PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hoá - văn nghệ là lĩnh vực rộng lớn, phong phú và đa dạng, lĩnh
vực đặc biệt tinh tế và nhạy cảm; đồng thời là môi trường độc đáo luôn có khả
năng làm phong phú, sinh động các hoạt động của công tác tư tưởng.
Bên cạnh chức năng giáo dục, nhận thức, thẩm mỹ, giải trí và giao
tiếp; văn hoá - văn nghệ còn có chức năng tổ chức, định hướng và điều chỉnh
xã hội, nó tác động đến con người chủ yếu và trực tiếp vào thế giới tình cảm,
tâm hồn và cảm xúc. Vì vậy, văn hoá - văn nghệ là sức mạnh, là vũ khí sắc
bén, phương thức độc đáo của công tác tư tưởng. Không có hình thái tư tưởng
nào có thể thay thế được văn hoá - văn nghệ trong việc xây dựng tình cảm,
nếp nghĩ, nếp sống của con người.
Văn hoá - văn nghệ là thành tố cơ bản, là “nhu cầu thiết yếu trong
đời sống tinh thần của xã hội” (37, tr14) , là “lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra
những giá trị văn hoá, những công trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này
sang đời khác” (36, tr 15), là b
ộ phận nhạy cảm phản ánh các mặt khác nhau của đời sống xã hội, nó góp
phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm tốt đẹp, xây dựng nhân cách và môi trường
đạo đức xã hội Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng và đổi mới của đất
nước, việc sử dụng văn hoá - văn nghệ như một tác động tư tưởng có hiệu quả
là một việc làm có ý nghĩa
Để hội nhập và phát triển, Việt Nam đã và đang thực hiện chính sách đa
phương hoá đa dạng hoá các mối quan hệ với các tổ chức và quốc gia trên thế
giới, “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” (13, tr 25).
Quá trình hội nhập ấy đã mở ra cho chúng ta những cơ hội và thách thức
mới: Chúng ta có điều kiện để tiếp xúc với tinh hoa văn hoá thế giới, để giới
thiệu bản sắc văn hoá dân tộc với bạn bè năm châu… nhưng đồng thời cũng
phải chấp nhận sự du nhập của nhiều luồng văn hoá độc hại gây ảnh hưởng
xấu đến đời sống tinh thần xã hội. Chính những tác động tiêu cực từ văn hóa
ngoại sinh đã dẫn đến những thay đổi về quan niệm thẩm mỹ và các định
hướng giá trị tuyền thống, làm mờ nhạt các tinh hoa văn hoá dân tộc…. Vì
vậy hoạt động quản lý văn hoá văn nghệ Việt Nam trong bối cảnh mới hiện
nay có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng cường hiệu quả hoạt động của công tác
tư tưởng.
Ngoài ra dưới tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, trong văn hoá
văn nghệ hiện nay đang xuất hiện xu hướng “thương mại hoá”rất đáng lo
ngại, khiến chúng ta không thể bàng quan. Hoạt động văn hóa văn nghệ nhiều
khi chỉ vì những mục đích lợi nhuận thuần tuý, hạ thấp giá trị tư tưởng, thẩm
mỹ, nghệ thuật của các tác phẩm văn hoá ảnh hưởng xấu đến đời sống tinh
thần của xã hội. Vì vậy việc nghiên cứu thực trạng đời sống văn hóa văn nghệ
để từ đó kiếm tìm các giải pháp nhằm khai thác tối đa ưu thế của lĩnh vực văn
hoá - văn nghệ trong hoạt động công tác tư tưởng hiện nay chính là để góp
phần nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng.
Trong giai đoạn hiện nay, văn hoá - văn nghệ đang bị các thế lực thù
địch lợi dụng như một công cụ đắc lực tiến công vào mặt trận tư tưởng - văn
hoá, coi đó là một nội dung quan trong trong âm mưu “diễn biến hoà bình”,
thực hiện ý đồ nham hiểm nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, cản trở
bước tiến và làm chệch hướng con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Có
thể nói, hơn bao giờ hết, ngày nay văn hoá, nghệ thuật đang thực sự là một
mặt trận, mặt trận không có tiếng súng nhưng không kém phần ác liệt trong
cuộc đấu tranh giữa cái thiện với cái ác, cái đúng với cái sai, cái thấp hèn với
2
cái cao thượng mà chúng ta thường nói là hệ quả từ mặt trái của kinh tế thị
trường và toàn cầu hoá văn hoá. Đó cũng là đấu trường tư tưởng tranh giành
ảnh hưởng giữa chúng ta và kẻ thù , là nơi đã từng có bao người sa ngã lí
tưởng... Thực tế trên đặt ra cho công tác tư tưởng một yêu cầu mới về việc
khai thác những ưu thế của văn hoá - văn nghệ trong hoạt động tư tưởng.
Thái Bình là tỉnh giàu truyền thống lịch sử, văn hoá và cách mạng.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trong bối cảnh chung của cả nước, cùng với sự
tăng trưởng không ngừng của đời sống kinh tế - xã hội; đời sống văn hoá tinh
thần của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh cũng được cải thiện và nâng lên,
từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hoá. Sự nghiệp văn
hoá - xã hội tiếp tục được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính
quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Sự nghiệp xây dựng con
người mới, nền văn hoá mới đã và đang góp phần tạo tiền đề vững chắc để
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; bên cạnh mục
tiêu phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,
Đảng bộ và nhân dân Thái Bình đặc biệt coi trọng xây dựng văn hoá là nền
tảng tinh thần của xã hội, là tiền đề xây dựng xã hội hài hoà, bền vững, là sức
mạnh nội sinh của sự phát triển. Tiếp tục gìn giữ và phát huy những giá trị
văn hoá truyền thống, những phong tục tập quán tốt đẹp, tạo dựng nếp sống,
lối sống văn minh, hiện đại, phù hợp với điều kiện và tình hình mới; kiên
quyết đấu tranh, lên án và từng bước xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, mê tín dị
đoan, lối sống tầm thường, vị kỷ, vụ lợi, góp phần xây dựng phong trào “toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, thực hiện thắng lợi các mục tiêu
kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng các cấp đề ra, đưa Thái Bình sớm trở thành
tỉnh gương mẫu về mọi mặt.
3
Với mục đích suy ngẫm về thực trạng đời sống văn hoá – văn nghệ
ở Thái Bình, từ đó kiếm tìm các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
của công tác tư tưởng ở tỉnh nhà thông qua con đường vận dụng ưu thế của
văn hoá - văn nghệ, chúng tôi chọn đề tài “Khai thác ưu thế của văn hoá văn
nghệ trong công tác tư tưởng ở Thái Bình hiện nay” để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Dưới góc nhìn khái quát, vấn đề vai trò của văn hoá văn nghệ đối
với đời sống nói chung, đối với công tác tư tưởng nói riêng đả từng được đề
cập đến từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Các kiến giải về vai trò
của văn hoá văn nghệ đối với công tác tư tưởng chính trị đã được đề cập đến
bởi các lãnh tụ cách mạng vô sản như Các Mác, Ăngghen, Lênin…. Cuốn
Mác - Ăngghen - Lênin về văn học và nghệ thuật (NXB Sự thật, H. 1977) đã
hệ thống hoá những ý kiến quan trọng của các lãnh tụ vô sản về văn hoá văn
nghệ nói chung và vai trò của văn học nghệ thuật đối với công tác tư tưởng.
Ở các nước châu Âu vào khoảng giữa thế kỷ XX, các Mỹ học gia
tiêu biểu như Lucacs (Hunggari); E.Fischer (Áo), R. Graudy (Pháp)…cũng có
đề cập đến vị trí của văn hoá văn nghệ trong đời sống tư tưởng xã hội. Nhà
nghiên cứu Phương Lựu đã hệ thống hoá một số công trình nghiên cứu với
những quan niệm về văn hoá văn nghệ tiêu biểu của các học giả châu Âu nói
trên trong cuốn “Tư tưởng văn hoá văn nghệ của chủ nghĩa Mác phương
Tây” (NXB Thế giới, H. 2007).
Ở Việt Nam: Những đánh giá khái quát về vai trò của văn hoá văn
nghệ đối với công tác tư tưởng trước hết thuộc về các lãnh tụ Đảng và Nhà
nước, các nhà quản lý văn hoá văn nghệ… như Hồ Chí Minh, Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, Hà Xuân Trường. Các công trình tiêu biểu có đề
cập khái quát về vai trò của văn hoá văn nghệ đối với đời sống tư tưởng như:
4
Văn hoá văn nghệ cũng là một mặt trận (Hồ Chí Minh, NXB Văn học, H.
1981); “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam” (Trường Chinh, NXB Sự thật,
H.1974); “Xây dựng nền văn hoá văn nghệ ngang tầm vóc dân tộc ta, thời đại
ta” (Phạm Văn Đồng, NXB Sự thật, H.1976); “Xây dựng nền văn nghệ lớn
xứng đáng với nhân dân ta, với thời đại ta” (Tố Hữu, NXB Văn học, H.1983)
là những công trình nghiên cứu khái quát về những vấn đề văn hoá văn nghệ
nói chung và vị trí của văn hoá văn nghệ đối với công tác tư tưởng nói riêng.
Với tư cách là người lãnh đạo và quản lý văn nghệ, Hà Xuân Trường có công
trình nghiên cứu “Đường lối văn nghệ của Đảng- vũ khí, trí tuệ, ánh
sáng”(NXB Sự thật, H. 1977) hay “Văn hoá văn nghệ trong công tác tư
tưởng” (Tạp chí Văn học số 6/1997).
Một số nhà nghiên cứu khác với các công trình: “Văn hoá - văn
nghệ trong công tác tư tưởng” (2001) của PGS. TS Đinh Xuân Dũng; “Văn
hoá văn nghệ trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Mục tiêu và
động lực” (1986) của Trần Độ… Đề cập đến vai trò của văn hoá văn nghệ
trong đời sống xã hội; chức năng tư tưởng của văn hoá văn nghệ.
Vấn đề quản lý và khai thác sử dụng văn hoá văn nghệ ngoài một số chỉ
thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước đề cập đến: Nghị quyết 05 - NQ/TW
(28/11/1987); Chỉ thị 61 - CT/TW ngày 21/6/1990, Chỉ thị số 46-CT/TW,
ngày 27/7/2010 của Ban Bí thư về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn
hoá độc hại gây huỷ hoại đạo đức xã hội…còn có một số tác phẩm, công trình
nghiên cứu của các tác giả, trong đó phải kể đến bài: “Quản lý hoạt động văn
hoá - văn nghệ “ (2002) của PGS. TS Đinh Xuân Dũng, trình bày dưới dạng
bài giảng Quản lý tư tưởng văn hoá, khoa Tuyên truyền, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền. Các văn bản, tác phẩm trên đã đề cập đến một số nội dung cơ
bản sau: Vai trò của văn hoá - văn nghệ trong công tác tư tưởng; vai trò của
hoạt động quản lý văn hoá - văn nghệ trong giai đoạn hiện nay.
5
Năm 2007- 2008, nhóm nghiên cứu đề tài khoa học cấp cơ sở trọng
điểm Học viện Báo chí và Tuyên truyền gồm PGS.TS Trần Thị Trâm, TS
Hoàng Minh Lường, TS Hà Thị Bình Hoà (do PGS.TS Trần Thị Trâm làm
chủ nhiệm) với đề tài: “Khai thác, vận dụng tri thức văn học trong hoạt động
tuyên truyền” đã đề cập đến vai trò của văn học đối với hoạt động tuyên
truyền.
Năm 2010, nhóm nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ do PGS.TS Hoàng
Minh Lường làm chủ nhiệm, với đề tài “Vai trò của văn học trong thời kỳ hội
nhập và phát triển ở Việt Nam” .
Ở tỉnh Thái Bình, trong những năm qua các cấp ủy và chính quyền địa
phương rất có ý thức coi trọng việc phát huy vai trò và ưu thế của văn hóa văn
nghệ vào trong công tác tư tưởng, nhưng trên phương diện nghiên cứu, vấn đề
nay cho tới nay vẫn chưa có công trình nào đề cập đến một cách có hệ thống.
Hy vọng những kết quả nghiên cứu bước đầu này của chúng tôi sẽ góp phần
khỏa lấp phần nào bức tranh nghiên cứu lý luận vẫn đang còn khuyết thiếu về
phạm vi học thuật lí thú và quan trọng này ở tỉnh nhà.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc khai thác
ưu thế của văn hoá văn nghệ đối với hoạt động công tác tư tưởng của tỉnh
Thái Bình. Trên cơ sở nắm bắt thực trạng, đề tài đưa ra những giải pháp góp
phần khai thác ưu thế của hoạt động văn hoá văn nghệ, nhằm nâng cao hiệu
quả công tác tư tưởng ở tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
6
- Hệ thống những vấn đề lí luận cơ bản về văn hoá - văn nghệ, công
tác tư tưởng, vai trò của văn hoá văn nghệ trong công tác tư tưởng.
- Nghiên cứu thực trạng văn hoá - văn nghệ trong công tác tư tưởng
và một số vấn đề đặt ra đối với thực tiễn công tác tư tưởng ở Thái Bình.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác ưu thế của văn hoá - văn
nghệ trong hoạt động công tác tư tưởng ở Thái Bình hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở hệ thống các quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chỉ
thị, nghị quyết của Đảng về văn hoá – văn nghệ. Trong luận văn, người viết
có kế thừa các bài viết, bài nói của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
các tổng kết nghiên cứu của các tác giả trong nước có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở áp dụng các phương pháp nghiên cứu của Triết học Mác
xít và các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, đề tài chủ yếu
sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê, thu thập các cứ liệu thực tiễn.
- Phương pháp phỏng vấn và quan sát.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
5. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về văn hoá - văn
nghệ. Bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác những ưu thế của
văn hoá - văn nghệ trong hoạt động công tác tư tưởng ở Thái Bình.
7
- Hệ thống hóa và làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận về văn
hoá văn nghệ và vai trò của văn hoá văn nghệ trong công tác t tởng.
- Phân tích, đánh giá để đi đến nhận thức đúng về thực trạng sử dụng
văn hoá văn nghệ trong công tác t tởng ở Thái Bình.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần cùng địa phơng
khai thác tốt u thế dụng văn hoá văn nghệ trong công tác t tởng ở Thái Bình.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và vận
dụng vào thực tiễn công tác t tởng ở Thái Bình; làm tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu, giảng dạy chuyên đề Công tác văn hoá ở cơ sở trong
nội dung chơng trình Nghiệp vụ công tác tuyên giáo ở hệ thống các trờng
Đảng địa phơng.
6. . Kt cu ca ti
Ngoi phn m u, kt lun, danh mc ti liu tham kho, lun vn
gm 3 chng, 9 tit. C th nh sau:
Chng 1: Khỏi quỏt mt s vn lý lun v vn hoỏ vn ngh v
cụng tỏc t tng
Chng 2: Thc trng s dng u th ca vn hoỏ vn ngh trong
cụng tỏc t tng tnh Thỏi Bỡnh
Chng 3: Mt s vn t ra v cỏc gii phỏp nhm khai thỏc u
th ca vn hoỏ vn ngh trong cụng tỏc t tng tnh Thỏi Bỡnh hin nay
8
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HOÁ
VĂN NGHỆ VÀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
1.1. Văn hoá văn nghệ và công tác tư tưởng
1.1.1 Khái niệm Văn hoá văn nghệ
1.1.1.1. Khái niệm Văn hoá
Văn hoá là một lĩnh vực rất rộng lớn, vô cùng phong phú và đa dạng,
có mặt và thấm sâu trong toàn bộ đời sống xã hội và đời sống con người, vì
thế có rất nhiều cách định nghĩa, cách hiểu và khai thác khác nhau về văn hoá.
Trong quá trình đi tìm định nghĩa và xác định nội hàm của văn hoá, đã có
những tìm tòi khoa học có giá trị sâu sắc, tiếp sức nhau đạt tới những nhận
thức ngày càng hoàn chỉnh hơn của con người về một lĩnh vực rất độc đáo do
chính con người và chỉ có người sáng tạo nên – đó là văn hoá.
Pufendorf - nhà khoa học Đức - người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Văn
hoá đã cho rằng, văn hoá là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội,
nghĩa là văn hoá đối lập với trạng thái tự nhiên. Tiếp tục ý tưởng đó, nhà triết
học Đức, Herder (1744 – 1803) cho rằng, văn hoá là sự hình thành lần thứ
hai của con người, nghĩa là, lần thứ nhất, con người xuất hiện với tư cách một
thực thể sinh vật tự nhiên, đến lần thứ hai, người hình thành và phát triển với
tư cách là một thực thể xã hội, tức là một nhân cách văn hoá.
Năm 1982, tại Mêhicô, hội nghị thế giới về chính sách văn hóa vì sự
phát triển đã thông tuyên bố Mêhicô ngày 6/8 cho rằng: “Theo nghĩa rộng,
ngày nay văn hoá có thể được coi là toàn bộ các đặc tính đặc biệt về tâm hồn,
vật chất, trí tụê và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội.
9
Nó không chỉ bao gồm nghệ thuật và văn học, mà cả lối sống, các quyền cơ
bản của nhân loại, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng”
Như vậy, theo định nghĩa vừa rộng lớn, vừa bản chất của nó, văn hoá là
tòan bộ hoạt động tinh thần - sáng tạo, tác động vào tự nhiên xã hội và con
người nhằm tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao hơn để vượt
tới sự hoàn thiện theo khát vọng chân, thiện, mỹ và góp phần thúc đẩy sự tiến
bộ phát triển không ngừng của đời sống xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hoá”. (25, t.431).
Phạm vi của văn hoá là hết sức rộng lớn, có mặt trong toàn bộ hoạt
động của đời sống xã hội và đời sống con người, nhưng quan trọng hơn cả, nó
là những giá trị do hoạt động tinh thần - sáng tạo của con người tạo ra, biểu
hiện trình độ hiểu biết, năng lực và phẩm giá của cả cộng đồng và từng cá thể,
là thước đo trình độ phát triển và sức vươn lên sự hoàn thiện của con người
theo lý tưởng chân, thiện, mĩ, đồng thời góp phần trực tiếp cho quá trình vươn
lên của con người. Theo hướng tiếp cận này, Phạm Văn Đồng - Nhà văn hoá
lớn của đất nước ta thế kỉ XX cho rằng: “Nói tới văn hoá là nói tới một lĩnh
vực vô cùng phong phú và rộng lớn, gồm tất cả những gì không phải là thiên
nhiên mà có liên quan đến con người trong một quá trình tồn tại, phát triển,
quá trình con người làm nên lịch sử… cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hoá
với nghĩa bao quát và đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng
và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự
tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh các cộng đồng
10
dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn
mạnh”. (42, tr.16).
Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng (khoá VIII) “Về xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
(16.7.1998) đã tiếp cận và đề cập đến vấn đề văn hoá theo nghĩa rộng lớn và
bao quát, đồng thời chỉ ra các lĩnh vực cụ thể của văn hoá trong đời sống và
cấu trúc xã hội và nhấn mạnh một số mặt quan trọng hơn cả cần đặc biệt quan
tâm đó là “Tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá”. Từ đó nghị
quyết đã nhấn mạnh một phương hướng cực kỳ quan trọng trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước: “Làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời
sống xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng
địa bàn dân cư, mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người tạo nên trên đất
nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển,
phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên
CNXH.
1.1.1.3. Công tác văn hoá văn nghệ:
Khi đặt văn hoá trong một giai đoạn cụ thể của đời sống xã hội, và nhìn
đời sống ấy bao gồm các lĩnh vực khác nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau thì
văn hoá, hiểu theo nghĩa cụ thể và các quan hệ cụ thể, là một trong các lĩnh
vực chính trị, giữ vị trí rất quan trọng, cùng với chính trị, kinh tế và xã hội tạo
nên diện mạo, trình độ, chất lượng và đặc điểm của xã hội trong một giai
đoạn phát triển nhất định. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định điều đó khi
cho rằng, trong công cuộc kháng kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cùng phải
chú ý đến, cùng phaỉ coi trọng ngang nhau là chính trị, kinh tế, văn hoá và xã
hội. Tám lĩnh vực cụ thể của văn hoá mà Nghị quyết TW5 đề cập đến chính là
11
chỉ ra nội hàm của văn hoá trong các quan hệ với kinh tế, chính trị, xã hội va
cùng với lĩnh vực trên, tạo nên sự phát triển toàn diện của xã hội mà chúng ta
đang xây dựng “Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Với cách tiếp cận trên đây của NQTW5, văn hóa bao hàm cả giáo dục,
đào tạo, khoa học và công nghệ và văn học, nghệ thuật, đồng thời, mặc dù có
những đặc trưng riêng, công tác tư tưởng cũng nằm trong phạm trù văn hoá
là một bộ phận quan trọng, đồng thời là hạt nhân của toàn bộ hoạt động văn
hoá mang ý nghĩa xã hội và nhân văn.
Theo cách hiểu hẹp hơn, được sử dụng thông thường và khá phổ biến,
khi tách giáo dục, khoa học ra thành các lĩnh vực, các ngành có đặc trưng
riêng, văn hoá còn được coi chủ yếu là các loại hình hoạt động cụ thể của
ngành hác như bảo tồn, bảo tàng, thư viện, xuất bản, báo chí, đời sống văn
hoá cơ sở, lễ hội, phong tục, tập quán tín ngưỡng… và các loại hình sáng tạo
văn học, nghệ thuật – một lĩnh vực được coi là nhạy cảm nhất, mang tính sang
tạo đậm đặc và bước phát triển cao của văn hoá. Ý nghĩa thực tiễn của cách
hiểu này là để làm cơ sở xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của ngành văn
hoá ở nước ta hiện nay, từ trung ương đến cơ sở. Khi nói công tác văn hoá văn nghệ thường được hiểu cụ thể theo các phạm vi, nội dung trên.
1.1.2. Khái niệm công tác tư tưởng
Từ điển Tiếng Việt do Trung tâm từ điển ngôn ngữ thuộc Viện Ngôn
ngữ học (Viện khoa học xã hội Việt Nam) xuất bản năm 1992 đã giải thích
thuật ngữ Tư tưởng như sau:
1. Sự suy nghĩ hoặc ý nghĩ: Tập trung tư tưởng; Có tư tưởng sốt
ruột…
12
2. Quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực
khách quan và đối với xã hội (nói tổng quát): Tư tưởng tiến bộ, Tư tưởng
phong kiến, đấu tranh tư tưởng….
Với nội hàm ý nghĩa như trên, khái niệm Tư tưởng hiện diện trên cả hai
cấp độ cá nhân và cộng đồng dân tộc (tư tưởng cá nhân, tư tưởng dân tộc).
Vốn thuộc phạm trù cái tinh thần, tư tưởng con người là loại năng lượng luôn
luôn vận động trong quá trình đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập.
Đấu tranh tư tưởng là động lực cho sự nhận thức chân lý và phát triển ở mỗi
cá nhân cũng như toàn bộ cộng đồng. Cuộc đấu tranh tư tưởng luôn diễn ra
bởi quy luật của sự phát triển. Trong lịch sử nhân loại, từ khi xuất hiện giai
cấp đối kháng thì cũng diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp. Nhưng không phải bất
kỳ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng xuất hiện đảng chính trị. Cuộc đấu tranh
của nô lệ chống chủ nô, cuộc đấu tranh của nông dân chống địa chủ phong
kiến chưa xuất hiện đảng chính trị. Các cuộc đấu tranh này xuất hiện các lãnh
tụ cá nhân kiểu Spactaquýt, Hoàng Sào, Tây Sơn…Chỉ đến cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản mà kết cục của cuộc đấu tranh này là
xoá bỏ giai cấp đối kháng, do tính chất triệt để mà hai giai cấp này không chỉ
cần có lãnh tụ cá nhân mà đòi hỏi phải có bộ tham mưu chính trị, lãnh tụ
chính trị tập thể của giai cấp tức Đảng chính trị.
Hoạt động tư tưởng là hoạt động có chủ đích của một chính đảng nhằm
hình thành, phát triển truyền bá hệ tư tưởng đến giai cấp và quần chúng đông
đảo thúc đẩy giai cấp và quần chúng đi đến hành động hiện thực hoá Cương
lĩnh của Đảng.
Đối với các Đảng Cộng sản, công tác tư tưởng là một bộ phận rất quan
trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của mình; cùng với công tác tổ chức
góp phần xây dựng Đảng thành đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của
13
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhằm hình thành, phát triển, truyền
bá hệ tư tưởng vô sản, Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng
Mác đã nhận định: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay
thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng
lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi
nó thâm nhập vào quần chúng” (9, tr580) về thực chất là khẳng định sức
mạnh của công tác tư tưởng.
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính đảng nhằm xây dựng, các lập, phát triển, hoàn thiện hệ tư tưởng, phổ
biến, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, định hướng giá trị, tạo niềm
tin và thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của mình.
1.2. Vai trò của văn hoá văn nghệ đối với công tác tư tưởng
C.Mác với vai trò là người am hiểu sâu sắc nhất chủ nghĩa tư bản, đã
bày tỏ sự bất bình đối với chủ nghĩa tư bản. Một trong những điều làm cho
Mác bất bình là: Chủ nghĩa tư bản đã làm cho văn hoá, văn nghệ bị tha hoá, bị
đánh mất thiên chức sáng tạo của nó. Trình bày về “Lý luận về giá trị thặng
dư”, Mác đã chỉ rõ “sản xuất tư bản chủ nghĩa phản lại một số ngành sản xuất
tinh thần như nghệ thuật và thi ca” như thế nào. Trong bộ Tư bản, tập 1, Mác
vạch rõ: Chủ nghĩa tư bản biến tác phẩm nghệ thuật thành hàng hoá. Dưới chế
độ tư bản “không có cái gì là không thể dùng tiền mua được, bất cứ cái gì
cũng có thể bán và mua”. Mác ví sự lưu thông trong xã hội tư bản như là một
“cái lò luyện đan” khổng lồ, mà qua cái lò đó, “tất cả mọi vật đều phân hoá,
để khi trở ra đều biến thành tiền”. Mác cho rằng: Trong xã hội tư bản “không
có cái gì thoát khỏi cái lò luyện đan đó, ngay cả đến xương thánh…”.
Sự tàn bạo của chế độ tư bản đối với tự do chân chính của văn nghệ sỹ
là một trong những điều Mác rất quan tâm và nhiều lần ông đã tỏ ra bất bình.
14
Ngay từ hồi còn trẻ, trong loạt bài tranh luận về tự do của người cầm bút đăng
trên báo Rênani, Mác đã viết: “Dĩ nhiên là nhà văn phải kiếm tiền để có thể
sống và viết, nhưng dù sao, nhà văn cũng không nên sống và viết để kiếm
tiền”. Rằng: “Nhà văn quyết không bao giờ coi tác phẩm của mình là một
phương tiện. Những tác phẩm ấy là những mục đích tự thân, những tác phẩm
ấy căn bản không phải là phương tiện đối với chính nhà văn và đối với chính
người khác. Cho nên nhà văn hy sinh cuộc đời của mình cho sự sống còn đó
khi cần thiết”
Mác đã phân tích về địa vị của văn nghệ sỹ trong xã hội tư bản chủ
nghĩa một cách vô cùng sâu sắc trong tác phẩm “Học thuyết về giá trị thặng
dư”: “…Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa không chỉ là sản xuất hàng hoá.
Đó là quá trình thu hút động không trả tiền công và biến tư liệu sản xuất thành
phương tiện thu hút lao động không trả tiền công…Cùng một loại lao
động..mà có thể là lao động sinh lợi hoặc là lao động không sinh lợi”.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” Mác và Ăngghen trình bày rất
cô đúc tư tưởng về văn hoá, nghệ thuật; nhưng những chỉ dẫn của các ông cho
đến nay vẫn mang ý nghĩa nóng hổi trong quá trình xây dựng xã hội mới với
một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trong “Lời mở đầu” cuốn
“Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, Mác đã viết “Sản xuất không
những đem lại vật liệu cho các nhu cầu, mà đem lại cả nhu cầu cho các vật
liệu nữa….Cái nhu cầu mà sự tiêu dùng đòi hỏi ở đối tượng đó là do sự nhận
biết đối tượng đó làm phát sinh ra. Tác phẩm nghệ thuật – và mọi sản phẩm
nghệ thuật khác cũng thế- đều tạo ra một thứ công chúng sính nghệ thuật cao
và có khả năng thưởng thức cái đẹp. Như vậy là sản xuất không những chỉ
sinh ra một đối tượng cho chủ thể, mà còn sản sinh ra một chủ thể cho đối
tượng”. Lời chỉ dẫn đó như định hướng cho văn nghệ sỹ: Hãy sáng tác ra
những tác phẩm thật tốt, thật hay. Mác cũng đã viết “Đối với nghệ thuật thì có
15
những thời kỳ phồn thịnh nhất định, tuyệt nhiên không có quan hệ gì với sự
phát triển chung của xã hội, và do đó, cũng tuyệt nhiên không có quan hệ gì
với cơ sở vật chất…” tức là sản xuất vật chất và nghệ thuật có thể phát triển
theo một tỷ lệ không đều nhau. Đã từng có những câu hỏi: Phải chăng kinh tế
thế nào thì chỉ có văn hoá, văn nghệ ấy? Và từ đó có thể giúp chúng ta củng
cố một niềm tin vào khả năng sản sinh ra một nền văn hoá - văn nghệ phồn
thịnh ngay sau hai cuộc kháng chiến lâu dài, khốc liệt và ngay trong thời kỳ
sản xuất vật chất còn chưa tiếp cận được với các nước tiên tiến, thậm chí còn
lạc hậu, còn mang tính chất hậu chiến vô vàn gian khổ, khó khăn.
Coi văn hoá – văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội, Mác và
Ăngghen cho rằng, văn hoá văn nghệ muốn làm tròn nhiệm vụ của mình phải
phản ánh đời sống xã hội và tham gia cải tạo xã hội. Trong xã hội có giai cấp,
văn hoá văn nghệ phải mang tính giai cấp. Nghĩa là văn hoá văn nghệ phải
đứng trên cơ sở phụng sự sứ mệnh của giai cấp cầm quyền, đi cùng với công
tác tư tưởng để giúp tư tưởng của giai cấp cầm quyền được thấm sâu vào mọi
mặt tinh thần của đời sống nhân dân.
Khi khẳng định rằng văn hoá giữ vai trò cực kỳ quan trọng và trực
tiếp trong nhiệm vụ xây dựng con người, cũng có nghĩa là xác định vai trò
cực kỳ to lớn và có vị trí đặc biệt của văn hoá trong công tác và hoạt động tư
tưởng. Bởi vì, xét về bản chất, công tác tư tưởng là toàn bộ hoạt động trên
lĩnh vực ý thức của con người nhằm mục tiêu chủ yếu là biến tư tưởng tiến
bộ, cách mạng thành lực lượng vật chất để cải tạo xã hội, xây dựng chế độ
mới, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân trở thành hệ tư
tưởng chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội. Như vậy cũng có nghĩa là
hoạt động văn hoá – văn nghệ và công tác tư tưởng có mối quan hệ mật thiết,
chặt chẽ, vì đều là các lĩnh vực thuộc phạm trù ý thức – tinh thần và đều là
công việc trực tiếp với con người. Trong quan hệ đặc thù này, văn hoá – văn
16
nghệ trở thành một sức mạnh, một phương thức độc đáo, có hiệu quả của
công tác tư tưởng.
Nói như vậy không có nghĩa là áp đặt hay bóp méo văn hoá – văn
nghệ, biến văn hoá – văn nghệ trở thành “cái loa” của công tác tư tưởng, biến
mọi hoạt động cụ thể, đa dạng của văn hoá - văn nghệ thành sự minh hoạ thô
thiển giản đơn cho các yêu cầu của công tác tư tưởng hoặc xem nhẹ, phủ nhận
sự tác động đa dạng, phong phú không chỉ là sự tác động tư tưởng của văn
hoá văn nghệ đối với toàn bộ đời sống xã hội và con người.
Trong nội dung và các thành tố cấu thành các sản phẩm văn hoá tinh
thần, ở những mức độ khác nhau, bao giờ cũng chứa đựng các loại tư tưởng
khác nhau sản sinh từ nhu cầu sống của con người, trong đó có tư tưởng triết
học, tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức, tư tưởng thẩm mỹ…. Nội dung tư
tưởng này là hạt nhân, là cốt lõi, là yếu tố thấm trong các sản phẩm văn hoá,
đặc biệt là sản phẩm văn hoá tinh thần nói chung và các tác phẩm văn học,
nghệ thuật nói riêng. Gửi gắm và truyền bá một khát vọng, một niềm tin, một
lý tưởng, một tư tưởng, một nhận thức nào đó trong tác phẩm của mình, là
động cơ sâu sắc thúc đẩy người nghệ sỹ sáng tạo tác phẩm văn học nghệ thuật
và đó cũng là một quy luật nội tại của chính quá trình sáng tạo đó. Như vậy,
từ góc độ văn hoá, từ quy luật của chính nó, chúng ta đã tìm thấy sự “gặp gỡ”
giữa công tác tư tưởng và hoạt động sáng tạo văn hoá - văn nghệ. Tất nhiên,
“chức năng tư tưởng” này của văn hoá – văn nghệ phải được thể hiện thông
qua đặc trưng và chức năng đặc thù của bản thân văn hoá.
“Tiếng nói của văn nghệ hiện thực XHCN là tiếng nói đầy trách
nhiệm, trung thực, tự do, tiếng nói của sự thật, của lương tri, của tinh thần
nhân đạo cộng sản chủ nghĩa” (27, tr 561), phản ánh nguyện vọng sâu xa của
nhân dân và quyết tâm của Đảng đưa văn hoá – văn nghệ lên một tầm cao
17
mới, là công cụ đắc lực của Tư tưởng – văn hoá hướng công chúng ngang tầm
đòi hỏi mới trong công cuộc đổi mới đất nước. Để văn hoá – văn nghệ làm
tròn chức năng tư tưởng của mình, văn nghệ sỹ phải là những chiến sỹ quả
cảm của Đảng trên mặt trận văn hoá, phải “miêu tả cho hay, cho chân thật,
cho hung hồn những người, những việc ấy, bằng văn, bằng thơ, bằng vẽ và
bằng các nghệ thuật khác” (27, tr 561), phải chăm lo bồi dưỡng thế giới quan
Mác – Lênin, nhân sinh quan cách mạng, đề cao tinh thần trách nhiệm đối với
nhu cầu đòi hỏi của nhân dân về sinh hoạt văn nghệ và sáng tạo văn hoá.
Quan điểm nhất quán, xuyên suốt toàn bộ tiến trình lãnh đạo văn hoá của
Đảng ta từ 1930 đến nay là luôn luôn khẳng định văn hoá – văn nghệ là bộ
phận khăng khít của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, có sứ mệnh phục vụ các
nhiệm vụ của cách mạng trong từng thời kỳ và gắn bó sâu sắc với đời sống
nhân dân. Luận điểm cô đúc và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hoá,
nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” đã
làm nên một bước ngoặt cho toàn bộ tiến trình văn hoá Việt Nam, làm cho
nền văn hóa mới và những người sáng tạo, hoạt động trên lĩnh vực văn hoá đó
trở thành một sức mạnh, một lực lượng to lớn, một bộ phận hữu cơ, gắn bó
máu thịt với toàn bộ sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc ta. Nối tiếp kinh
nghiệm và tiếp tục khẳng định chân lý đó, trong sự nghiệp đổi mới từ 1986
đến nay, Đảng ta nhấn mạnh văn hoá, văn nghệ là một bộ phận khăng khít của
sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo và tiếp tục nhấn mạnh
“mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển tòan
diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý
thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có
văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội”, một đòi hỏi
cao và mới đối với văn hoá trong giai đoạn mới của cách mạng – đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. (Báo cáo chính trị của BCH TW
18
Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, 4 –
2001).
Vì vậy, yêu cầu không ngừng nêu cao và khẳng định nội dung tư
tưởng của văn hoá, của các sản phẩm và hoạt động văn hoá - văn nghệ không
chỉ là định hướng chính trị cơ bản trong công tác văn hoá - văn nghệ trước
cuộc đấu tranh tư tưởng - văn hoá đang diễn ra ngày càng gay gắt, phức tạp
hiện nay, mà còn là một nhu cầu của chính văn hoá để tạo ra các giá trị văn
hoá theo đúng vai trò và chức năng mà nó đảm nhiệm trước xã hội. “Văn hoá
và văn học nghệ thuật có tác dụng vô cùng to lớn trong việc góp phần thực
hiện các nhiệm vụ cách mạng giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, có chức năng bồi dưỡng đạo đức, tình
cảm và năng lực thẩm mỹ cho con người, thoả mãn những nhu cầu văn hoá
ngày càng tăng của nhân dân” (48, tr9).
Công tác tư tưởng là một bộ phận hữu cơ, giữ vị trí đặc biệt quan trọng
trong toàn bộ công tác lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Để giữ vững và
đảm bảo sự lãnh đạo đó, điều cốt lõi, cốt tử là lãnh đạo chính trị gắn chặt với
nó là lãnh đạo tư tưởng, trước hết và quan trọng nhất là tư tưởng chính trị. Rời
bỏ trận địa này thực chất là dấu hiệu nguy hiểm nhất của quá trình làm suy
yếu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Để thực hiện với hiệu quả cao
nhất nhiệm vụ chủ yếu đó, công tác tư tưởng phải đồng thời huy động và phát
huy sức mạnh của các chức năng cơ bản: Lý luận, giáo dục, nhận thức, dự
bbáo và nỗ lực tìm tòi, đổi mới, phát triển nội dung, các phương thức, hình
thức, biện pháp trong hoạt động thực tiễn, tìm nhiều con đường và cách thức
tốt nhất, phù hợp nhất đến với các đối tượng tác động của công tác tư tưởng.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng, hiệu quả của công tác tư tưởng là hiệu quả tổng hợp,
19
tác động vào con người đồng thời cả lý trí và tình cảm, cả nhận thức và cảm
xúc, cả tư duy và tâm hồn do tính chất đa dạng, phong phú của các mặt, các
loại hình, các binh chủng của hoạt động tư tưởng tạo nên. Điều đó cũng có
nghĩa là, mỗi loại hình, mỗi binh chủng đó có những đặc trưng và ưu thế
riêng, từ đó có con đường riêng và phương thức đặc thù tác động đến con
người. Đặc điểm đó thể hiện đặc biệt rõ đối với loại hình văn hoá, văn học,
nghệ thuật, lĩnh vực tác động đến con người chủ yếu vào thế giới tình cảm,
tâm hồn, cảm xúc. Đặc điểm đó không hề tạo nên sự tách biệt giữa các loại
hình, mà chính là làm phong phú hơn tính đa chức năng và hiệu quả tổng hợp
của công tác tư tưởng. Vấn đề quan trọng là biết sử dụng “hợp đồng binh
chủng” trong hoạt động thực tiễn. Tách rời từng mặt riêng lẻ không thể tạo
nên hiệu quả. Vì thế, đặc biệt trong thực tiễn ngày hôm nay và đòi hỏi cao của
công tác tư tưởng trong giai đoạn mới, việc hoạt động và tổ chức,liên kết tất
cả các mặt đó để tạo nên sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào con người là
một đặc trưng của công tác tư tưởng và là dấu hiệu của một năng lực mới của
người làm công tác tư tưởng.
Những phân tích trên đây là cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát huy
vai trò, sức mạnh, đặc trưng của văn hoá - văn nghệ trong công tác tư tưởng.
1.3. Ưu thế đặc trưng của văn hoá văn nghệ trong công tác tư
tưởng.
1.3.1. Các loại hình văn hoá văn nghệ và khả năng sử dụng khai
thác ưu thế của chúng vào công tác tư tưởng
Văn hoá - văn nghệ là một lĩnh vực hết sức phong phú và đa dạng,
dưới đây là một số loại hình chủ yếu:
* Các loại hình văn hoá: Văn hoá truyền thống được thể hiện qua
ca dao, dân ca, hò vè, lễ hội…(văn hoá tinh thần), qua bảo tồn, bảo tàng, các
20
di tích lịch sử, tượng đài, thư viện, câu lạc bộ, nhà văn hoá….(văn hoá vật
thể).
* Các loại hình văn nghệ: văn nghệ bao gồm các loại hình: văn học
và nghệ thuật. Trong đó:
Văn học bao gồm: văn học dân gian như: truyền thuyết, thần thoại,
cổ tích…; văn học viết như: thơ, văn xuôi. Trong đó văn xuôi lại chia ra:
truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, ký sự, tuỳ bút….
Nghệ thuật: bao gồm những hình thức nghệ thuật: sân khấu, điện
ảnh, nhiếp ảnh, ca nhạc, múa, kiến trúc, mỹ thuật. Riêng mỹ thuật lại chia ra
hội hoạ, điêu khắc, đồ hoạ. Điện ảnh có các loại hình như: phim tài liệu nghệ
thuật, phim hoạt hình, phim truyện.
Văn nghệ còn được chia ra thành: văn nghệ chuyên nghiệp và văn
nghệ không chuyên.
Văn nghệ chuyên nghiệp có các diễn viên chuyên nghiệp, các đoàn
nghệ thuật, các nhà hát…
Văn nghệ không chuyên nghiệp còn là văn nghệ quần chúng. Đó là
văn nghệ của tất cả mọi người không phải là diễn viên chuyên nghiệp, là sản
phẩm của quần chúng nhân dân sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất.
Như vậy có thể nói, có nhiều loại hình văn hoá - văn nghệ khác nhau
và mỗi loại hình đó có vị trí, vai trò khác nhau trong đời sống vật chất và đời
sống tinh thần của con người và của xã hội. Đặc biệt nó có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng.
Các loại hình văn hoá - văn nghệ được sử dụng như những hình
thức, phương tiện tuyên truyền hiệu quả nhất, nhằm truyền bá sâu rộng chủ
nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chuyển tải đường lối, chủ trương,
21
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và các nhiệm vụ của địa
phương. Đây là hình thức, phương tiện hữu hiệu nhất, sâu rộng nhất, dễ tiếp
thu nhất mà không hình thức, phương tiện nào đạt được. “Trong các hình
thức, phương tiện hoạt động của chúng ta trên mặt trận tư tưởng thì văn học,
nghệ thuật là một kiến thức, một phương tiện hoạt động về mặt nào đó, có
khả năng làm công tác tư tưởng tốt nhất, vì nó rộng rãi nhất, sâu sắc nhất và
bền bỉ nhất, dễ đi sâu vào tình cảm, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn và tư
tưởng” (42, trang 145).
Các hình thức văn hoá - văn nghệ như thơ ca, hò vè, hát… rất gần
gũi với nhân dân, đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của quần chúng một
cách thường xuyên. Thông qua các hình thức này, văn hoá - văn nghệ như sợi
dây nối liền giữa Đảng với quần chúng, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội,
xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá mới.
Văn hoá - văn nghệ là một loại phương tiện trực quan, tác động trực
tiếp vào thị giác người xem, tạo nên ở họ về một vấn đề nhất định theo mục
đích của người tuyên truyền.
Các loại hình văn hoá - văn nghệ được coi như những phương tiện
quan trọng của Đảng và Nhà nước trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Thông
qua các loại hình này, Đảng và Nhà nước nắm bắt được diễn biến tư tưởng
của nhân dân; nắm được những biểu hiện tư tưởng tích cực hay tiêu cực; nắm
được tâm tư nguyện vọng, những băn khoăn, thắc mắc của quần chúng; nắm
được dư luận xã hội theo chiều hướng tốt hay xấu…
Mỗi loại hình văn hoá - văn nghệ đều được sử dụng vào việc góp
phần nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng. tuy nhiên các hình thức,
phương tiện trên đều có những ưu điểm và hạn chế. Vì vậy khai thác ưu thế
của văn hoá văn nghệ trong hoạt động công tác tư tưởng cần phát huy những
22
ưu điểm, hạn chế và căn cứ vào nội dung cụ thể để xây dựng, tổ chức các hoạt
động văn hoá - văn nghệ một cách phù hợp với khách thể công tác tư tưởng.
Tóm lại, văn hoá - văn nghệ giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong
công tác tư tưởng. Nhưng để khai thác tối đa những ưu điểm của văn hoá văn nghệ trong công tác tư tưởng, việc giữ vững định hướng cơ vản của Đảng
trong quá trình xây dựng nền văn hoá - văn nghệ trở nên cấp thiết, đồng thời
phải kiên quyết đấu tranh phê phán những quan điểm lệch lạc, sai lầm trong
lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, loại bỏ văn hoá phẩm độc hại đầu độc con người
về tinh thần, tình cảm.
1.3.2. Chức năng và đặc trưng cơ bản của văn hoá - văn nghệ
*. Chức năng: Gồm 6 chức năng cơ bản sau:
- Chức năng giáo dục
- Chức năng nhận thức
- Chức năng thẩm mỹ
- Chức năng tổ chức và điều chỉnh xã hội
- Chức năng giải trí
- Chức năng giao tiếp
* Đặc trưng cơ bản của văn hoá, văn nghệ
- Văn hoá, văn nghệ tác động đến con người chủ yếu là tác động
trực tiếp vào thế giới tình cảm, tâm hồn, cảm xúc của họ. Vì vậy quy luật tác
động của văn hoá, văn nghệ là quy luật của tình cảm.
- Đặc trưng sáng tạo của văn học và các loại hình nghệ thuật là tư
duy hình tượng, tạo ra hình tượng nghệ thuật với sự thống nhất giữa cái cụ thể
23
với cái khái quát, lý trí và tình cảm, chung và riêng…., tạo ra thiên nhiên thứ
hai trong nghệ thuật.
- Trong hoạt động sáng tạo văn hoá, nhân tố tư tưởng là hạt nhân, là
yếu tố cốt lõi, xuyên thấm tác phẩm. Vì vậy, văn hoá văn nghệ là sức mạnh, là
vũ khí sắc bén, phương thức độc đáo của công tác tư tưởng. Không có hình
thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn hoá, nghệ thuật trong việc xây
dựng tình cảm, nếp nghĩ, nếp sống của con người.
* Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển
- Văn hoá chứa đựng sức sống, tiềm năng, bản lĩnh, sự sáng tạo và
bản sắc của một dân tộc qua hệ thống các giá trị đặc trưng của dân tộc. Vì
vậy, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Chăm lo văn hoá là chăm lo
củng cố nền tảng tinh thần của xã hội.
- Nguồn lực con người, tiềm năng và năng lực sáng tạo của con
người là yếu tố quyết định sự phát triển của đời sống xã hội. Văn hoá có khả
năng to lớn khơi dậy, phát huy, nhân lên nguồn lực, tiềm năng
1.3.3. Ưu thế của văn hoá - văn nghệ trong công tác tư tưởng.
Hồ Chí Minh yêu cầu những người làm công tác văn hoá, văn học – nghệ
thuật phải tích cực học tập chuyên môn, trau dồi đạo đức cách mạng, học ở
trường, học ở sách vở và đặc biệt là phải học ở nhân dân, vì nhân dân là người
chân thật, giản dị, vừa là đối tượng, vừa là mục tiêu văn hoá. Người yêu cầu
cán bộ văn hoá phải thường xuyên trau dồi chủ nghĩa Mác – Lênin, vì đó là
chủ nghĩa đỉnh cao của khoa học, của văn hoá. Chỉ có nắm vững nguyên lý
của chủ nghĩa ấy mới xây dựng và phát triển được nền văn hoá của dân, do
dân, vì dân.
24
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở văn nghệ sỹ, các nhà báo khi nói,
khi viết phải lưu ý tự trả lời 3 câu hỏi:
- Viết cho ai xem?
- Viết để làm gì?
- Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn, dễ đọc.
Các đồng chí ở gần Người trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp,
vẫn thường kể lại câu chuyện, nhiều lần viết xong một bài với ý định phổ biến
tuyên truyền rộng rãi, Bác vẫn hay đưa cho một đồng chí giúp việc trong văn
phòng, trình độ văn hoá thấp đọc trước. Sau đó, Người hỏi lại, nếu chỗ nào
đồng chí đó chưa hiểu, Bác sửa lại cho đến lúc đồng chí thật hiểu mới thôi.
Cho đến hôm nay, ở thời điểm đầu thế kỷ XXI, khi mà trình độ văn hoá,
mặt bằng dân trí của nước ta đã phát triển khá xa so với thế kỷ XX, thì rõ ràng
đối với quảng đại quần chúng, công tác báo chí, thông tin, tuyên truyền
miệng…vẫn rất cần bám sát phương châm của Bác Hồ: dễ đọc, dễ nghe, dễ
làm và làm cho đúng.
Tuy nhiên, bên cạnh việc chú ý làm cho văn hoá gần gũi với quần chúng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường xuyên căn dặn không được theo đuôi
quần chúng, mà trái lại phải hướng dẫn và định hướng cho quần chúng tiến
bộ. Nói chuyện với Hội nghị cán bộ văn hoá ngày 30/10/1958 Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhắc nhở: “Nói là khôi phục vốn cũ thì nên khôi phục cái gì tốt, còn
cái gì không tốt thì phải loại dần ra…năm ngoái khi khôi phục vốn cũ thì khôi
phục cái đồng bóng, rước xách thần thánh. Vì khôi phục như thế nên ở nông
thôn nhiều nơi nên sản xuất, cứ trống mõ bì bõm, ca hát lu bù, có những xã
góp đến mấy triệu đồng đi mua áo, mua mũ, mua hia…Như thế nói là khôi
phục vốn cũ có đúng không? Cái gì tốt ta nên khôi phục và phát triển, còn cái
gì xấu thì ta phải bỏ đi”. Trong thực tiễn chỉ đạo cách mạng, xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn yêu cầu văn hoá phải
25