Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Tái cấu trúc ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.68 KB, 46 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TPHCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA KINH TẾ

BÀI

TIỂU
LUẬN

MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ 2
CƠ CẤU LẠI HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VÀ CÁC TỔ CHỨC TÀI
CHÍNH GIAI ĐOẠN 2010 – 2015.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân
SVTH: Nhóm 7 – K13401


TP. HCM, ngày 14 tháng 04 năm 2016

DANH SÁCH NHÓM 7
STT

HỌ VÀ TÊN

MSSV

1

Phan Đinh Hải My


K134011721

2

Trần Thị Hồng Trang

K134011746

3
4
5
6
7

Nguyễn Quang Hiếu
Đinh Công Ninh
Nguyễn Liễu Thảo Nguyên
Nguyễn Anh Toàn

K134010016
K134010035
K134010041
K134010057


BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC ĐỀ TÀI THUYẾT
TRÌNH VÀ MỨC ĐỘ ĐÁNH GIÁ CÁ NHÂN

ST
T

1
2

3

4

5

MÔ TẢ CÔNG VIỆC
Phần mở đầu

Hiếu

Chương 1: cơ sở lý
thuyết và các tiêu chí
Hiếu
đánh giá.
Chương 2:Thực trạng
hiện tại hệ thống ngân
Nguyên+Tr
hàng thương mại và các
ang
tổ chức tài chính ở VN
Chương 3: Hoạt động tái
cấu trúc hệ thống ngân
Ninh + My
hàng thương mại và các
tổ chức tài chính
Chương 4: Đánh giá

hiệu quả và hướng phát
Toàn
triển giai đoạn 2015 –
2020
Chương 5:Kết luận:
Những mặt tích cực và
Hiếu
hạn chế, Vai trò của Nhà
nước.

7 Làm file word
8

PHỤ TRÁCH THỜI GIAN

Làm Power Point, slide
thuyết trình.

10 Thuyết trình

Hiếu
Ninh
Hiếu +
Nguyên.

Deadline:
19h ngày
31/03
Deadline:
19h ngày

31/03

MỨC ĐỘ
HOÀN THÀNH
95%
95%

Deadline:
19h ngày
31/03

95%

Deadline:
19h ngày
31/03

95%

Deadline:
19h ngày
31/03

95%

Deadline:
19h ngày
31/03

95%


Deadline:
20h ngày
08/04.
Deadline:
20h ngày
14/04

95%
95%


11

Quy định trang phục khi
thuyết trình

Sơ mi trắng, quần sẫm màu.

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN


MỤC LỤC

i

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1: một số giải pháp đối với các vấn đề ngân hàng trong



quá trình tái cấu trúc ............................................................................ 18
Bảng 2 : Tỷ lệ nợ xấu ngành ngân hàng Việt Nam/mức dự nợ.............. 33

ii
DANH MỤC ĐỒ THỊ HÌNH VẼ
Trang


Hình 1: Tốc độ tăng trưởng nợ xấu trong các NHTM Việt Nam............11
Hình 2: Tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng thương mại.......................12
Hình 3: Tổng tài sản của các tổ chức tín dụng năm 2015......................15
Hình 4: Khảo sát các giải pháp trong tái cấu trúc ngân hàng. .............17
Hình 5: Các chỉ tiêu của SHB trước và sau sáp nhập............................22
Hình 6 : Tỷ lệ nợ xấu ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn
2010 – 2015. ..........................................................................................34

iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT/ KÝ HIỆU

CỤM TỪ ĐẦY ĐỦ


NHTM
TCTD
NHNN
NHTW
TCTDPNH

NHTMCP

Ngân hàng thương mại
Tổ chức tín dụng
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Trung Ương
Tổ chức tín dụng phi ngân
hàng
Ngân hàng thương mại cổ
phần


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong những năm qua, việc tái cấu trúc và sáp nhập các công ty, các ngân
hàng có quy mô nhỏ lẻ được đẩy mạnh cùng việc cổ phần hóa công ty Nhà nước.
Trong mỗi ngân hàng, mỗi tổ chức tài chính có những đặc thù riêng, vì vậy cần phải
có các nghiên cứu phân tích về việc thuận lợi, khó khăn và quá trình cho công cuộc
cơ cấu, bước đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, cổ phần hóa các tập đoàn công ty.
Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do của
AFTA, ký hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ và gia nhập
WTO, cùng các tổ chức thương mai thế giới. Xu thế hội nhập, liên kết phát triển
kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hóa kinh tế ngày càng ở mức độ cao là tất
yếu khách quan, tạo cơ hội cho nước ta nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn.
Đối với lĩnh vực ngân hàng và tổ chức tài chính thì gặp rất nhiều khó khăn
mặc dù tình hình kinh tế đang có dấu hiệu phục hồi. “Năm 2014,

với nhiều chính sách mới chặt chẽ hơn, tác động lên hoạt động của
toàn bộ hệ thống và tình hình kinh tế vĩ mô còn nhiều khó khăn,
bức tranh lợi nhuận của các ngân hàng vẫn chưa có điểm sáng rõ
rệt. Chỉ số giá cổ phiếu ngành ngân hàng trong một năm qua có
mức tăng trưởng thấp hơn so với VN-Index, đặc biệt trong 6 tháng
trở lại đây.” (Báo tầm nhìn tri thức và phát triển – 2014)
Trước cơ hội và những thách thức lớn như hiện nay, các ngân
hàng và các tổ chức tài chính đã có nhiều nỗ lực trong việc khai
thác các nguồn lực của xã hội để phát triển hoạt động của tổ chức,
công ty mình. Tuy nhiên quá trình khai thác gặp nhiều khó khăn
buộc Nhà nước và các ngân hàng Trung Ương phải đề ra các giải
pháp, công cụ hỗ trợ các tổ chức, các ngân hàng thương mại và
việc sáp nhập và cơ cấu lại là một trong những biện pháp hiệu
quả.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

Từ thực tế, các chính sách của Nhà nước và việc quyết định
sáp nhập cũng như tái cấu trúc các ngân hàng thương mại và các
tổ chức tài chính đã mang lại hiệu quả và đem lại tình hình khả
quan và dấu hiệu phục hồi sau khoảng thời gian khủng hoảng của
hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính tại Việt Nam. Thông
qua việc nghiên cứu đề tài chúng ta hiểu hơn về hiệu quả việc sáp
nhập và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính.

2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
Kế thừa các kết quả nghiên cứu và lý thuyết về tái cấu trúc
và sáp nhập, đề tài nhằm giải quyết các mục tiêu sau đây:
Xác định được nguyên nhân của việc sáp nhập và tái cấu trúc các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính.
Thực trạng trước và sau khi tiến hành sáp nhập các ngân
hàng thương mại và các tổ chức tài chính tại Việt Nam.
Hướng giải pháp cho hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính
Việt Nam giai đoạn mới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản
nhất về cơ cấu lại và sáp nhập các ngân hàng thương mại và các
tổ chức tài chính tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015.
Bài tiểu luận sử dụng số liệu dựa trên các báo cáo tài chính
của các ngân hàng sáp nhập, tái cấu trúc như Maritime Bank, PG
Bank, Southern Bank,...giai đoạn 2010 – 2015 và các tổ chức tài
chính khác có liên quan.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để phân tích cơ cấu của các ngân hàng bị sáp nhập và tìm ra
các giải pháp cũng như đề xuất hướng đi mới cho việc sáp nhập
này, bài tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, sử
GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

10


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401


dụng các số liệu trên báo cáo tài chính để phân tích và đưa ra
hướng giải quyết.
Theo cách tiếp cận này, dựa trên các lý thuyết được xây
dựng, đồng thời kết hợp với các kết quả dưới đây sẽ trả lời cho các
vấn đề mà đề tài đặt ra.

5. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Về mặt lý thuyết: Bài tiểu luận đã tổng quan về lý thuyết cơ cấu và tái cấu
trúc các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, mô hình tái cấu trúc của
các ngân hàng.
5.2 Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu bài tiểu luận có ý nghĩa các mặt sau
đây:
Giúp cho người đọc nhìn nhận lại quá trình tái cấu trúc và cơ cấu lại hệ thống các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính của Việt Nam giai đoạn 2010 –
2015.
Từ kết quả nghiên cứu chúng ta có cái nhìn tổng quan về hệ thống ngân hàng
tại Việt Nam đồng thời đưa ra những nhận định cho sự phát triển của hệ thống ngân
hàng.
6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI:
Kết cấu tiểu luận gồm phần mở đầu, 4 chương và kết luận
Phần mở đầu: giới thiệu sự cần thiết của đề tài, tổng quan về đề tài nghiên
cứu, mục tiêu và đối tượng nghiện cứu, phương pháp và ý nghĩa của đề tài.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về cơ cấu lại, sáp nhập các tổ chức tài chính, các
ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015.
Chương 2: Thực trạng hiện tại về hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

11



Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

Chương 3: Các hoạt động tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng thương mại
và các tổ chức tài chính ở Việt Nam.
Chương 4: Đánh giá hiệu quả của hoạt động tái cấu trúc lại hệ thống ngân
hàng và các tổ chức tài chính ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015 và hướng đi mới
giai đoạn 2015 – 2020.
Chương 5: Kết luận.

CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC
TÀI CHÍNH
1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN CƠ CẤU, TÁI CẤU
TRÚC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH
1.1.1 Khái niệm tái cơ cấu (doanh nghiệp)
Tái cơ cấu là việc xem xét và cấu trúc lại một phần, một số
phần hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị nào đó, mà thường là
một công ty. Ngoài việc tổ chức cho một công ty về các mảng chức
năng (như là sản xuất, kế toán, tiếp thị, v.v...) và xem xét các
nhiệm vụ mà mỗi chức năng thực hiện, theo lý thuyết tái cơ cấu,
chúng ta còn phải chú ý tới các quy trình hoàn thiện từ khâu tìm
kiếm các nguyên liệu, cho tới các khâu sản xuất, tiếp thị và phân
phối.
Việc cơ cấu, tái cấu trúc lại các ngân hàng hay các tổ chức tài chính là tái cấu
trúc ở nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau nhưng trên tổng thể thì cấu trúc tài sản
của doanh nghiệp là bao quát nhất. Cấu trúc tài sản của doanh nghiệp gắn liền với
việc sử dụng vốn, phản ánh và chịu sự tác động của những đặc điểm và chiến lược

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

12


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

kinh doanh của DN. Tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản
dài hạn.
1.1.2 Cấu trúc, cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp
Cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp là cấu trúc, tái cơ cấu lại nguồn vốn
chủ sở hữu.
Đối với nguồn vốn chủ sở hữu. DN không phải cam kết thanh toán, người
chủ sở hữu vốn chỉ kỳ vọng vào lợi ích được mang lại từ hiệu quả hoạt động cuối
cùng của DN. Vốn chủ sở hữu thể hiện phần tài trợ của người chủ sở hữu đối với
toàn bộ tài sản của DN. Vì vậy, khi xét khía cạnh tự chủ về tài chính, nguồn vốn
này thể hiện năng lực vốn có của người chủ sỡ hữu trong tài trợ hoạt động sản xuất
kinh doanh. Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm: Vốn đầu tư của chủ sỡ hữu, thặng dư
vốn cổ phần, vốn khác của chủ sỡ hữu, cổ phiếu quỹ, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự
phòng tài chính, quỹ khác thuộc vốn chủ sỡ hữu, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ
bản, lợi nhuận sau thuế chưa phân phối, nguồn kinh phí quỹ khác,…
1.1.3 Vai trò của cơ cấu lại các ngân hàng thương mại, các
tổ chức tài chính.
Mục tiêu của mọi DN là hoạt động SXKD có hiệu quả và hướng đến sự phát
triển bền vững. Mục tiêu này có đạt được hay không tùy thuộc vào nhiều yếu tố
quan trọng có tính quyết định, một trong số đó là vấn đề tái cấu trúc, sáp nhập các
tổ chức tài chính lại với nhau, hình thành 1 tổ chức vững mạnh và phát huy được
tính hiệu quả, giảm thiểu tối đa chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp. Doanh

nghiệp mạnh khi có cơ cấu, cấu trúc mạnh và đóng góp nhiều cho sự phát triển của
Nhà nước, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước.
1.2 CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA HOẠCH ĐỊNH TÁI CẤU
TRÚC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI, CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH.
1.2.1 Quyền kiểm soát
Khi hoạch định cấu trúc, tái cơ cấu tổ chức là nhằm mục đích duy trì sự ổn
định của ngân hàng, các tổ chức tài chính. Nên việc duy trì quyền kiểm soát của chủ

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

13


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

ngân hàng, chủ các tổ chức tài chính là vô cùng cần thiết khi các tổ chức đi vay từ
các chủ nợ.
1.2.2 Giá trị thị trường – Các rủi ro và tỷ suất sinh lợi
Khi xác lập tại cơ cấu ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính, yếu tố rủi
ro và tỷ suất sinh lợi cần phải được xem chúng tác động như thế nào đến giá cổ
phần và giá thị trường của ngân hàng, tổ chức tài chính. Các nhà đầu tư trên thị
trường sẽ nhìn nhận vào khả năng vốn và suất sinh lời của công ty để đầu tư.
1.2.3 Định thời điểm
Yếu tố thời gian có liên quan mật thiết với khả năng điều động trong việc xác
định loại vốn sử dụng. Một hậu quả quan trọng của khả năng điều động là nó cho
phép chúng ta nắm bắt các cơ hội sẽ cho phép chúng ta tối thiểu hóa tổng chi phí
của nợ và vốn cổ phần thường. Thường thị có thể tiết kiệm được các khoản tiền
đáng kể bằng cách định thời thích hợp cho việc huy động các nguồn vốn thích hợp.


1.3 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC CƠ CẤU LẠI, TÁI CẤU
TRÚC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI, CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH.
1.3.1 Quy mô của ngân hàng, tổ chức tài chính
Quy mô của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính được xem là
một dấu hiệu cho các nhà đầu tư bên ngoài. Các ngân hàng, tổ chức tài chính
thường có khuynh hướng công bố thông tin bên ngoài nhiều hơn. Mặt khác, các tổ
chức tài chính lớn thường niêm yết giá trên thị trường chứng khoán nên dễ dàng
huy động được nhiều nguồn vốn hơn và có khả năng duy trì một tỷ lệ nợ cao. Như
vậy, quy mô của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính có quan hệ thuận
chiều với cấu trúc tài chính của ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính.
1.3.2 Công nghệ khoa học kĩ thuật
Chúng ta cũng biết rằng mỗi tổ chức có thể sẽ áp dụng
những công nghệ khác nhau để hoạt động và kinh doanh. Do đó cơ
cấu tổ chức phải phù hợp với đặc thù công nghệ của doanh
GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

14


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

nghiệp. Hai yếu tố làm cơ sở cho tổ chức quyết định một cơ cấu
phù hợp với công nghệ của mình là tính đa dạng và khả năng phân
tích. Tính đa dạng được hiểu là số trường hợp ngoại lệ so với tiêu
chuẩn đã được đề ra. Tính phân tích đề cập đến quá trình sản xuất
có thể chia thành các bước theo chuyên môn hóa đến mức nào.
Khi tính đa dạng thấp và khả năng phân tích cao, đây là công

nghệ với những công việc lập đi lập lại hàng ngày, ít có ngoại lệ
xảy ra. Doanh nghiệp có thể áp dụng cơ cấu cơ học, tập quyền và
mức độ chính thức hoá, chuyên môn hóa cao.
Khi tính đa dạng cao và khả năng phân tích thấp thì tổ chức cần
một cơ cấu hữu cơ với mức độ chính thức hóa thấp, phân quyền
cao, điều phối chủ yếu dựa trên các nhóm làm việc.
Khi tính đa dạng cao và khả năng phân tích cao, nghĩa là có
nhiều trường hợp ngoại lệ nhưng những trường hợp này có thể giải
quyết được do khả năng phân tích cao. Cơ cấu tổ chức cho dạng
công nghệ này là cơ cấu hữu cơ nhưng có thể chính thức hóa cao
và tập quyền.
Khi tính đa dạng thấp và khả năng phân tích thấp, công việc
trong trường hợp này không phát sinh nhiều trường hợp ngoại lệ
nhưng nếu có thì khả năng giải quyết rất khó. Như vậy, cơ cấu tổ
chức đòi hỏi chính thức hóa cao, tập quyền nhưng cần những nhân
viên có kỹ năng cao để giải quyết vấn đề.
1.3.3. Môi trường bên ngoài
Môi trường bên ngoài đề cập đến những vấn đề liên quan đến
khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh và nguồn tài

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

15


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

nguyên... Chúng ta có thể đánh giá môi trường bên ngoài của tổ

chức dựa trên các đặc điểm: năng động, phức tạp, đa dạng và mức
độ cạnh tranh.
Khi môi trường bên ngoài năng động, tổ chức cần một cơ cấu
hữu cơ để nhanh chóng thích ứng với những thay đổi.
Khi môi trường bên ngoài phức tạp, cơ cấu tổ chức theo dạng
phân quyền có thể sẽ phù hợp vì tính tiếp cận của tổ chức với môi
trường gần hơn, có thể có nhiều thông tin hơn.
Khi môi trường đa dạng, tổ chức nào làm việc trong đặc điểm
môi trường này sẽ đa dạng về sản phẩm, dịch vụ, khách hàng hoặc
phạm vi địa lý.
Càng đa dạng bao nhiêu tổ chức lại càng cần bộ phận hóa theo
sản phẩm.
Khi môi trường mức độ cạnh tranh cao, mức độ cạnh tranh
này bao gồm cả sự khan hiếm về nguồn tài nguyên và nhiều đối
thủ cạnh tranh. Cơ cấu hữu cơ thích hợp với yếu tố môi trường này.
Tuy nhiên khi mức độ cạnh tranh quá cao thì tổ chức tạm thời phải
tập quyền để nhanh chóng ra quyết định và nhà điều hành cảm
thấy dễ dàng kiểm soát hơn.
1.3.4. Chiến lược của tổ chức tài chính, ngân hàng thương
mại
Thông thường tổ chức sẽ lựa chọn một trong 3 dạng chiến
lược sau đây để hoạt động:

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

16


Macroeconomics


Nhóm 7 – K13401

Chiến lược đi đầu trong phát minh (innovation strategy)- theo
chiến lược này, tổ chức sẽ cố gắng giới thiệu những sản phẩm và
dịch vụ mới. Thích ứng với chiến lược này là một cơ cấu hữu cơ với
đặc điểm chuyên môn hóa thấp, chính thức hóa thấp, phân quyền.
Chiến lược cắt giảm chi phí (cost-minization strategy)- chiến
lược này chú trọng đến kiểm soát chi phí chặt chẽ, tránh những chi
phí nghiên cứu và tiếp thị không cần thiết. Để thực hiện được chiến
lược này, tổ chức cần áp dụng cơ cấu cơ học với chính thức hóa
cao, chuyên môn hóa công việc cao, và tập quyền cao.
Chiến lược bắt chước - theo chiến lược này công ty sẽ phát
triển các sản phẩm và dịch vụ mới trên thị trường sau khi khả năng
tồn tại của nó đã được kiểm chứng. Với chiến lược này, cơ cấu tổ
chức vừa hữu cơ, vừa cơ học với đặc điểm kiểm soát chặt chẽ các
hoạt động hiện tại và nới lỏng kiểm soát những công việc kinh
doanh mới.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

17


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HIỆN TẠI VỀ HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC TỔ CHỨC TÀI
CHÍNH GIAI ĐOẠN 2010 – 2015

2.1 THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
Cho đến nay, hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã có
sự phát triển khá mạnh mẽ xét cả về mặt lượng lẫn mặt chất: Nếu như đầu những
năm 1990, tại Việt Nam, 4 NHTMNN chiếm gần như toàn bộ thị trường tiền gửi và
cho vay ở Việt Nam thì cho đến nay, theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN), hiện cả nước có hơn 100 ngân hàng hoạt động. Cùng với đó là việc thành
lập và hoạt động của hàng loạt công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, quỹ
tín dụng từ trung ương tới địa phương. Có thể nói, với thời gian trên 20 năm thực
hiện quá trình đổi mới kinh tế, hệ thống ngân hàng và định chế phi ngân hàng đã có
sự phát triển vượt bậc, đóng góp những vai trò to lớn đối với những thành tựu về
kinh tế - xã hội nước ta những năm qua. Bên cạnh các tổ chức tín dụng (TCTD) còn
có sự hiện diện và ngày càng phát triển của các TCTD phi ngân hàng. Các định chế
tài chính này đã và đang có sự cạnh tranh khá quyết liệt với các NHTM trong một
số lĩnh vực dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các NHTM hiện nay đang gặp một số
vấn đề như sau:
Thứ nhất, năng lực tài chính của hầu hết các NHTM còn rất thấp. Hiện nay,
theo các tư liệu thống kê thì các NHTM Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu của Nghị
định 141. Tuy nhiên, nếu đi sâu xem xét thì có không ít NHTM chưa thực sự đáp
ứng được yêu cầu do tình trạng “sở hữu chéo” rất phức tạp, khó kiểm soát trong nội

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

18


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

bộ hệ thống này mà thực chất là để “lách luật”. Thậm chí do kinh doanh yếu kém

nên có một số NHTM thậm chí còn bị mất hết vốn điều lệ.
Ngoài yếu tố kỹ thuật công nghệ thì cũng không thể không đề cập đến những
bất cập về chất lượng nguồn nhân lực của các NHTM. Do kinh doanh ngân hàng là
kinh doanh trên cơ sở chấp nhận rủi ro, nhưng suy cho cùng thì mọi rủi ro đều xuất
phát từ yếu tố con người, nên để giảm thiểu rủi ro thì chất lượng nguồn nhân lực
trong hệ thống ngân hàng luôn phải hết sức được coi trọng. Thực tế thì chất lượng
nguồn nhân lực ở không ít NHTM Việt Nam chưa thực sự tương thích với việc triển
khai các loại hình dịch vụ mới tuy có nhiều tiện ích nhưng tiềm ẩn rủi ro rất cao.
Hơn nữa, bản thân nhiều loại hình dịch vụ lại chủ yếu dựa trên cơ sở chất lượng
nguồn nhân lực của các NHTM phải cao, thí dụ các dịch vụ về môi giới hay tư
vấn… Rõ ràng là có không ít NHTM Việt Nam chưa có sự chuẩn bị tốt cho vấn đề
này. Với thực trạng chất lượng nguồn nhân lực như vậy, thì sẽ rất khó khăn cho các
NHTM mở rộng các loại hình dịch vụ ngân hàng mới, và có thể nói, nếu các NHTM
càng mở ra các loại hình dịch vụ mới, thì rủi ro tiềm ẩn càng cao. Một thực tế cũng
cần chú ý là chất lượng đào tạo của một bộ phận không nhỏ của các cơ sở đào tạo
trong nước chưa thực sự đáp ứng được kỳ vọng về chất lượng. Trong điều kiện như
vậy, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, không được quản trị đúng mức không có gì là
khó hiểu cả. Nghĩa là, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh hiện nay tại hầu hết các
NHTM Việt Nam có nguyên nhân từ sự hiểu biết chưa sâu nghề kinh doanh ngân
hàng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân viên trong các NHTM. Sự nhận thức
chưa thấu đáo về lĩnh vực kinh doanh, đặc biệt phần lớn cán bộ lại chưa có nhận
thức đúng về vai trò và sự tác động của kinh doanh ngân hàng đối với các hoạt động
kinh tế - xã hội chung, có thể sẽ gây những hậu quả tiêu cực đối với nền kinh tế - xã
hội trên nhiều phương diện.
Thứ hai, hầu hết các NHTM tập trung vào lĩnh vực tín dụng, thể hiện ở tốc
độ tăng trưởng tín dụng khá cao. Cụ thể: năm 2007 tăng 51%; năm 2008: 30%; năm
2009: 37%; năm 2011: 12%. Tuy vậy, có vẻ như trong năm năm 2012 tốc độ này
đang bị kìm hãm khá mạnh3. Theo thống kê, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế hiện ở

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân


19


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

mức khoảng 125 tỷ USD (tương đương 120% GDP) - Một mức dư nợ cho vay quá
cao so với hầu hết các nước khác (Thái Lan 100%, Hàn Quốc 80%...). Dư nợ tín
dụng cao trong khi chất lượng tín dụng lại khá thấp do có không ít NHTM thực hiện
các hoạt động đầu tư có độ rủi ro cao. Cụ thể:
Một số NHTM nhỏ cho vay lĩnh vực bất động sản quá cao (chiếm tới xấp xỉ
50% tổng dư nợ tín dụng). Một số NHTM tồn một tỷ trọng không nhỏ khoản cho
vay bất động sản dưới hình thức các tài sản thế chấp. Do thị trường bất động sản
trầm lắng, nên rủi ro gia tăng trong một bộ phận không nhỏ NHTM.
Một số NHTM không chỉ cho vay mà còn trực tiếp đầu tư vàng, ngoại tệ rủi
ro tiềm ẩn lớn, đồng thời gây rối loạn thị trường, khó khăn cho NHNN trong điều
hành thị trường tiền tệ (những bất ổn trên thị trường vàng gần đây phản ánh rất rõ
thực tế này).
Trong hoạt động cho vay, các NHTM chưa thực sự chú trọng công tác sàng
lọc khách hàng nên chất lượng tín dụng chưa cao. Mặt khác, do lãi suất cho vay khá
cao, vượt quá sức chịu đựng của hầu hết các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh, nên
vốn tín dụng thường không đến đúng các địa chỉ cần thiết (thường là đổ vào các thị
trường bất động sản, vàng, ngoại tệ…), làm giảm hiệu quả nguồn vốn trong nền
kinh tế. Theo thống kê, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam là khá cao
(theo Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình thì nợ xấu hiện nay ở mức khoảng
8,86%, Moody’s đưa ra dự báo con số nợ xấu trên 8,6% trong khi đó tổ chức Fitch
Rating lại dự báo nợ xấu lên đến trên 13%) và tốc độ tăng trưởng nợ xấu hiện vẫn
rất đáng quan ngại.

Hình 1: Tốc độ tăng trưởng nợ xấu trong các NHTM Việt Nam (Đơn vị
nghìn tỷ đồng)

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

20


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

Hình 2: Tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng thương mại (Đơn vị %/tổng dư nợ)

Những phân tích trên cho thấy rằng:
Hiện hệ thống ngân hàng Việt Nam đang có những bất cập không nhỏ,
đặt ra vấn đề cấp thiết phải có giải pháp kiên quyết để xử lý và phải xử lý hiệu quả,
nhằm từng bước làm lành mạnh hóa hoạt động kinh doanh, giúp hệ thống các
NHTM Việt Nam làm tròn chức trách của một trung gian tài chính trong nền kinh
tế. Hơn nữa, vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam còn phải được đặt ra

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

21


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401


bức thiết, xuất phát từ bối cảnh thị trường tài chính quốc tế diễn biến ngày càng
phức tạp, đã và đang tác động rất bất lợi đến môi trường tài chính trong nước, trong
khi đó, bản thân các định chế tài chính trong nước còn khá nhiều yếu kém và bất
cập, khó khăn trong việc cải thiện và tăng cường năng lực cạnh tranh trong quá
trình hội nhập tài chính khu vực và quốc tế;
Môi trường tín dụng có sự thay đổi căn bản không chỉ từ sự gia tăng khá ồ ạt
số lượng các NHTM và mức độ khá “đậm đặc” các chi nhánh, phòng giao dịch đã
và đang gây khó khăn trong công tác quản lý vĩ mô hệ thống tiền tệ ngân hàng và
thanh toán.
Sự hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao gắn với các cuộc “chạy đua” về tăng lãi suất
huy động của hệ thống ngân hàng Việt Nam thời gian qua làm tăng chi phí về vốn
và lãi suất cho vay vượt quá sức chịu đựng của nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh
doanh (những quyết sách của NHNN thời gian qua nhằm uốn nắn thị trường tín
dụng và đưa lãi suất về mức thị trường có thể chấp nhận được, song điều này có vẻ
như khó khăn).
Ðiều này đang tiếp tục đặt ra vấn đề cấp bách phải có giải pháp mạnh nhằm
tiếp tục chấn chỉnh thị trường nếu như không muốn làm suy giảm thêm niềm tin của
công chúng về khả năng có thể làm tròn bổn phận hay không của một trung gian tài
chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế này. Không những thế, các cú sốc trên
thị trường ngoại tệ trước đây hay thị trường vàng những ngày qua đã cho thấy rằng
hệ thống các định chế tài chính tại Việt Nam chưa thực sự làm “tròn vai” của mình
trong việc kiểm soát sự ổn định của các thị trường này.
Như trên đã phân tích cho thấy rằng, hiện hệ thống ngân hàng Việt Nam
đang có khá nhiều bất cập cần phải nhanh chóng xử lý nhằm làm lành mạnh hóa
hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, do đặc điểm hoạt động của hệ thống ngân hàng là
kinh doanh trong lĩnh vực nhạy cảm và có liên quan mật thiết đến hầu hết các tổ
chức và cá nhân trong xã hội; hơn nữa, sự hoạt động của chúng luôn mang tính chất

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân


22


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

quốc tế hóa nên bất cứ một sự cải cách nào đối với hệ thống này cần phải hết sức
thận trọng. Bởi nếu không như vậy thì cái giá phải trả sẽ rất lớn về kinh tế và xã hội.
2.2 THỰC TRẠNG CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
2.2.1 Khái quát về các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Dưới sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, bản thân các chủ thể
của nó cũng có những bước phát triển không ngừng. Các hoạt động của hệ thống
ngân hàng càng được mở rộng về tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, từ các hình
thức mang tính chất ngắn hạn đến trung và dài hạn… Đồng thời chúng đã được
chuyên môn hóa theo các lĩnh vực khác nhau để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tuy nhiên trước sự phát triển rất mạnh của thị trường tài chính, có những
nơi, những lĩnh vực mà bản thân các ngân hàng không thể bao quát hết, vì thế đòi
hỏi phải có những tổ chức nhất định đảm nhận công việc này. Đó là các tổ chức tài
chính phi ngân hàng. “Những tổ chức này kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - tiền
tệ, được thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhưng không được nhận tiền gửi
không kỳ hạn và không cung cấp hệ thống thanh toán”.
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng có đặc điểm khác biệt với các ngân hàng
ở chỗ: Chúng không nhận tiền gửi không kỳ hạn, chỉ được nhận tiền gửi có kỳ hạn
nhất định, không được làm các dịch vụ thanh toán như các ngân hàng. Do đó chúng
không tham gia quá trình tạo tiền gửi và không bị điều hành chặt chẽ của Ngân
hàng Trung ương như các Ngân hàng Thương mại. Với đặc thù của mình, chúng đã
đưa các khoản tiết kiệm nhỏ lẻ vào phục vụ quá trình sản xuất và đời sống theo các
hoạt động thế mạnh của mình như: chứng khoán, cho vay tiêu dùng, thế chấp đồng
thời làm các dịch vụ như: môi giới, đại lý.Với những đặc thù của mình, các tổ chức

tài chính phi ngân hàng có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội.Chúng
góp phần làm đa dạng hóa các dịch vụ, tài chính cho nền kinh tế, đem lại những lợi
ích thiết thực: tạo cơ hội sinh lời cho các nguồn tiết kiệm nhỏ lẻ thúc đẩy cạnh tranh
và tiến bộ tài chính…

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

23


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

2.2.2 Thực trạng về cơ cấu các tổ chức tài chính phi ngân
hàng (TCTCPNH) ở Việt Nam
Nếu như từ 1992 trở về trước, cả nước chỉ có 2 công ty tài chính, 2 công ty
bảo hiểm thì đến năm 2001 đã có 7 công ty tài chính; 8 công ty cho thuê tài chính;
18 công ty bảo hiểm; 8 công ty chứng khoán. Ngoài ra, còn có các công ty đầu tư,
quĩ đầu tư, quĩ tiết kiệm bưu điện (Quĩ này đã sáp nhập vào NHTMCP Liên Việt).
Số lượng các TCTCPNH hoạt động trên thị trường Việt Nam thường xuyên thay đổi
theo thời gian, và đã có sự tăng lên đáng kể so với đầu những năm 2000. Tính đến
nay, tại Việt Nam có sự hiện diện của 18 công ty tài chính, 12 công ty cho thuê tài
chính, 105 công ty chứng khoán, 78 công ty môi giới chứng khoán, 2 công ty bảo
hiểm nhà nước, 16 công ty cổ phần bảo hiểm, 3 công ty liên doanh bảo hiểm, 17
công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài, 1 công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia,
10 công ty môi giới bảo hiểm. Một thực tế là sự cạnh tranh giữa các tổ chức tài
chính trong lĩnh vực huy động vốn và cho vay diễn ra rất quyết liệt, khiến môi
trường tín dụng trong nhiều giai đoạn là rất bất ổn. Hơn nữa, cũng cần một lưu ý là
sự cạnh tranh quá mức lại chủ yếu tập trung tại một số khu vực đô thị lớn như TP.

Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh, trong khi đó tại hầu hết các khu vực nông thôn thì sự
hoạt động của các tổ chức tín dụng lại rất mờ nhạt.
Tuy nhiên, nhìn chung các TCTCPNH đang dần chiếm vị thế cao trong hệ
thống tài chính của Việt Nam. Đáng chú ý là tài sản của các ngân hàng thương mại
(NHTM) cổ phần giảm nhẹ 0,47% trong giai đoạn này, trong khi tài sản của các loại
hình TCTCPNH khác đều tăng, trong đó loại hình công ty tài chính và cho thuê
tăng mạnh nhất với mức 11%.

GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

24


Macroeconomics

Nhóm 7 – K13401

Hình 3: Tổng tài sản của các tổ chức tín dụng năm 2015. (Đơn vị: Tỷ đồng)

CHƯƠNG 3: CÁC HOẠT ĐỘNG TÁI CẤU TRÚC, SÁP
NHẬP
3.1 GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
NHNN trong thời gian qua đã tích cực áp dụng biện pháp phân nhóm và cho
sáp nhập các ngân hàng hoạt động yếu kém vốn là một biện pháp thường được sử
dụng theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, có thể thấy các giải pháp sáp nhập ngân
hàng đang được thực hiện thiên về giải pháp ngắn hạn, nhằm giải quyết yếu kém về
thanh khoản cho một số ngân hàng yếu. Mặt khác, thách thức lớn nhất trong quá
trình cải tổ hệ thống ngân hàng là tạo được lợi thế cạnh tranh cũng như động lực
phát triển cho mỗi ngân hàng. Hầu hết các ngân hàng Việt Nam hiện nay đang áp
dụng một chiến lược giống nhau về mở rộng các chi nhánh theo khu vực địa lý

nhằm cung cấp những sản phẩm và dịch vụ tương đồng. Các ngân hàng cạnh tranh
với nhau chủ yếu dựa trên chính sách giá hơn là đa dạng hóa danh mục sản phẩm
cung cấp. Việc hợp nhất các ngân hàng sẽ góp phần tăng khả năng cạnh tranh cũng
như hiệu quả hoạt động, tuy nhiên đó không phải là mục tiêu cốt lõi của quá trình
tái cơ cấu. Có một thực tế là nhiều ngân hàng nhỏ vẫn hoạt động tốt hay việc nhiều
GVHD: TS. Nguyễn Văn Luân

25


×