là con Lạc cháu Rồng. Trước là trong họ, sau là ngoài làng,
phải thương yêu giúp đỡ nhau trong cuộc sống. “Bán anh em xa mua láng giềng
gần”, bà con làng xóm như “gà cùng một mẹ”, “tắt lửa tối đèn có nhau”, tình
làng nghĩa xóm tương thân tương ái. Khi làng xóm nào có việc hiếu, mọi người
14


đều đến sẻ chia. Ngay cả đối với người Công giáo, trước đây không được tham
dự đám tang của người bên “lương” (nguời không Công giáo), thì ngày nay, mỗi
khi hàng xóm có việc hiếu việc hỷ, người giáo dân vẫn đến tham dự, giúp đỡ
không e dè.
Như vậy, đạo hiếu – đạo làm người có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các
nguyên tắc ứng xử của người việt. Trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, việc
phụng dưỡng ông bà cha mẹ khi sống, thờ khi chết, không chỉ là tín ngưỡng mà
còn là lẽ sống, được hình thành, bồi đắp qua bao thế hệ và trở thành thuần
phong mỹ tục, ăn sâu trong tiềm thức của mỗi người.
Bên cạnh việc dấy lên lòng hiếu thảo, nhân nghĩa, tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên góp phần duy trì ý thức nhớ về cội nguồn. Cây có gốc mới nở ngành xanh
ngọn – Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu – Người ta nguồn gốc từ đâu? –
Có cha mẹ rồi sau có mình. Đó là những lời tâm niệm nhắc nhở con cháu nhớ
về cội nguồn của mình. Chim có tổ, người có tông, mỗi dịp tết đến là mỗi dịp
con cháu ở xa nhớ về quê hương tiên tổ, thắp một nén hương lòng mà liên kết
với cội nguồn. Con cháu ở gần thì tụ họp nhau lại mà nhắc nhở nhau nhớ về tổ
tiên. Cứ như vậy, đời này chuyển qua đời khác chuyển giao công đức tổ tiên.
Trong mỗi gia đình đều thiết lập bàn thở tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên là không
gian thiêng liêng để các thành viên gia đình thể hiện, gửi gắm lòng tưởng nhớ,
biết ơn tổ tiên. Vì thế, bàn thở tổ tiên thường đặt ở vị trí trang trọng nhất trong
nhà. Đây là một sự khác biệt với một số dân tộc khác. Ở Hàn Quốc, người ta chỉ
lập bàn thờ và dán bài vị tổ tiên khi có việc cúng giỗ. Ở Nhật Bản, vị trí trang
trọng nhất trong nhà dành thờ Thần Đạo Shintô, còn bàn thờ gia tiên lập ở gian

phụ.
Việc duy trì ý thức nhớ về cội nguồn được thể hiện tập trung trong lễ giỗ.
Giỗ là kỷ niệm ngày qua đời của người mất. Ngày giỗ chính là dịp để họp mặt
anh em con cháu trong nhà mà hàng năm phải xa cách nhau vì kế sinh nhai, thắt
chặt thêm tình thân giữa những người cùng huyết thống bằng sợi dây tâm linh
15


tình nghĩa. Người Việt coi việc cúng giỗ, hờ phụng tổ tiên là việc làm hàng
ngày, hàng tháng, từng mùa, quanh năm, tuần tiết nào, lễ vật ấy. Vì muốn khói
hương tổ tiên được đời đời nối tiếp, dòng dõi không đứt mạch, nên người ta coi
trọng việc sinh con trai để lập người tế tự. Tục đa thê thật đáng che trách trong
xã hội ngày nay, nhưng hiểu theo nghĩa gia trưởng, đàn ông là người nối kết quá
khứ và hiện tại để duy trì tương lai vạn đại, thì trong ba điều bất hiếu, thì không
có con nối dõi tong đường vẫn là điều bất hiếu nặng nhất; bởi vì thiếu người tế
tự thì tôn giáo bị gián đoạn, gia đình bị đứt quãng, dòng họ bị ngưng tụ… và có
tội với tổ tiên. Tổ tiên sẽ thiếu người tiếp dưỡng, trở thành độc ác, lang thang,
thành ma thành quỷ. Vì vậy, chúng ta không khuyến khích nhưng khi nhìn nhận
thấu đáo ý nghĩa của nó, việc đa thê trong tình thế cần thiết để có người nối dõi
gia đạo là là một hành động mang tính “cao cả”, siêu nhiên, vượt lên bình diện
xác thịt.
Cây có cội, nước có nguồn, người Việt cho rằng, thủy tổ là người sáng
nghiệp ra dòng họ và từ đó, và từ đó hệ thống các đời cúng dòng máu nối tiếp
nhau tới nay. Họ là tập hợp tự nhiên những người cùng dòng máu, tụ hội nhau
theo từng đời và nhiều đời, do một ông Tổ sinh ra. Trong qua trình phát triển, họ
chia ra nhiều ngành, rồi do chiến tranh loạn lạc hay do mưu sinh nghề nghiệp,
các ngành chuyển sư đi nhiều nơi khác biệt nhau. Trong tình trạng không có
điều kiện liên hệ với nhau, thì cuốn tộc phả vô cùng cần thiết. Tộc phả là loại
sách biên niên sử của một dùng dọ, ghi từ ông tổ trở xuống theo một trình tự
chặt chẽ. Giống như gia phả, tộc phả cần ghi chép đủ ngày sinh, nghề nghiệp,

chức vụ, gia đình, ngày mất và nơi an táng của từng thành viên. Tộc phả thường
được lưu giữ tại nhà tộc trưởng. Các dòng họ lớn, có nhiều người đỗ đạt và có ý
thức về dòng họ, thường tộc phả ghi được từ 20 đến 30 đời. Nếu tộc phả cũng bị
thất lạc thì chỉ còn cách dùng trí nhớ, lấy lời truyền từ đời nọ sang đời kia để lần
từng ngành, từng chi.

16


Hầu như họ nào cũng có nhà thờ tổ gọi là từ đường. Họ nào không có nhà
thờ thì nhà trưởng nam dòng đích xây một bàn thờ thiên giữa sân, dựng bia đá ở
bên như bài vị của nhà thờ họ. Vào dịp giỗ tổ hàng năm hoặc khi có việc họ thì
cả họ tới nhà trưởng họ dự lễ hoặc ăn uống.
Ý thức hướng về cội nguồn, về những người có công sinh thành tạo dựng
cuộc sống đối với người Việt, cũng là ý thức hướng về cội nguồn chung của dân
tộc. Nước mất thì nhà tan. Nhà muốn yên ấm thì nước phải thịnh, cường. Họ có
tổ họ, nước có tổ nước. Vua Hùng là tổ của muôn dân đất Việt. Ngày giỗ tổ
hùng Vương không chỉ là dịp con cháu từ khắp nơi hành hương về đất tổ mà
quan trọng hơn, nhờ đó, mỗi người dân Việt Nam dù ở tầng lớp nào, lứa tuổi
nào, trong hay ngoài nước, ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm cuae mình đối
với quê hương đất nước. Cũng chính vì vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (hiểu
theo nghĩa rộng) giáo dục cho các thế hệ người Việt truyền thống yêu quê
hương đất nước.
Khi đã giáo dục người ta ý thức về cội nguồn, về truyền thống yêu quê
hương đất nước, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có vai trò to lớn trong việc tổ chức
liên kết cộng đồng. Về điều này, học giả L.Cadiere đã nhận thấy: “người Việt
không phải – chưa phải là một người mất gốc, lang thang phiêu bạt, một cá nhân
ngập chìm trong đám đông không định hình của xã hội, như nền xã hội công
nghiệp đã sản sinh ra không biết bao nhiêu tại châu Âu. Người Việt cho dù bất
cứ hoàn cảnh nào cũng thuộc về một họ, tức gia đình theo nghĩa rộng, tổ chức

vững chắc, liên kết chặt chẽ bằng huyết thống, bằng những quyền lợi vật chất,
bằng những niềm tin tôn giáo, bằng các mối dây luân lý của cộng đồng” 13. Sống
trong xã hội, xét theo cả trục dọc và trục ngang, con người không thể sống biệt
lập, cô đơn. Theo trục dọc phụ hệ, thờ cúng tổ tiên là sự nối tiếp liên tục các thế
hệ. Theo trục ngang, thờ cúng tổ tiên đã gắn kết con người trong mối liên kết
dòng họ. Với tư cách một tập thể, gồm cả những người sống và người đã chết
13

Theo, Đỗ Trinh Huệ, Sđd, tr 89.

17


gắn bó với nhau về huyết thống và thờ chung một thủy tổ, dòng họ có sức mạnh
bảo đảm giá trị tinh thần của mỗi thành viên của nó trong làng xã. Thờ cúng là
trách nhiệm bắt buộc đối với gười sống có vị trí thấp hơn. Mọi thành viên phải
tuân thủ những quy tắc thứ bậc trong gia đình, dòng họ, không phân biệt tuổi
tác, hay chức vụ người đó trong xã hội. Còn trong những nghi thức thờ vua
Hùng, tác dụng cấu kết cộng đồng ở đây là một điều hiển nhiên ai ai cũng nhận
thấy.
Ngoài những tác động tích cực như trên đã phân tích, tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên, trong một chừng mực nào đó cũng đã gây ra một số tác động tiêuc cực như
việc lãng phí thời gian và tiền bạc của cá nhân, gia đình và xã hội vào những
việc làm mê tín như đốt vàng mã, ganh đua nhau trong việc xây mộ tổ tiên,
những việc bói toán, gọi hồn,… những việc làm đó vô hình chung đã ít nhiều
làm mất đi hình ảnh đẹp của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng thờ cúng
tổt tiên bản thân nó là tốt đẹp, mang những giá trị tích cực, song những tác động
xấu của nó là do là do những hành vi của con người gây nên. Nguyên nhân là do
nhận thức còn hạn chế, do ảnh hưởng của thói quen, tâm lý truyền thống lạc
hậu, do tác động của những điều kiện kinh tế – xã hội, sự buông lỏng quản lý,

giáo dục của các cấp, các ngành và đoàn thể 14, xem nhẹ việc giáo dục nếp sống
và lối sống, thiếu sự hướng dẫn kịp thời về phong tục, thiếu sự quy định chặt
chẽ của Nhà nước đối với việc cưới, việc tang, lễ hội. Tuy nhiên, những tồn tại
ấy hoàn toàn có thể khắc phục được.

KẾT LUẬN
14

Nói đến điều này cũng không thể không nói thẳng thắn rằng, có nhiều cán bộ Nhà nước nhiều khi chính là
“tấm gương” cho sự “hư hỏng” của quần chúng. Một vài người trong số họ, người thân của họ chính là những
người đi đầu trong các hoạt động mê tín dị đoan. Vì vậy, để việc tuyên truyền, giáo dục có hiệu quả hơn, cần có
những “tấm gương sáng” để quần chúng tin tưởng, noi theo.

18


Tóm lại, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã gắn bó với người dân Việt Nam từ
lâu đời. Mỗi người dân Việt không ai là không có ý thức về cội nguồn, về làng
xóm, về quê hương đất nước, về các đấng sinh thành. Họ thì có tổ họ, làng thì
có Thành Hoàng, nước thì có Vua Hùng là tổ nước. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
vì vậy có tác động rất lớn đến đời sống mỗi con người và xã hội Việt Nam. Tín
ngưỡng này không chỉ dạy người ta biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, hiều đễ
với anh chị em trong gia đình mà còn nhắc nhở họ nhớ về cội nguồn, “biết ăn
quả nhớ người trồng cây”. Người Việt Nam dù đi đâu cũng không cảm thấy lạc
lõng bơ vơ, mọi người trên mảnh đất này đều ý thức mình là con Rồng cháu
Lạc, phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Đoàn kết là một truyền thống quý
báu của dân tộc ta, thông qua tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, và nhờ tín ngưỡng
này, truyền thống đó được vun đắp thêm nhờ những ý niệm tâm linh. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên mang đến những tác động tích cực vì tự bản thân tín
ngưỡng này bao hàm những ý nghĩa sâu sắc. Tuy nhiên, thông qua những hoạt

động của mình, chúng ta đã “quàng lên vai” tín ngưỡng này không ít những hạn
chế, tiêu cực. Cần nhìn nhận những hạn chế ấy để có biện pháp khắc phục kịp
thời, trả lại cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên những vẻ đẹp của nó.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
19


1. Toan Ánh (2000), Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam,
Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
2. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà
Nội.
3. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
4. Phan Kế Bính (1996), Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
5. Đỗ Trinh Huệ (2006), Văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn
quan học giả Cadiere, Nxb Thuận Hoá, Huế.
6. Trần Trọng Kim, Nho giáo, Nxb Tân Việt.
7. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt nam,
Nxb KHXH, Hà Nội.
8. Trần Đăng Sinh (2002), Những khía cạnh triết học trong tìn ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
9. Đặng Nghiêm Vạn (2005), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Đặng Nghiêm Vạn (1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt nam hiện nay,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

20




×