Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.8 KB, 68 trang )

Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân
người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở
hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân. Những
quyền ấy luôn được pháp luật của nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo vệ. Ngày
nay, do quá trình hợp tác, mở rộng quan hệ, hội nhập quốc tế, giao lưu với các nước diễn ra ngày
càng mạnh mẽ, đa dạng nên quan hệ thừa kế cũng không ngừng phát triển và hình thành nên quan
hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Ở nước ta, từ năm 1945 đến nay pháp luật thừa kế được xây dựng và hoàn thiện phù
hợp với các quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), theo đó quyền và lợi ích về tài sản của
công dân được chú ý bảo vệ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Lịch sử đã cho thấy rằng, quyền thừa kế nói chung và quyền thừa kế theo pháp luật nói riêng
của công dân Việt Nam có sự biến đổi theo hướng ngày càng mở rộng và có sự phụ thuộc vào
thành quả phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ và được mở rộng tương ứng với quan
điểm, cách nhìn nhận đúng đắn hơn đối với mối quan hệ giữa người có tài sản để lại và những
người thừa kế.
Trên thế giới nói chung, chế định thừa kế là một trong những chế định quan trọng của
pháp luật dân sự các nước. Trong tư pháp quốc tế nó vẫn giữ nguyên vai trò của nó nhưng
được nhìn nhận với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khi: ít nhất một trong các bên để lại
thừa kế hoặc bên nhận thừa kế là người nước ngoài hoặc thường trú ở nước ngoài; tài sản thừa
kế tồn tại ở nước ngoài; di chúc được lập ở nước ngoài. Hội nhập vào sự phát triển chung của
nền kinh tế - xã hội thế giới, pháp luật Việt Nam cũng từng bước phát triển về các vấn đề dân sự
có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài nói riêng. Bộ luật dân sự
1995 ra đời và ghi nhận một loạt các quy phạm pháp luật điều chỉnh về các vấn đề dân sự có yếu
tố nước ngoài, làm tiền đề quan trọng cho việc xây dựng nên các quy định điều chỉnh về quan hệ
thừa kế có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
nói riêng.


Đến Bộ luật dân sự 2005, chế định thừa kế có yếu tố nước ngoài đã được quy định trong
hai điều luật, đó là Điều 767 và Điều 768 lần đầu tiên pháp luật dân sự của nước ta đã đưa quy

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

1

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
định về thừa kế có yếu tố nước ngoài và vấn đề thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài vào
Bộ luật dân sự thành các điều luật cụ thể. Với những lý do vừa nêu người viết chọn đề tài “Pháp
luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài” làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đối với đề tài: “Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước
ngoài”, người viết đi vào tìm hiểu những vấn đề khái quát chung về quan hệ thừa kế theo pháp
luật có yếu tố nước ngoài như: Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của quan hệ thừa kế theo pháp
luật có yếu tố nước ngoài; lịch sử hình thành và phát triển các chế định về quan hệ thừa kế
theo pháp luật có yếu tố nước ngoài; những đặc trưng cơ bản về quan hệ thừa kế theo pháp luật
có yếu tố nước ngoài; phương pháp điều chỉnh và nguồn của luật điều chỉnh về quan hệ thừa
kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài; nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ
thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, người viết còn phân tích các vấn đề về
thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005
như: Di sản có người thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài; di sản không người thừa kế
trong quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài; phân chia di sản thừa kế trong quan
hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài; thừa kế thế vị trong quan hệ thừa kế theo pháp
luật có yếu tố nước ngoài; thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế theo pháp luật có yếu
tố nước ngoài. Qua đó, người viết cũng tìm hiểu một số thực trạng và hướng hoàn thiện về

quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu đề tài này người viết muốn làm rõ các khái niệm và đặc điểm
của quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài, phân tích các quy định của pháp luật
Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài, tìm hiểu những vướng mắc
của pháp luật hiện hành về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài qua đó đưa ra một số
giải pháp, kiến nghị của bản thân để góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được người viết nghiên cứu bằng các phương pháp như: phương pháp phân
tích luật học; phương pháp phân tích - so sánh; phương pháp khảo sát, phương pháp tổng hợp;
phương pháp trích dẫn, nhằm hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh về
quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài mà cụ thể là thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước
ngoài.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

2

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
5. Bố cục đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành ba
chương:
Chương 1: Khái quát chung về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài;
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước
ngoài;
Chương 3: Thực trạng và hướng hoàn thiện về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu
tố nước ngoài.


GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

3

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm về quan hệ thừa kế theo pháp luật và quan hệ thừa kế theo pháp
luật có yếu tố nước ngoài
1.1.1. Khái niệm về quan hệ thừa kế theo pháp luật
Trong bất cứ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng
trong các chế định pháp luật là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền của công dân.
Ngay trong thời kỳ cộng sản nguyên thủy với nền sản xuất đơn giản lao động chân tay chủ yếu
là săn bắt và hái lượm thì các quan hệ về sở hữu cũng bắt đầu xuất hiện. Quá trình sản xuất ra
của cải vật chất bắt đầu xuất hiện việc chiếm hữu của cải vật chất trong xã hội đó là tiền đề
đầu tiên để làm xuất hiện quan hệ thừa kế. Ngay trong thời kỳ này, các bộ lạc, thị tộc theo chế
độ mẩu quyền, khi một người phụ nữ chết thì tài sản của người đó sẽ được trao lại cho những
người bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết thống với người mẹ 1.
Ở thời kỳ này, việc thừa kế nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống
được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục tập quán riêng của từng
bộ lạc, thị tộc quyết định. Như vậy, ta có thể thấy thừa kế là một phạm trù kinh tế, nó có mầm
móng và xuất hiện từ xa xưa, khi xã hội loài người bắt đầu xuất hiện sự chiếm hữu vật chất.
Quan hệ thừa kế và quan hệ sỡ hữu có mối quan hệ mật thiết và chặt chẽ với nhau, chúng xuất
hiện cùng nhau và cùng phát triển với sự phát triển của xã hội loài người.
Theo quan điểm của Ăng-ghen: “Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của người chết

cho người còn sống”, Thông qua các quy định về thừa kế, ta có thể định nghĩa thừa kế như
sau: Thừa kế là tổng hợp các quy định pháp luật điều chỉnh sự chuyển lại tài sản của người đã
chết cho người khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Thừa kế di sản theo quan
hệ pháp luật dân sự chính là sự chuyển dịch tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ
chức có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế có quyền trở thành chủ sở hữu của tài sản theo di
chúc hoặc theo pháp luật. Sự chuyển dịch di sản của người chết sang người sống được thực
hiện bởi hai căn cứ: Nếu căn cứ theo ý chí, nguyện vọng của người đã chết thì được gọi là thừa
kế theo di chúc; Nếu người chết không để lại di chúc thì căn cứ theo các quy định của pháp
luật để chia thừa kế, trường hợp này được gọi là thừa kế theo pháp luật. Ở đây, người viết đi
1

Đinh Văn Thanh – Nguyễn Minh Tuấn, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, năm 2004, tr.463

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

4

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
sâu vào nghiên cứu vấn đề thừa kế theo pháp luật: “Thừa kế theo pháp luật chính là sự chuyển
dịch tài sản và quyền sỡ hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân người có quyền
hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế, người thừa kế trở thành chủ sở hữu của
tài sản được hưởng theo pháp luật”.
Như vậy, thừa kế di sản theo pháp luật là loại hình thừa kế di sản tuân theo các
nguyên tắc, điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, mà không phụ thuộc vào sự
định đoạt ý chí của người có tài sản để lại.
1.1.2. Khái niệm về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Như đã trình bày ở trên, thừa kế theo pháp luật chính là sự chuyển dịch tài sản và

quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân người có quyền hưởng thừa kế
theo quy định của pháp luật về thừa kế, người thừa kế trở thành chủ sở hữu cùa tài sản được
hưởng theo pháp luật.
Ở nước ta, thừa kế có yếu tố nước ngoài là một chế định pháp luật lần đầu tiên được
đưa vào Bộ luật dân sự 2005 là hình thức thừa kế còn rất mới mẽ và vẫn còn nhiều hạn chế
trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Tuy thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài đã được cụ
thể hóa ở Điều 767 quy định về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nhưng đến nay
vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào định nghĩa cụ thể về quan hệ thừa kế theo pháp luật có
yếu tố nước ngoài. Do quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài là một trong những quan hệ dân
sự theo nghĩa rộng nên ta có thể hiểu khái niệm quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài thông
qua điều 758 Bộ luật dân sự 2005: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự
có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan. tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia, là công dân, tổ
chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngoài phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
Dựa vào điều 758 BLDS năm 2005 và thừa kế theo pháp luật ta có thể định nghĩa về
quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài như sau:
Quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài là quan hệ thừa kế theo pháp
luật mà trong đó có ít nhất một trong các bên tham gia vào quan hệ đó là cá nhân nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa các bên tham
gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp
luật nước ngoài, phát sinh tại tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó (di sản
thừa kế) ở nước ngoài.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

5

SVTH: Trần Quốc Hùng



Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Như vậy, khác với quan hệ thừa kế khác trong dân sự, một quan hệ thừa kế theo pháp
luật chỉ được xem là có yếu tố nước ngoài và thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế khi có
một trong các yếu tố: về mặt chủ thể có ít nhất một trong các bên tham gia vào quan hệ thừa kế
theo pháp luật là cá nhân người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài; về mặt
khách thể di sản thừa kế nằm ở nước ngoài; về mặt sự kiện pháp lý căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển các chế định về quan hệ thừa kế theo pháp
luật có yếu tố nước ngoài
Cũng như các lĩnh vực khác trong ngành luật Việt Nam, pháp luật về thừa kế nói
chung và thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nói riêng cũng có quá trình hình thành
và phát triển thông qua các giai đoạn lịch sử.
1.2.1. Giai đoạn trước ngày Bộ luật dân sự 1995 có hiệu lực
Trong giai đoạn nhà nước phong kiến, chế định về thừa kế có yếu tố nước ngoài
không được đề cập đến và luật dân sự Việt Nam không được tách ra một bộ luật riêng mà
được tìm thấy trong các điều khoản của các bộ luật Phong kiến như: Lê Triều hình luật (luật
Hồng Đức), Nguyễn Triều hình luật (Hoàng Việt luật lệ). Chế định và những quy định về thừa
kế có yếu tố nước ngoài thời kỳ phong kiến chưa được nhắc đến.
Thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam là một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến nên hệ
thống pháp luật trong giai đoạn này là công cụ hỗ trợ đắc lực cho thực dân Pháp nhằm thực
hiện triệt để chính sách khai thác thuộc địa. Vì vậy, pháp luật dân sự ở nước ta thời kỳ này
chứa đựng bản chất thực dân - phong kiến khá rõ nét. Thực dân Pháp đã chia nước ta làm ba
kỳ để dễ cai trị và nhằm chia rẽ dân tộc. Khi đó các bộ luật dân sự cũng lần lượt xuất hiện và
được áp dụng chia rẽ ở ba kỳ: ở Nam Kỳ có bộ luật dân sự Nam kỳ giản yếu ra đời năm 1883,
Bắc Kỳ có bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931, Trung Kỳ có bộ luật dân sự Trung Kỳ hay còn gọi là
Hoàng Việt Trung Kỳ bộ luật năm 1936. Tuy nhiên các bộ luật dân sự thời kỳ này còn bộc lộ
khá nhiều hạn chế, cụ thể trong chế định thừa kế như tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn được
quy định trong điều khoản pháp luật, quyền bình đẳng về thừa kế không được đảm bảo, quyền
thừa kế của người vợ bị hạn chế. Người vợ không có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản

của riêng mình, nếu không được chồng cho phép.2
Nhìn chung, các quy định về quan thừa kế trong giai đoạn này mang đậm nét tư tưởng
phong kiến, riêng về quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài không được đề cập đến.
2

Phùng Quang Tập, Sách chuyên khảo Luật thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội, năm 2008, tr.296

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

6

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta - kỷ
nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự ra đời của nhà
nước non trẻ, pháp luật của chế độ mới cũng được hình thành và phát triển, trong đó quyền
thừa kế của công dân cũng được coi trọng. Pháp luật về thừa kế của Nhà nước ta đã xóa bỏ
những tàn tích của chế độ phong kiến trong quan hệ thừa kế và thiết lập mối quan hệ bình
đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, giữa các con trong gia đình. Loại bỏ tư tưởng gia
trưởng trọng nam khinh nữ, bảo vệ quyền thừa kế của người vợ góa và người con gái đã kết
hôn, người vợ góa dù đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản của người chồng. 3
Trong giai đoạn này, nước ta đã ban hành ra sắc lệnh, Thông tư quy định về thừa kế điển hình
như là: Sắc lệnh ngày 10/10/1945 cho phép áp dụng luật lệ của chế độ cũ về thừa kế ngoại trừ
những điều khoản trái với nền độc lập dân tộc và dân chủ của nước ta đến khi có bộ luật thống
nhất cả nước. Sắc lệnh 97 ngày 22/05/1950 đã sửa đổi một số điều trong các bộ luật dân sự cũ.
Theo đó, Điều 10 Sắc lệnh 97 quy định về quyền bình đẳng của vợ chồng trong gia đình: “Vợ
chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau; con trai, con gái đều có quyền hưởng di sản thừa kế
của cha mẹ; chồng hoặc vợ và các con đã thành niên có quyền xin chia tài sản thuộc sở hữu

chung, quyền nhận hay không nhận di sản thừa kế của con cháu hoặc vợ chồng của người
chết được đưa vào quy định, các chủ nợ của người chết không được đòi nợ quá số di sản để
lại.” Đặc biệt, Sắc lệnh 97 đã cụ thể hóa Điều 9 Hiến pháp 1946 “Đàn bà ngang quyền đàn
ông về mọi phưomg diện”. Ngày 18/9/1956, Thông tư 1742 do Bộ tư pháp ban hành hướng
dẫn giải quyết thống nhất tranh chấp về thừa kế căn cứ vào quy định của Hiến pháp 1946 và
tinh thần Sắc lệnh 97. Thông tư 1742 quy định diện những người thừa kế theo pháp luật bao
gồm: vợ (chồng), các con đẻ, các con nuôi, cháu, chắc, cha mẹ của người để lại di sản và
những người thừa kế khác. Nhưng Thông tư lại không xác định rõ những người thừa kế khác
là ai nên trong thời kỳ này anh, chị, ông, bà không thuộc diện thừa kế. Thông tư 594 xác định
diện thừa kế bao gồm: Vợ góa (cả vợ và vợ lẽ); con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ
nuôi, ông bà nội, ông bà ngoại; anh chị em ruột và anh chị em nuôi. Thông tư này đã đưa được
anh chị em và ông bà vào diện thừa kế nhưng lại loại bỏ cháu, chắt ra khỏi diện thừa kế. Ngoài
ra, trong giai đoạn này còn ban hành Thông tư 81 xác định cơ sở pháp lý của việc thừa kế theo
pháp luật là ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Tuy nhiên, pháp luật nước ta
thời kỳ này chỉ đề cập trên nguyên tắc chung nhất, còn thiếu những quy định chi tiết, đặc biệt

3

Phùng Quang Tập, Sách chuyên khảo Luật thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội, năm 2008, tr.298

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

7

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
là các quy phạm xung đột để làm cơ sở giải quyết đối với những vụ việc cụ thể về quan hệ
thừa kế có yếu tố nước ngoài.

Pháp lệnh về thừa kế do Hội đồng nhà nước ban hành vào ngày 30/8/1990 là văn bản
pháp lý đầu tiên quy định tương đối đầy đủ về thừa kế ở nước ta. 4 Nội dung của pháp lệnh thừa
kế đã mở rộng thêm phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật và được xếp theo
thứ tự ba hàng thừa kế. Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản
theo bàng hệ đã được mở rộng sang hai đời (bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột) của
người chết là cháu và ngược lại. Điểm mới của pháp lệnh thừa kế năm 1990 so với các văn bản
trước là quy định về quyền thừa kế của một người đang là con nuôi của người khác được thừa
kế theo pháp luật của cha, mẹ nuôi và được thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ đẻ mà thông tư
số 81- Tòa án nhân dân tối cao đã tước quyền này của họ. 5 Tuy nhiên, đó chỉ là những quy
định chung về thừa kế chứ chưa hề có những quy định chi tiết để giải quyết các mối quan hệ
phát sinh trong lĩnh vực thừa kế có yếu tố nước ngoài.
1.2.2. Giai đoạn Bộ luật dân sự 1995 có hiệu lực đến trước ngày Bộ luật dân sự
2005 có hiệu lực
Bộ luật dân sự 1995 được thông qua ngày 28/10/1995 quy định cụ thể về thừa kế tại
phần thứ tư, phần này gồm 56 Điều từ Điều 634 đến Điều 689. Bộ luật dân sự 1995 có bước
tiến vượt bậc so với các văn bản pháp luật trước đây khi một loạt các quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài được điều chỉnh bởi các quy phạm xung đột nhưng chế định về “thừa kế có yếu tố
nước ngoài” còn để trống. Bộ luật dân sự 1995 không quy định trực tiếp diện thừa kế nhưng
dựa vào hàng thừa kế theo pháp luật và những người thừa kế vị có thể xác định diện thừa kế.
Quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế của công dân Việt Nam được cụ thể hóa trong bộ luật
dân sự 1995 khẳng định quyền thừa kế của công dân được nhà nước bảo hộ và không ngừng
được đổi mới để phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước qua từng giai đoạn. Theo điều
830 bộ luật dân sự năm 1995 quy định: “Người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại
Việt Nam, trừ trường hợp bộ luật này, các văn bản pháp luật khác của nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác”. Như vậy, có thể thấy nhà nước Việt Nam áp dụng chế
độ đãi ngộ như công dân Việt Nam để quy định về năng lực pháp luật dân sự của người nước
ngoài. Khoản 2 Điều 17 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định nội dung năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân thì cá nhân có “Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản”.
4


Hội đồng Nhà nước – Theo Hiến pháp Việt Nam năm 1980, là chủ tịch tập thể nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Chế độ hội đồng Nhà nước tồn tại từ năm 1980 đến năm 1992
5
Phùng Quang Tập, Sách chuyên khảo Luật thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội, năm 2008, tr.304

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

8

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Qua những quy định trên, có thể khẳng định quyền thừa kế của người nước ngoài là
một trong những nội dung quan trọng của năng lực pháp luật dân sự của người nước ngoài
được pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo hộ.
Nhìn chung, sau mười năm thi hành Bộ luật dân sự 1995 đã bộc lộ nhiều hạn chế như:
Một số quy định không phù hợp với chuyển biến nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, quy
định không rõ ràng và còn mang tính chất hành chính, chưa tương thích với những điều ước
quốc tế hay thông lệ quốc tế.
Về nguyên tắc chung thì trong Bộ luật dân sự năm 1995 không có quy định nào về
quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, Bộ luật dân sự năm
1995 tuy không quy định cụ thể nhưng từ các quy định có tính chất nguyên tắc trong hiến pháp
1992 cũng như các văn bản pháp luật liên quan thì quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài vẫn
được pháp luật Việt Nam bảo hộ.
1.2.3. Giai đoạn Bộ luật dân sự 2005 có hiệu lực đến nay
Trước những hạn chế của bộ luật dân sự 1995, Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự
2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. Lần đầu tiên quan hệ thừa kế theo pháp luật có
yếu tố nước ngoài được quy định trong Điều 767 quy định về thừa kế theo pháp luật có yếu tố
nước ngoài.

Quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 767 Bộ
luật dân sự năm 2005 quy định như sau:
“Thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản
thừa kế có quốc tịch trước khi chết; Quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp
luật của nước nơi có bất động sản đó; Di sản không có người thừa kế là bất động sản thuộc về
Nhà nước nơi có bất động sản đó; Di sản không có người thừa kế là động sản thuộc về Nhà
nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết.”6
Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài lần đầu tiên được pháp luật quy định. Tuy vẫn
có không ít mâu thuẫn giữa luật nội dung và luật hình thức khiến việc trực tiếp áp dụng pháp
luật gặp những khó khăn nhất định trong việc xác định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
nhưng nhìn chung Bộ luật dân sự 2005 ra đời đã bổ sung và khắc phục kịp thời những thiếu
xót của pháp luật thời điểm này, đó được coi là một bước tiến quan trọng trong tiến trình hội
nhập quốc tế của nước ta.

6

Điều 767 Bộ luật hình sự năm 2005

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

9

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
1.3. Những đặc trưng cơ bản về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước
ngoài
1.3.1. Về chủ thể
Trong tư pháp quốc tế, chủ thể là yếu tố cơ bản trong ba yếu tố góp phần quyết định

việc xác định quan hệ thừa kế là một quan hệ thừa kế đơn thuần hay là một quan hệ thừa kế có
yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nói riêng.
Về vấn đề chủ thể của quan hệ pháp luật thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài,
theo pháp luật Việt Nam:
- Cá nhân
Cá nhân tham gia vào quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài bao gồm
công dân Việt Nam và người nước ngoài.
+ Công dân Việt Nam: khi muốn tham gia vào quan hệ dân sự nói chung và quan hệ
thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nói riêng thì cá nhân đó phải có tư cách chủ thể
(năng lực pháp luật và năng lực hành vi) của người đó.
Điều 17 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân Việt Nam là nười có quốc tịch
Việt Nam”. Theo đó một người có quốc tịch Việt Nam nếu rơi vào trường hợp sau:
- Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là
công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam.7
- Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha hoặc mẹ là
công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam
còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam.8
- Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân
nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời
điểm đăng ký khai sinh cho con. Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà
cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt
Nam.9
- Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là người không
quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam.10

7

Điều 15 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008
Khoản 1 Điều 16 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008
9

Khoản 2 Điều 16 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008
10
Khoản 1 Điều 17 Luật quốc tịch Việt nam năm 2008
8

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

10

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
- Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có mẹ là người không quốc
tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam.11
Đồng thời, theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 thì công dân Việt Nam muốn
tham gia vào quan hệ dân sự nói chung và quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
nói riêng thì cá nhân đó phải có đầy đủ tư cách chủ thể. Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Bộ
luật dân sự 2005 như sau: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân
có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự”. Cũng theo điều luật trên Bộ luật dân sự 2005 còn quy
định ”Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết”. Ngoài năng lực pháp
luật Bộ luật dân sự 2005 cũng đề cập đến “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng
của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 17 Bộ
luật dân sự 2005). Đáp ứng được yêu cầu về tư cách chủ thể theo Bộ luật dân sự 2005 công
dân Việt Nam có đủ tư cách tham gia vào quan hệ thừa kế theo pháp luật trong tư pháp quốc
tế.
+ Người nước ngoài: là một trong những chủ thể cơ bản của quan hệ pháp luật Tư
pháp quốc tế nói chung và quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nói riêng. Pháp
luật của hầu hết các nước trên thế giới đều lấy dấu hiệu quốc tịch làm căn cứ để định nghĩa

người nước ngoài, Việc xác định cá nhân là người nước ngoài được quy định cụ thể bằng các
điều luật ở mỗi nước.
Để tham gia vào quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài thì người nước
ngoài cũng phải có đầy đủ năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và năng lực hành vi). Ở các
quốc gia khác nhau thì các quy định về năng lực pháp luật và năng lực hành vi cũng có sự
khác nhau vì vậy dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý của Việt Nam cũng như ở một số nước đều quy
định rằng năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng của người đó được hưởng những quyền
và gánh vác những nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Để giải quyết xung đột pháp luật về
năng lực pháp luật dân sự của công dân nước ngoài, pháp luật các nước thường quy định người
nước ngoài có năng lực pháp luật ngang với công dân nước sở tại theo nguyên tắc đãi ngộ như
công dân.

11

Khoản 2 Điều 17 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

11

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Khoản 2 Điều 761 Bộ luật dân sự 2005 quy định “Người nước ngoài có năng lực
pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác”.
Theo pháp luật Việt Nam và theo các Hiệp định tương trợ tư pháp ký với các nước,
năng lực hành vi được xác định theo pháp luật của nước mà đương sự là công dân (áp dụng hệ

thuộc Luật quốc tịch). Ví dụ: theo khoản 1 Điều 761 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Năng lực
pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà
người đó có quốc tịch”. Nhưng nếu việc thực hiện, xác lập các quan hệ thừa kế có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam thì xác định theo pháp luật Việt Nam.
Tóm lại, hầu hết pháp luật của các quốc gia định nghĩa người nước ngoài đều dựa vào
quốc tịch. Có những quốc gia thừa nhận một người có thể có hai hay nhiều quốc tịch, có
những quốc gia chỉ thừa nhận một quốc tịch duy nhất. Nhìn chung một người đủ tư cách tham
gia vào quan hệ dân sự trong Tư pháp quốc tế đều có thể gọi là người nước ngoài.
+ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài: Yếu tố về cá nhân trước hết được khẳng
định đầu tiên trong việc tìm ra đó là công dân nước nào, xác định theo yếu tố chủ thể tham gia
vào quan hệ thừa kế là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, đây là yếu tố được xem xét
dựa trên tiêu chí Luật quốc tịch, đối với việc định cư ở nước ngoài được xem xét đến như một
điều kiện sinh sống của quá trình di dân chẳng hạn, hoặc điều kiện sinh sống của công dân,
việc định cư được xem xét đến dựa vào hệ thuộc luật cư trú. Trong hệ thống pháp luật Việt
Nam tiêu chí khẳng định người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quy định tại khoản 3,4
Điều 3 Luật quốc tịch năm 2008: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt
Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài và người gốc Việt Nam
định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc
tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh
sống lâu dài ở nước ngoài”. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng được điều chỉnh tại
khoản 3 Điều 3 Nghị định 138/2006 NĐ-CP: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là người
có quốc tịch Việt Nam và người gốc Việt Nam đang cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước
ngoài”.
Xác định yếu tố quốc tịch để xem đó là công dân Việt Nam sẽ được khẳng định trong
trường hợp người đó chưa thôi quốc tịch Việt Nam hoặc chưa bị tước quốc tịch Việt Nam theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khi đó người đó vẩn mang quốc tịch Việt

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

12


SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Nam và là công dân Việt Nam nhưng về tiêu chí cư trú thì người đó đang sinh sống, định cư ở
nước ngoài.
+ Quốc gia: Quốc gia là một chủ thể đặc biệt tham gia vào quan hệ thừa kế có yếu tố
nước ngoài, khi tham gia vào bất cứ quan hệ dân sự nào trong tư pháp quốc tế thì quốc gia đều
được hưởng quy chế pháp lý đặc biệt, một chủ thể chỉ được gọi là quốc gia khi đáp ứng đầy đủ
các điều kiện sau: lãnh thổ, dân cư và chính quyền. Chính vì vậy, quốc gia này hoặc cơ quan
có thẩm quyền bất kỳ không có quyền xét xử quốc gia khác nếu bỏ qua nguyên tắc này sẽ dẫn
đến tình trạng chà đạp chủ quyền xúc phạm danh dự và phẩm giá của quốc gia. Nói đến quy
chế pháp lý đặc biệt của quốc gia trong tư pháp quốc tế tức là nói đến quyền miễn trừ tư pháp
tuyệt đối của quốc gia. Quyền này bao gồm ba quyền sau:
Thứ nhất, quyền miễn trừ xét xử: không có bất cứ tòa án nào có quyền xét xử quốc
gia đồng thời cá nhân và tổ chức cũng không có quyền gửi đơn kiện quốc gia nếu quốc gia
không tuyên bố từ bỏ quyền miễn trừ xét xử của mình. Trong trường hợp này, các tranh chấp
giữa cá nhân hay tổ chức với quốc gia đều được giải quyết bằng con đường ngoại giao, thương
lượng.
Thứ hai, quyền được miễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế đảm bảo sơ bộ đối với
đơn kiện hoặc đảm bảo thi hành phán quyết của tòa án nước ngoài: tòa án nước ngoài chỉ được
phép áp dụng các biện pháp cưỡng chế đó trong trường hợp quốc gia cho phép, ta có thể hiểu
một cách gián tiếp là tài sản của quốc gia cũng được hưởng quyền bất khả xâm phạm.
Thứ ba, quốc gia có quyền đứng tên nguyên đơn trong vụ tranh chấp với cá nhân cũng
như pháp nhân nước ngoài trong tình huống đó tòa án nước ngoài được phép giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên bị đơn là cá nhân, pháp nhân nước ngoài chỉ được phép phản kiện khi quốc
gia đồng ý. Quốc gia là một chủ thể rất đặc biệt trong quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố
nước ngoài nói chung và trong quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nói riêng,
thế nhưng trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành chưa có quy định đề cập đến vấn đề này.

1.3.2. Về khách thể
Ngoài các chủ thể được nêu ở phần trên thì khách thể của quan hệ thừa kế là một tiểu
tố để xác định quan hệ đó có thể là quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài hay
không. Pháp luật các nước hầu hết đều thừa nhận tài sản liên quan đến quan hệ thừa kế theo
pháp luật ở nước ngoài thì đều thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.
Điều 758 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 quy định: “quan hệ dân sự có tài sản liên
quan đến quan hệ đó ở nước ngoài thì đó là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.”

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

13

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Qua đó ta thấy di sản thừa kế có mối quan hệ với quyền sở hữu, quyền sở hữu tài sản
của cá nhân là cơ sở chủ yếu để xác định được di sản thừa kế.
Để điều chỉnh những tranh chấp xung quanh vấn đề tài sản có yếu tố nước ngoài,
pháp luật các nước chủ yếu dựa vào các quy phạm xung đột. Đa số các quy phạm xung đột của
pháp luật các nước trên thế giới và pháp luật Việt Nam đều được xây dựng dựa vào hệ thuộc
luật nơi có vật.
Theo khoản 1 Điều 766 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 quy định thì việc xác lập, thực
hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác
định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 4
điều này. Tài sản có thể được chia thành nhiều loại như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tuy
nhiên trong quan hệ thừa kế hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chia tài sản thành hai loại
đó là động sản và bất động sản. Việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác
định theo pháp luật của nước nơi có tài sản. Ví dụ: tại khoản 3 Điều 766 Bộ luật dân sự Việt
Nam 2005.

1.3.3. Sự kiện pháp lý
Theo điều 758 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
“Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên
tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc
là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để
xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài
hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.”
Như vậy, Sự kiện pháp lý trong quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
có thể là sự kiện pháp lý xảy ra ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài và phải là sự kiện hành vi phù
hợp với pháp luật quốc gia sở tại hoặc pháp luật nước ngoài.
Ví dụ: Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo pháp luật xảy ra ở nước
ngoài như người Việt Nam thường trú ở nước ngoài chết ở nước ngoài để lại di sản ở Việt
Nam hoặc người nước ngoài thường trú ở Việt Nam chết ở Việt Nam và để lại di sản thừa kế ở
nước ngoài.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

14

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
1.4. Phương pháp điều chỉnh và nguồn của luật điều chỉnh về quan hệ thừa kế
theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Do quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài được hiểu thông qua quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài nên phương pháp điều chỉnh của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng
cũng chính là phương pháp điều chỉnh của thừa kế có yếu tố nước ngoài.
1.4.1. Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế là tổng hợp các biện pháp, cách thức mà

Nhà nước sử dụng để tác động lên các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài
(gọi là quan hệ tư pháp quốc tế) làm cho các quan hệ này phát triển theo hướng có lợi cho giai
cấp thống trị 12. Theo đó , phương pháp điều chỉnh có yếu tố nước ngoài cũng là các biện pháp,
cách thức tác động lên quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài làm cho quan hệ
này phát triển theo hướng có lợi cho Nhà nước đó.
Các biện pháp, cách thức mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các quan hệ thừa kế
được biểu hiện ở hai phương pháp cụ thể là:
1.4.1.1. Phương pháp điều chỉnh trực tiếp
Phương pháp điều chỉnh trực tiếp (còn gọi là phương pháp thực chất) là phương pháp
quy định một cách cụ thể cách thức hành xử của các bên liên quan, được xây dựng trên cơ sở
hệ thống các quy phạm thực chất trực tiếp giải quyết quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố
nước ngoài.
Tại khoản 3, khoản 4 Điều 767 BLDS năm 2005 quy định: Di sản không có người
thừa kế là bất động sản thuộc về Nhà nước nơi có bất động sản đó còn đối với động sản sẽ
thuộc về Nhà nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết. Sự tác động của
nhà nước lên quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài được thực hiện thông qua
quy phạm thực chất. Quy phạm thực chất là quy phạm quy định sẵn các quyền, nghĩa vụ đối
với các chủ thể tham gia quan hệ dân sự theo nghĩa rộng và thừa kế theo pháp luật có yếu tố
nước ngoài nói riêng. Khi quan hệ thừa kế trong Tư pháp quốc tế xảy ra, nếu có sẵn quy phạm
thực chất để áp dụng thì các bên chủ thể cũng như cơ quan có thẩm quyền (tòa án, trọng tài...)
căn cứ ngay vào đó để xác định vấn đề họ đang quan tâm. Đây là phương pháp được áp dụng
phổ biến và là phương pháp cơ bản của Tư pháp quốc tế nói chung và quan hệ thừa kế theo
pháp luật có yếu tố nước ngoài nói riêng. Các quy phạm thực chất có thể được xây dựng trong
các điều ước quốc tế người ta gọi là các quy phạm thực chất thống nhất, còn các quy phạm
12

[truy cập ngày 15/11/2014]

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương


15

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
thực chất xây dựng trong các văn bản pháp quy của mỗi nhà nước được gọi là quy phạm thực
chất trong nước.13 Chúng ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu từng nội dung này:
Thứ nhất, các quy phạm thực chất thống nhất: Quy phạm thực chất thống nhất là quy
phạm thực chất được xây dựng bằng cách các quốc gia ký kết, tham gia vào các điều ước quốc
tế hoặc chấp nhận và sử dụng tập quán quốc tế. Việc xây dựng và hình thành các quy phạm
thực chất thống nhất làm giảm sự khác biệt trong pháp luật về thừa kế của các quốc gia, làm
đơn giản quá trong giải quyết quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài. Khi có các
điều ước quốc tế và tập quán quốc tế mà trong đó có các quy phạm thực chất thống nhất, cơ
quan có thẩm quyền giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ thừa kế theo pháp luật có
yếu tố nước ngoài sẽ căn cứ ngay vào quy phạm đó để xem xét và giải quyết thực chất vấn đề.
Thứ hai, các quy phạm thực chất trong nước: quy phạm thực chất trong nước là quy
phạm thực chất được xây dựng dựa trên hệ thống pháp luật của quốc gia và nó chỉ có giá trị
ràng buộc trong phạm vi quốc gia đó. Trong pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều quy định các quy chế pháp lý đối với quan hệ thừa kế theo pháp
luật có yếu tố nước ngoài và tất nhiên xung đột pháp luật không tồn tại trong việc giải quyết
vấn đề này.
Việc áp dụng phương pháp điều chỉnh này làm cho mối quan hệ Tư pháp quốc tế nói
chung và thừa kế trong Tư pháp quốc tế nói riêng được điều chỉnh nhanh chóng, các vấn đề
cần quan tâm được xác định ngay, các chủ thể của quan hệ đó và các cơ quan có thẩm quyền
khi giải quyết tranh chấp sẽ tiết kiệm thời gian, tránh được việc phải tìm hiểu pháp luật nước
ngoài vốn là vấn đề phức tạp. Bởi vậy, khi không có quy phạm thực chất thống nhất thì phải có
phương pháp khác để điều chỉnh quan hệ Tư pháp quốc tế.
1.4.1.2. Phương pháp điều chỉnh gián tiếp
Phương pháp điều chỉnh gián tiếp (hay còn gọi là phương pháp xung đột) là phương

pháp sử dụng quy pham xung đột nhằm xác định hệ thống pháp luật nước nào sẽ được áp dụng
trong việc điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài. Các quy phạm
xung đột không trực tiếp giải quyết quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thừa kế theo
pháp luật có yếu tố nước ngoài, nó chỉ có tác dụng ấn định luật nước nào sẽ là luật áp dụng để
giải quyết. Các quy phạm xung đột luôn mang tính dẫn chiếu (chọn luật) tới một hệ thống
pháp luật nhất định. Như vậy, ta có thể thấy các quy phạm xung đột sẽ dẫn chiếu đến hệ thống
pháp luật mà các quy phạm thực chất được áp dụng để giải quyết quan hệ một cách dứt điểm.
13

Đại học luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp, năm 2004, tr.34

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

16

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Điều này khẳng định mối quan hệ song hành giữa quy phạm thực chất và quy phạm xung đột.
Chính vì yếu tố này mà về cơ cấu, quy phạm xung đột sẽ gồm 2 bộ phận đó là phần phạm vi
(là phần quy định quy phạm xung đột này được áp dụng cho loại quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài, cụ thể ở đây là quan hệ thừa kế theo pháp luật ) và phần hệ thuộc (là phần quy
định luật pháp nào được áp dụng để giải quyết quan hệ thừa kế đã được ghi ờ phần phạm vi).
Ví dụ: Trong Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Lào, Điều 36 quy định:
“1. Việc thừa kế động sản được thực hiện theo pháp luật của nước ký kết mà người để
lại di sản là công dân khi qua đời;
2. Việc thừa kế bất động sản được thực hiện theo pháp luật của nước ký kết nơi có di
sản là bất động sản.”

Đây là hai quy phạm xung đột, quy phạm xung đột thứ nhất, phần phạm vi là quan hệ
thừa kế là động sản, phần hệ thuộc quy định luật áp dụng là pháp luật của nước ký kết mà
người để lại di sản là công dân vào thời điểm qua đời. Quy phạm xung đột thứ hai, phần phạm
vi là quan hệ thừa ké bất động sản, phần hệ thuộc quy định luật áp dụng là pháp luật của nước
ký kết nơi có di sản là bất động sản.
Cũng giống như quy phạm thực chất, người ta phân biệt quy phạm xung đột thành hai
loại đó là quy phạm xung đột thống nhất (còn gọi là quy phạm xung đột trong điều ước quốc
tế) và quy phạm xung đột trong nước. Ngoài cách phân loại trên, người ta còn phân loại quy
phạm xung đột theo luật áp dụng. Cụ thể phân thành hai loại như sau:
Quy phạm xung đột một bên (hay còn gọi là quy phạm xung đột một chiều): Đây là
quy phạm chỉ ra quan hệ dân sự này chỉ áp dụng luật pháp của một nước cụ thể. Ví dụ: Theo
khoản 2 Điều 767 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Quyền thừa kế đối với bất động sản
tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”. Đây là quy phạm xung đột một chiều
vì nó chỉ quy định pháp luật áp dụng đối với bất động sản.
Quy phạm xung đột hai bên (hay còn gọi là quy phạm xung đột hai chiều): Đây là
những quy phạm đề ra nguyên tắc chung để cơ quan tư pháp có thẩm quyền lựa chọn áp dụng
luật của một nước nào đó để điều chỉnh đối với quan hệ tương ứng. Ví dụ: Theo khoản 1 Điều
767 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của
nước mà người để lại di sản có quốc tịch trước khi chết”. Đây là quy phạm xung đột hai chiều
vì pháp luật chỉ định có thể là pháp luật nước ngoài hay pháp luật Việt Nam.

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

17

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Trong tư pháp quốc tế nói chung và quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước

ngoài nói riêng, người ta thường phối hợp sử dụng đồng thời cả hai phương pháp (nếu có quy
phạm thực chất thì áp dụng để giải quyết trực tiếp nếu không có thì áp dụng quy phạm xung
đột) nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong thực tế. Nếu vấn đề cần giải quyết không được quy định
bởi quy phạm thực chất lẫn quy phạm xung đột điều chỉnh thì sẽ áp dụng biện pháp tương tự.
Trong thực tiễn, do các quy phạm thực chất thống nhất có số lượng ít, không đáp ứng
được các yêu cầu điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế phát sinh ngày càng đa dạng; trong
khi đó quy phạm xung đột được xây dụng một cách đơn giản hơn, nhanh hơn nên có số lượng
nhiều hơn. Do đó quy phạm xung đột đã điều chỉnh hầu hết các quan hệ Tư pháp quốc tế trong
đó có quan hệ về thừa kế theo pháp luật. Vì vậy phương pháp điều chỉnh gián tiếp được coi là
phương pháp cơ bản trong giai đoạn hiện nay.
1.4.2. Nguồn của luật điều chỉnh
Nguồn của tư pháp quốc tế (TPQT) nói chung là các hình thức chứa đựng và thể hiện
quy phạm của TPQT.
Nguồn của luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài là các
hình thức chứa đựng và thể hiện quy phạm của quan hệ thừa thế theo pháp luật có yếu tố nước
ngoài.
Pháp luật Việt Nam quy định rõ tại Điều 759 Bộ luật dân sự 2005 về việc áp dụng
pháp luật dân sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài
và tập quán quốc tế.
“Điều 759. áp dụng pháp luật dân sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước
quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế
1. Các quy định của pháp luật dân sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp
dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định
khác.
2. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định khác với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của điều ước
quốc tế đó.
3. Trong trường hợp Bộ luật này, các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật của nước đó được áp

dụng, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

18

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu
trở lại pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Pháp luật nước ngoài cũng được áp dụng trong trường hợp các bên có thoả thuận
trong hợp đồng, nếu sự thoả thuận đó không trái với quy định của Bộ luật này và các văn bản
pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Trong trường hợp quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không được Bộ luật này,
các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc hợp đồng dân sự giữa các bên điều
chỉnh thì áp dụng tập quán quốc tế, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”14
Có thể thấy, nguồn của tư pháp quốc tế Việt Nam để điều chỉnh quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nói riêng
bao gồm pháp luật quốc gia (Bao gồm pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài) và Điều
ước quốc tế (do tập quán quốc tế chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực hợp đồng nên không được áp
dụng trong quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài).
Như vậy, nguồn luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
bao gồm pháp luật quốc gia và Điều ước quốc tế.
1.4.2.1. Pháp luật quốc gia
Pháp luật Việt Nam là nguồn chủ yếu của tư pháp quốc tế Việt Nam.

Theo khoản 3 Điều 759 BLDS 2005 quy định thì: “Trong trường hợp Bộ luật này,
các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật
nước ngoài thì pháp luật của nước đó được áp dụng, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc
áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”15
Hiến pháp năm 2013 cũng là nguồn quan trọng của tư pháp quốc tế Việt Nam, làm cơ
sở và nền tảng cho việc xây dựng các quy định về tư pháp quốc tế.
Quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh bởi Bộ luật dân
sự 2005, phần thứ bảy, Điều 767 và Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm
14
15

Điều 759 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005
Khoản 3 Điều 759 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

19

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự 2005 về quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Chương 2 Điều 12.
Nguồn của tư pháp quốc tế không chỉ có pháp luật Việt Nam mà còn bao gồm pháp
luật của các quốc gia.
- Các quan hệ mà tư pháp quốc tế điều chỉnh là các quan hệ mang tính chất dân sự có

yếu tố nước ngoài. Những quan hệ này rất đa dạng và phức tạp.
- Mỗi đất nước có một truyền thống, tập quán, văn hóa khác nhau nên không thể chỉ
sử dụng pháp luật trong nước (pháp luật Việt Nam) để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội
mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài, nên để chủ động trong việc điều chỉnh các quan
hệ TPQT mỗi quốc gia đã tự ban hành trong hệ thống pháp luật của mình các quy phạm xung
đột, thực chất trong nước.
- Xung đột pháp luật và để giải quyết xung đột pháp luật có nhiều phương pháp, trong
đó có phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm xung đột quốc gia.
Tại khoản 3 Điều 759 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp Bộ luật này, các văn
bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài
thì pháp luật của nước đó được áp dụng, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng
không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Pháp luật nước ngoài cũng được áp dụng trong trường hợp các bên có thoả thuận
trong hợp đồng, nếu sự thoả thuận đó không trái với quy định của Bộ luật này và các văn bản
pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”16
Theo quy định này thì pháp luật nước ngoài được áp dụng khi có quy phạm xung đột
dẫn chiếu tới pháp luật Việt Nam hoặc trong Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
1.4.2.2. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là một văn kiện tập hợp những quy phạm pháp luật quốc tế do hai
(song phương) hay nhiều (đa phương) chủ thể của quan hệ pháp luật TPQT thỏa thuận hoặc ký
kết nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ
quốc tế.

16

Khoản 3 Điều 759 Bộ luật dân sự 2005


GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

20

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Hiện nay, Việt Nam đã ký kết rất nhiều Điều ước quốc tế song phương với các nước
trong việc điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài như: Hiệp định
tương trợ tư pháp và pháp lý giữa Việt Nam - Tiệp Khắc năm 1982; Hiệp định tương trợ tư
pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam và
Liên Bang Nga ngày 25 tháng 8 năm 1998; Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự
giữa Việt Nam – Lào năm 1998; Hiệp định tương trợ tư pháp về vấn đề dân sự và hình sự giữa
Việt Nam - Trung Hoa năm 1998; Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt nam và Pháp về các
vấn đề dân sự năm 1999.
Các Điều ước quốc tế này cũng trở thành nguồn quan trọng của luật điều chỉnh quan
hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài.
1.5. Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ thừa kế theo pháp luật
có yếu tố nước ngoài
Ngoài các nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế như: tôn trọng sự bình đẳng về mặt
pháp lý quốc tế giữa các chế độ sở hữu khác nhau, tôn trọng quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối
của quốc gia trong các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài hay nguyên
tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ giữa công dân quốc gia sở tại và người nước ngoài,
giữa người nước ngoài với nhau trên lãnh thổ quốc gia sở tại, nguyên tắc có đi có lại, ủy thác
tư pháp nhờ cơ quan nước ngoài thực hiện một số công đoạn của tố tụng để điều tra một vụ án
nào đó, công nhận và cho thi hành các bản án và quyết định Tòa án nước ngoài, phán quyết
của trọng tài nước ngoài thì thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài có những nguyên tắc
riêng điều chỉnh.
1.5.1. Nguyên tắc luật quốc tịch

Hệ thuộc luật quốc tịch là hệ thuộc được áp dụng phổ biến trong quan hệ thừa kế theo
pháp luật có yếu tố nước ngoài. Theo đó, quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
phát sinh giữa công dân nước nào thì pháp luật nước đó sẽ đem ra áp dụng để điều chỉnh quan
hệ đó. Luật quốc tịch là luật của nước mà đương sự là công dân. Như vậy, hệ thuộc luật quốc
tịch chỉ áp dụng trong trường hợp xác định được quốc tịch của người để lại di sản. Trên thực tế
hệ thuộc luật quốc tịch được áp dụng ở hầu hết các nước Châu Âu như Pháp, Đức, Italia… và
một số nước khác như Cuba, Nhật Bản… hệ thuộc luật quốc tịch nhằm bảo vệ quyền lợi của
công dân nước mình tránh phụ thuộc vào luật nơi cư trú. Một số nước như Áo, Thụy Sĩ, Chi
Lê… thì áp dụng đồng thời cả hai hệ thuộc tức là buộc quy chế nhân thân của người nước

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

21

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
ngoài phải lệ thuộc vào luật nước mình (Luật nơi cư trú) đồng thời buộc tất cả các công dân
nước mình sống ở nước ngoài phải lệ thuộc vào pháp luật nước mình (luật quốc tịch) 17.
Điển hình như khoản 1 Điều 767 quy định: “Thừa kế theo pháp luật phải tuân theo
pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết.”18 Những quy
định trên của pháp luật Việt Nam đã sử dụng hệ thuộc luật quốc tịch, đây là hệ thuộc quan
trọng điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài trong pháp luật Việt
Nam.
1.5.2. Nguyên tắc luật nơi cư trú
Để điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài, pháp luật Việt
Nam ngoài việc ghi nhận hệ thuộc luật quốc tịch của đương sự còn ghi nhận thêm hệ thuộc
luật nơi cư trú của đương sự. Quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài được điều
chỉnh theo pháp luật của nước nơi đương sự cư trú. Khi xét về mặt nội dung khái niệm nơi cư

trú trong luật của nước hoàn toàn không giống nhau, tùy điều kiện từng nước và trường hợp cụ
thể có thể hiểu luật nơi cư trú là luật nơi cư trú cuối cùng của đương sự. Do đó khi chúng ta áp
dụng vào từng trường hợp cụ thể của từng nước khác nhau chúng ta phải dựa theo đặc điểm
riêng của từng hệ thống pháp luật mà các nước có thể áp dụng một trong hai, cả hai hoặc dạng
khác của luật nhân thân. Ở các nước như Pháp, Đức, Italia… hệ thuộc luật quốc tịch được áp
dụng rộng rãi trong rất nhiều lĩnh vực, còn ở các nước theo hệ thống pháp luật chung (common
law) như Anh, Mỹ, Na Uy, Đan Mạch và các nước Mỹ Latinh như Braxin, Nicaragoa.... thì hệ
thuộc luật nơi cư trú được áp dụng hàng đầu trong nhiều lĩnh vực.19
Ở Việt Nam, nguyên tắc luật nơi cư trú được áp dụng trong trường hợp không xác
định được quốc tịch của người để lại di sản. Cụ thể là, nếu người để lại thừa kế là người không
quốc tịch thì áp dụng theo luật của nước nơi người đó thường xuyên cư trú, nếu người để lại di
sản là người hai hay nhiều quốc tịch thì áp dụng theo luật của nước nơi người đó cư trú trước
khi chết. Điều 760 BLDS năm 2005 quy định:
“Trong trường hợp Bộ luật này hoặc các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật của nước mà người
nước ngoài là công dân thì pháp luật áp dụng đối với người không quốc tịch là pháp luật của
nước nơi người đó cư trú; nếu người đó không có nơi cư trú thì áp dụng pháp luật Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
17

Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Giáo trình tư pháp quốc tế, Khoa luật Đại học Cần Thơ, năm 2002, tr.20
Khoản 1 Điều 767 Bộ luật dân sự năm 2005
19
Đại học luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp năm 2004, tr.46
18

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

22


SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Trong trường hợp Bộ luật này hoặc các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật của nước mà người nước ngoài là
công dân thì pháp luật áp dụng đối với người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch nước
ngoài là pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và cư trú vào thời điểm phát sinh quan
hệ dân sự; nếu người đó không cư trú tại một trong các nước mà người đó có quốc tịch thì áp
dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và có quan hệ gắn bó nhất về quyền và
nghĩa vụ công dân.”
Như vậy, nguyên tắc luật nơi cư trú được đem ra để áp dụng cho những trường hợp
ngoại lệ được nêu ở trên để phù hợp với thực tiễn xã hội có thể xảy ra nên pháp luật cũng cần
đưa ra cách giải quyết phù hợp và thỏa đáng.
1.5.3. Nguyên tắc luật nơi có vật
Luật nơi có vật được hiểu là vật (tài sản) hiện đang tồn tại ở nước nào thì luật nước đó
được áp dụng đối với tài sản đó. Hệ thuộc luật nơi có vật thường được áp dụng để giải quyết
các quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài, quan hệ về sở hữu có yếu tố nước
ngoài (như tài sản đó có là đối tượng của quyền sở hữu không, xác định các quyền tài sản, xác
định sự phát sinh, thay đổi và chấm dứt sở hữu…) 20. Hệ thuộc luật nơi có vật được áp dụng để
điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài trên nguyên tắc di sản thừa kế
được chia thành hai loại động sản và bất động sản. Theo hệ thuộc này thì việc giải quyết các
tranh chấp về tài sản là bất động sản thì phải căn cứ vào luật nơi có tài sản đó.
Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 khoản 2 Điều 767 quy định như sau “Quyền thừa kế
đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”.21 Như vậy,
pháp luật Việt Nam đã áp dụng nguyên tắc luật nơi có vật để điều chỉnh vấn đề thừa kế theo
pháp luật có yếu tố nước ngoài đối với di sản là bất động sản.
Hầu hết hệ thuộc luật nơi có vật được ghi nhận trong các Hiệp định tương trợ tư pháp
mà Việt Nam ký kết với các nước khác để giải quyết các vấn đề về tài sản là bất động sản.
1.5.4. Nguyên tắc luật tòa án

Đây là nguyên tắc thuộc chế định về thẩm quyền tố tụng (xét xử) của cơ quan tư pháp
thực hiện chức năng đặc biệt để giải quyết các vấn đề phát sinh tranh chấp về dân sự, trong đó
bao gồm vấn đề thừa kế theo pháp luật. Nguyên tắc luật Tòa án được áp dụng và vận hành
thông suốt với sự gắn kết giữa các quốc gia trong tư pháp quốc tế mà đó là sự biểu hiện ý chí
20
21

Đại học luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp năm 2004, tr.49
Khoản 2 Điều 767 Bộ luật dân sự năm 2005

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

23

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
tự nguyện được xác lập thông qua các điều ước quốc tế điều chỉnh hoặc trong trường hợp pháp
luật quốc gia thừa nhận.
Hiện nay trong khoa học pháp lý nói chung và ở Việt Nam nói riêng thì luật Tòa án
thường được hiểu theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng là cả luật hình thức và cả luật nội dung còn
theo nghĩa hẹp thì luật hình thức22, khi xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài về nguyên tắc
Tòa án chỉ áp dụng pháp luật của nước mình. Trong pháp luật của hầu hết các nước đều ghi
nhận nguyên tắc này. Đây là hệ thuộc được áp dụng phổ biến nhất trong việc giải quyết những
vấn đề về tố tụng có yếu tố nước ngoài.
Trong tư pháp quốc tế các nước, khi chọn một hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan
hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, các luật gia thường đưa ra một tiêu chí mà theo đó pháp luật
của tòa án là pháp luật sẽ thường xuyên được áp dụng để giải quyết trong thực tế. Lý do thứ
nhất của xu hướng này là tòa án biết rõ pháp luật nước mình hơn là pháp luật nước ngoài về

thừa kế, do đó việc áp dụng thường xuyên pháp luật của tòa án sẽ làm giảm khó khăn trong
công tác xét xử. Lý do thứ 2 của xu hướng này là, nếu cho phép pháp luật nước ngoài áp dụng
để giải quyết vấn đề thừa kế theo pháp luật, Tòa án cũng như các bên trong quan hệ thừa kế
phải biết nội dung của pháp luật nước ngoài. Để biết nội dung pháp luật nước ngoài, Tòa án
hoặc các bên trong tranh chấp sẽ tự tìm hiểu và do không biết nội dung pháp luật nước ngoài
nên tòa án cũng như các bên trong tranh chấp phải thuê chuyên gia về luật nước ngoài, đây là
một việc khó và tốn kém.23 Chính vì 2 lý do căn bản trên mà các nước sử dụng tiêu chí chọn
luật khác nhau để làm sao pháp luật của tòa án có nhiều cơ hội hơn pháp luật nước ngoài.
Nguyên tắc luật tòa án được áp dụng rất phổ biến trong quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu
tố nước ngoài như là một nguyên tắc phụ, thay thế. Khi các nguyên tắc khác để xác định hệ
thống pháp luật cho quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài không áp dụng thì
nguyên tắc luật tòa án sẽ được áp dụng.

22

Đại học luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp năm 2004, tr.54
Đỗ Văn Đại, Chọn luật để điều chỉnh thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài, tạp chí nghiên cứu luật pháp số 7,
năm 2003, tr.68
23

GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

24

SVTH: Trần Quốc Hùng


Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
2.1. Di sản có người thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài
Pháp luật thừa kế ở Việt Nam cũng như pháp luật thừa kế của các nước khác trên thế
giới quy định hai hành thức thừa kế là thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Nếu như
thừa kế theo di chúc là sự định đoạt di sản thừa kế theo ý chí của người để lại di sản thì thừa kế
theo pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của người để lại di sản thừa kế mà là do ý chí của
nhà nước. Nói cách khác, thừa kế theo pháp luật là thừa kế trên cơ sở can thiệp của Nhà nước
thông qua pháp luật về thừa kế.
Trong điều kiện hội nhập, giao lưu, hợp tác quốc tế, quan hệ thừa kế ngày càng đa
dạng hơn, không còn trong phạm vi một nước mà mở rộng ra nhiều nước, do dó vấn đề thừa
kế theo pháp luật cũng ngày càng đa dạng hơn, tuy nhiên pháp luật mỗi nước có những quy
định khác nhau về vấn đề thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài. Hiện nay, để giải quyết
vần đề chọn luật áp dụng trong vấn đề thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài thì pháp
luật các nước áp dụng hai nguyên tắc cơ bản:
- Nguyên tắc phân chia di sản thừa kế: được áp dụng phổ biến tại các nước theo hệ
thống luật Anh — Mỹ (Anh, Mỹ, Úc, Achentina, Đan Mạch…) và Pháp. Để giải quyết vấn đề
thừa kế, pháp luật các nước này phân chia di sản thừa kế làm hai loại là bất động sản và động
sản. Mỗi loại di sản có nguyên tắc áp dụng pháp luật giải quyết khác nhau. Đối với động sản,
pháp luật áp dụng để giải quyết là pháp luật của nước mà người để lại di sản có quốc tịch hoặc
nơi cư trú cuối cùng. Theo đó nếu người để lại di sản có quốc tịch nước ngoài thi áp dụng pháp
luật nước ngoài, nếu người để lại di sản có quốc tịch Việt Nam thì áp dụng pháp luật Việt
Nam; Đối với bất động sản, pháp luật được áp dụng để giải quyết thừa kế theo pháp luật có
yếu tố nước ngoài là pháp luật của nước nơi có bất động sản đó. Nếu bất động sản ở nước
ngoài thì áp dụng pháp luật nước ngoài, nếu bất động sản ở Việt Nam thì áp dụng luật Việt
Nam.
Nguyên tắc thống nhất di sản thừa kế: được áp dụng phổ biến tại một số nước Tây âu
như Đức, Tây Ban Nha, Itali, Bồ Đào Nha....Pháp luật các nước này không phân chia di sản
thừa kế thành các loại khác nhau như động sản và bất động sản mà thống nhất giải quyết toàn
bộ di sản thừa kế theo nguyên tắc luật nhân thân của người để lại di sản thừa kế.


GVHD: Ths. Bùi Thị Mỹ Hương

25

SVTH: Trần Quốc Hùng


×