Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phân tích sự phát triển đường lối công nghiệp hóa của đảng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.99 KB, 21 trang )

1

MỤC LỤC

Lời nói
đầu………………………………………………………………………………2
I – Cơ sở khoa học của đường lối công nghiệp hóa:
……………………………………3
1. 1. Cơ sở lý luận:………………………………………..
…………………………….3
1.1.1. CNH theo quan điểm của Cac
Mac…………………………………...3
1.1.2. CNH theo quan điểm của F.Ăngghen………………………………..3
1.1.3. CNH theo quan điểm của VI
Lenin…………………………………...4
1.1.4. CNH theo quan điểm của Hồ Chí
1.2.

Minh………………………………5
Cơ sở thực tiễn:

…………………………………………………………………..5
1.2.1. Mô hình công nghiệp hóa của Tây Âu…………………...
………………………5
1.2.2. Mô hình công nghiệp hóa của Liên
Xô………………………………………….6
1.2.3. Mô hình công nghiệp hóa của Hàn Quốc
……………………………………….6
II – Quá trình phát triển đường lối công nghiệp hóa ở nước ta (trước và sau đổi
mới)…8
1. CNH thời kỳ trước đổi mới (1960-1886)


…………………………………….8
2. CNH thời kỳ sau đổi mới (1986 đến nay)
………………………………..9
III – Đánh giá chung về quá trình công nghiệp hóa ở nước ta:
………………………..12


2
3.1. Những khó
khăn…………………………………………………………………..12
3.2. Những thuận
lợi…………………………………………………………………...12
Kết
luận………………………………………………………………………………..
14

LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử công nghiệp hóa thế giới cho đến nay đã trải qua hơn 200
năm, kể từ cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ thứ XVIII ở nước
Anh. Cuộc cách mạng công nghiệp này sau đó nhanh chóng lan rộng
sang các nước Tây Âu và các nước khác như một trào lưu phát triển
mới của thế giới. Khi đó, theo cách hiểu đơn giản, công nghiệp hóa
đơn thuần chỉ là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc, nhằm biến một nước nông nghiệp lạc hậu thành một
nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, tùy thuộc vào đặc điểm kinh


3

tế, chính trị , xã hội mà quá trình phát triển công nghiệp hóa ở mỗi

quốc gia có những sự khác biệt.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là
sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của
chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy chúng ta phải tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong thời đại ngày nay, công
nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá ở nước ta là
nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Từ năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một
nước công nghiệp. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ
thực sự thành công chừng nào thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Được thầy giao làm đề tài "Phân tích sự phát triển đường lối
công nghiệp hóa của Đảng ta”, nhóm chúng em đã tìm hiểu và có
thêm rất nhiều kiến thức bổ ích về quá trình công nghiệp hóa của đất
nước. Tuy nhiên, với vốn hiểu biết còn nông cạn và ít ỏi của mình, bài
làm của nhóm em cũng khó tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, chúng em
rất mong được nhận được sự quan tâm, góp ý của thầy để chúng em
hoàn thiện bài thảo luận.
Chúng em xin chân thành cảm ơn !


4

I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP
HÓA:
1.1. Cơ sở lý luận:
1.1.1. Quan điểm của C.Mac về công nghiệp hóa:

Tư tưởng liên quan đến trào lưu phát triển và trào lưu XHCN
của Mác đã ảnh hưởng sâu sắc đến lịch sử nhân loại:
Thứ nhất, các nước lạc hậu có ưu thế hậu phát triển và vượt
các nước phát triển, nhưng tiến trình lịch sử công nghiệp hoá không thể
bỏ qua. Để các nước công nghiệp kém phát triển tiếp cận một cách
nhanh hơn với các nước công nghiệp phát triển? Mác chỉ ra rằng: "Một
quốc gia cần phải và có thể học tập quốc gia khác". Nhưng tiếp đó Mác
lại bổ sung "Một xã hội dù đã tìm ra được quy luật tự nhiên của sự tự
vận động, nhưng vẫn không thể vượt qua và cũng không thể dùng pháp
lệnh để thủ tiêu giai đoạn phát triển của tự nhiên. Nhưng nó có thể rút
ngắn thời gian và giảm bớt đau khổ”. Ở đây muốn nói các nước đang
phát triển có “ưu thế hậu phát" về mặt thực hiện công nghiệp hoá. Các
nước này có thể tiếp thu tiền vốn, kỹ năng và kỹ thuật của các nước
phát triển, làm cho bản thân sự lạc hậu tương đối có thể có lợi cho sự
phát triển.
Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là phương
Tây hoá. Mác cho rằng "các nước lạc hậu có thể cũng cần phải học tập
các nước phát triển nhưng điều đó nhất quyết không phải là nói công
nghiệp hoá chỉ có thể làm theo đúng như mô hình của các nước
phương Tây như các nước Anh, Pháp... Lịch sử thế giới đã chứng
minh, mô hình thực hiện công nghiệp hoá không phải chỉ có một mà
nhiều mô hình, có mô hình kiểu nguyên phát (kiểu phát triển ban đầu)
của Anh, Pháp, có mô hình kiểu hậu phát triển sau, còn có mô hình
kiểu tân phát (kiểu phát triển mới) của "bốn con rồng" Châu Á, mô
hình của CNXH mang đặc sắc Trung Quốc.
1.1.2. Quan điểm của Ph.Ăng-ghen về công nghiệp hóa:
Trong quan niệm của ông, thời kỳ quá độ là thời kỳ luôn "gắn
với một số thiếu thốn nào đó". Điều đáng lưu ý nhất là, khi phát triển
quan niệm về thời kỳ quá độ, Ph.Ăng-ghen đã nói đến tính tất yếu
của phương thức quá độ "rút ngắn" đối với những nước đang ở giai

đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa hoặc chưa từng trải qua con
đường phát triển tư bản chủ nghĩa.


5

Trong những năm 80 - 90 của thế kỷ XIX, để khắc phục
những nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ vẫn còn
khá phổ biến trong phong trào công nhân quốc tế, Ph.Ăng-ghen đã nói
rõ quan niệm của ông về sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa tư bản. Ông viết: "Cái gọi là "xã hội xã hội chủ nghĩa",
theo ý kiến tôi, không phải là cái gì đó nhất thành bất biến, mà cũng
như mọi chế độ xã hội khác, nó cần phải được xem xét như một xã hội
được thay đổi và cải tạo thường xuyên. Sự khác biệt có tính chất quyết
định của nó so với chế độ hiện nay (chế độ tư bản chủ nghĩa), dĩ nhiên,
là ở việc tổ chức sản xuất trên cơ sở sở hữu chung trước hết của từng
dân tộc đối với tất cả các tư liệu sản xuất".
Không chỉ khẳng định sự khác biệt căn bản của chủ nghĩa xã hội
so với chủ nghĩa tư bản là ở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà
còn nhấn mạnh, tính ưu việt lớn nhất của chủ nghĩa xã hội là cùng với
việc thiết lập chế độ công hữu ấy, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại,
mọi thành quả của văn hóa, khoa học sẽ mang lại lợi ích cho toàn thể
xã hội và cho mỗi người.
1.1.3. Quan điểm của V.I.Lê-nin về công nghiệp hoá:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể thắng lợi khi xây dựng được một nền sản xuất hiện đại, dựa
trên một cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến, có năng suất lao động cao
hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Do đó, khi đất nước Xô-viết bước vào thời
kỳ khôi phục và phát triển kinh tế, V.I.Lê-nin đã coi công nghiệp hoá
là bước đi quan trọng và đầu tiên để xây dựng cơ sở vật chất của chủ

nghĩa xã hội. Người xác định, cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã
hội là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp.
Sự phát triển ngành công nghiệp đã kéo theo sự phát triển của
các ngành khác mà Liên Xô có nhiều lợi thế: khai thác than đá, dầu
mỏ, chế tạo máy, giao thông vận tải. Trong việc phát triển các ngành
công nghiệp, Liên Xô cũng theo tư tưởng phát triển mạnh các ngành
sản xuất tư liệu sản xuất, vì theo V.I.Lê-nin, sự tiến bộ về kỹ thuật
trong thời đại máy móc đòi hỏi phải gấp rút phát triển ngành sản xuất
khai thác than đá và sắt là những tư liệu sản xuất "thật sự để chế tạo tư
liệu sản xuất"... Kỹ thuật càng phát triển càng lấn át lao động thủ công
của con người và đem những máy móc ngày càng phức tạp để thay thế
lao động thủ công. Trong toàn bộ nền sản xuất của đất nước, máy móc
và những tư liệu cần thiết để chế tạo máy móc sẽ ngày càng chiếm vị
trí lớn hơn.


6

Song song với việc phát triển các ngành công nghiệp, Liên Xô
cũng rất chú trọng tới việc phát triển nông nghiệp. Là một đất nước
rộng lớn, Liên Xô có nhiều điều kiện để phát triển nông nghiệp sản
xuất hàng hoá lớn. Có thể nói, ở giai đoạn đầu của Liên bang Xô-viết,
V.I.Lê-nin cùng với Đảng Cộng sản thực hiện Chính sách kinh tế
mới, tiếp đến là công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành nông nghiệp.
Quan điểm của V.I.Lê-nin là, để cải tạo và sử dụng được
thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, thì phải làm cho lực lượng sản
xuất phát triển, năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Người
khẳng định, năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất
cho sự thắng lợi của một chế độ xã hội mới. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
một năng suất lao động chưa từng có dưới chế độ nông nô. Chủ nghĩa

tư bản có thể bị đánh bại hẳn và sẽ bị đánh bại hẳn khi chủ nghĩa xã hội
đã tạo ra một năng suất lao động mới, cao hơn nhiều. Đó là sự nghiệp
rất khó khăn và lâu dài, nhưng sự nghiệp đó đã bắt đầu và đây là điều
chủ yếu.
Năm 1922, V.I.Lê-nin tiếp tục khẳng định lại quan điểm của
mình về sự cần thiết phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để rồi sau
đó tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, chủ nghĩa tư bản nhà nước,
phải được hiểu là do nhà nước của giai cấp công nhân kiểm soát, điều
tiết bằng luật pháp. Đặc trưng của nó là phải theo quy luật của thị
trường có sự quản lý của nhà nước; đó là loại hình thuộc nhiều hình
thức sở hữu khác nhau, quan hệ kinh tế mở, cạnh tranh. Nhờ chọn đúng
hướng đi, sau khi thực hiện quá trình công nghiệp hoá, nước Nga đã trở
thành một cường quốc có sức mạnh lớn lao để chiến thắng phát xít Đức
trong chiến tranh thế giới thứ hai, và trở thành một trong những nước
có nền kinh tế tiên tiến, hiện đại bậc nhất trên thế giới lúc bấy giờ.
1.1.4. CNH theo quan điểm của Hồ Chí Minh:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Người cho đó là con
đường tất yếu phải đi để xây dựng đất nước giàu mạnh. Vận dụng sáng
tạo những điều Bác dạy, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã từng bước
thực hiện thành công sự nghiệp vĩ đại này.
Trong bài “Con đường phía trước” với bút danh C.K đăng trên
Báo Nhân dân số 2143 ngày 20/1/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Nước ta vốn là nước nông nghiệp lạc hậu, đó là chỗ bắt đầu đi của
chúng ta... Đời sống nhân dân chỉ có thể dồi dào khi chúng ta dùng
máy móc để sản xuất một cách rộng rãi: dùng máy móc cả trong công


7


nghiệp và nông nghiệp, máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức
người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm việc phi
thường..., đó là con đường phải đi của chúng ta”.
Phát biểu tại Đại hội Công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ 6 ngày
19/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định vai trò, tầm quan trọng của
nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa đất nước: “Nước ta là
một nước nông nghiệp..., muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh
tế nói chung phải lấy nông nghiệp làm gốc. Nếu không phát triển nông
nghiệp thì không có cơ sở phát triển công nghiệp vì nông nghiệp cung
cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của
công nghiệp làm ra”.
Nhờ vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, sau hơn 20 năm
đổi mới, nông nghiệp, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá
toàn diện và to lớn: kinh tế nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân
được cải thiện, diện mạo nông thôn thay đổi rõ rệt. Dù vậy, nhiệm vụ
phía trước vẫn còn rất nặng nề và tư tưởng của Người mãi là “kim chỉ
nam” hành động cho mỗi chúng ta.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
1.2.1. Mô hình công nghiệp hóa của các nước Tây Âu:
Anh là nước đầu tiên trên thế giới tiến hành CNH - HĐH đất
nước. Cuộc cách mạng đầu tiên ở Anh diễn ra sớm hơn các nước khác
từ 50 – 100 năm, biến nước Anh từ một nước nông nghiệp lạc hậu
thành một nước công nghiệp phát triển nhất thế giới. Cách mạng công
nghiệp Anh là quá trình thay thế kỹ thuật thủ công bằng kỹ thuật cơ
khí. Mô hình CNH ở Anh được bắt đầu triển khai từ ngành dệt, sau đó
lan sang các ngành sản xuất tiêu dùng khác và toàn bộ ngành công
nghiệp nặng và toàn bộ hệ thống công nghiệp có tiền đề phát triển ăn
theo. Nhờ một số phát minh khoa học lớn cùng với việc áp dụng nó để
đưa khoa học tiến bộ vào sản xuất cũng đã đem lại kết quả phát triển
kinh tế đáng ngạc nhiên cho nước Anh lúc bấy giờ.

Sau Anh, một số nước khác như: Pháp, Đức, Mỹ… cũng tiến hành
công nghiệp hóa. Ở giai đoạn đầu, các nước đi sau đều chịu ảnh hưởng
của cách mạng công nghiệp Anh nên bắt đầu từ công nghiệp nhẹ
(ngành dệt) sau mới chuyển sang các ngành khác. Tuy nhiên, ở mỗi
nước với những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội khác nhau vẫn có
những đặc điểm khác với Anh.


8

Cách mạng công nghiệp Pháp mang nhiều đặc điểm mô phỏng
kiểu Anh nhưng có một số nhân tố đã làm chậm tiến trình công nghiệp
như: do quá trình tích lũy vốn chậm chạp, yếu ớt hơn; nguồn vốn tích
lũy từ các thuộc địa Pháp cũng ít hơn, cục diện chính trị bất ổn…
Ở Đức, cách mạng công nghiệp có đặc điểm khác với Anh, Pháp
nhưng lại giống với các nước Mỹ và Nhật. Thứ nhất, bắt đầu từ công
nghiệp nhẹ nhưng nhanh chóng chuyển sang công nghiệp nặng. Thứ
hai, Chính phủ có vai trò lớn thúc đẩy cách mạng công nghiệp diễn ra
khẩn trương. Thứ 3, cơ sở hạ tầng được chú trọng phát triển.
1.2.2. Mô hình công nghiệp hóa của Liên Xô:
Quan niệm phổ biến ở Liên Xô trước đây cho rằng "công nghiệp
hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải
tạo cả nông nghiệp". Đó là sự phát triển các ngành công nghiệp nặng
mà cốt lõi là ngành chế tạo cơ khí, do đó tỷ trọng công nghiệp trong
tổng sản phẩm xã hội ngày càng lớn. Quan niệm trên xuất phát từ thực
tiễn của Liên Xô khi triển khai công nghiệp hoá. Liên Xô đã có một số
tiền đề ban đầu là công nghiệp đã phát triển triển đến trình độ nhất định
dưới CNXH tư bản trước đây, dù trong thời kỳ nội chiến (1918-1920)
công nghiệp có bị tàn phá nặng nề. Bên cạnh đó, trong thời kỳ 19261940, Liên Xô bị chủ nghĩa đế quốc bao vây toàn diện nên sự trợ giúp
từ bên ngoài hầu như không có. Trong bối cảnh ấy, để tồn tại và phát

triển Liên Xô phải tiến hành công nghiệp hoá với nhịp độ nhanh, phải
tập trung cao độ phát triển công nghiệp nặng, phải hướng các ngành
công nghiệp vào phục vụ nông nghiệp nhằm bảo đảm các nhu cầu
trong nước, đồng thời góp phần tăng nhanh tiềm lực quốc phòng. Quan
niệm này, nhiều năm trước đây được coi là hợp lý và được áp dụng ở
một số nước XHCN và các nước đang phát triển nhằm xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ. Thực tế, việc sao chép một cách máy móc mô
hình công nghiệp hoá của Liên Xô đã không đem lại kết quả như mong
muốn ở những nước này.
Quá trình CNH của Liên Xô đi vào thoái trào từ những năm cuối
thập kỷ 70 và sự tan rã của cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết trong
tình trạng khủng hoảng toàn diện là bài học xương máu cho các nước
đang và sẽ tiến hành CNH.
1.2.3. Mô hình công nghiệp hóa của Hàn Quốc:
Hàn Quốc tiến hành CNH - HĐH đất nước một cách nhanh chóng
( khoảng từ năm 1960 trở đi) và đạt được những kết qủa đáng kể. Quá
trình CNH chủ trương hướng về xuất khẩu đã tỏ ra rất có tác dụng với


9

nền kinh tế nước này. Ban đầu, Hàn Quốc thực hiện chiến lược sản
xuất thay thế nhập khẩu trong một thời gian ngắn, sau đó chuyển sang
chiến lược sản xuất để xuất khẩu. Thời kỳ đầu chủ yếu là xuất khẩu
hàng tiêu dùng, sau đó phát triển công nghiệp nhẹ và lấy đó làm cơ sở
để phát triển công nghiệp nặng. Sau đó Hàn Quốc tiếp tục tiến hành
CNH đất nước theo chiều sâu trên nhiều lĩnh vực khác như: cơ sở hạ
tầng kỹ thuật, giao thông vận tải, giáo dục đào tạo đến nay các nước
này đã đạt được thành tựu đáng tự hào trên thế giới.
Mô hình phát triển của Hàn Quốc là rất khác so với các nước đang

phát triển điển hình. Họ không phát minh ra bất cứ điều gì mới hoặc
phát hiện ra lý thuyết kinh tế của riêng mình. Tất cả Hàn Quốc phải
làm là nhập công nghệ từ phần còn lại của thế giới, cải thiện chúng và
biến nó trở thành trong một cách để đạt được một lợi thế cạnh tranh
trên thế giới.
Tỷ lệ tăng trưởng GDP của Hàn Quốc trong những năm
thực hiện CNH: (%)
Giai

19631973

19731981

19811986

Hàn
Quốc

9.7%

7.7%

10.1%

đoạn

* Từ mô hình công nghiệp hóa của các nước trên thế giới, chúng
ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho đường lối công nghiệp
hóa của Việt Nam:
- Tiến hành CNH - HĐH một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực. Có

thể phát triển ưu tiên cho một số ngành thế mạnh ở trong nước trước,
sau khi đạt được kết quả nhất định thì lấy đó làm cơ sở đẩy mạnh CNH
một cách toàn diện. Nói như vậy không có nghĩa là phải giữ cố định
một tỷ trọng công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ mà phải linh hoạt
thay đổi tỷ trọng cho phù hợp với hoàn cảnh thế giới trong nước và thế
giới trong mức độ thăng bằng của toàn bộ nền kinh tế.
- Tiến hành CNH theo chiều sâu. Tiêu biểu cho thấy sự thành
công của đường lối này là Hàn Quốc. Chúng ta thấy rõ nét sự năng
động và nhạy bén, thực thi của các chiến lược có tác dụng lớn như thế
nào. Luôn luôn chú ý đến những mục tiêu tiêu biểu trung gian của quá
trình CNH - HĐH đất nước như cơ cấu kinh tế, cơ cấu sở hữu tỷ trọng
đầu tư.


10

- Khẳng định vai trò nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá.
Sự khủng hoảng toàn diện của Liên Xô trước khi tan rã có nhiều
nguyên nhân gây ra, song sự sai lệch trong đường lối tiến hành CNH
cũng là một nguyên nhân quan trọng. Nhà nước đánh mất vai trò điều
tiết vĩ mô đối với nền kinh tế Liên Xô. Công nghiệp hoá XHCN theo
kiểu Liên Xô - chỉ quan tâm phát triển công nghiệp nặng - đã là cơ sở
vững chắc cho Liên Xô đứng vững và chiến thắng trong thế chiến thứ
hai, nhưng nhà nước Liên Xô không linh hoạt thay đổi nó trong điều
kiện hoà bình. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy ổn định chính trị
xã hội là một trong những tiền đề nhân tố cơ bản để xây dựng và phát
triển đất nước. Vì vậy, phát huy vai trò của nhà nước cũng là bài học
cho quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam.
- Phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng hướng về xuất
khẩu. Công nghiệp hàng tiêu dùng phát triển sẽ đảm bảo đáp ứng trực

tiếp nhu cầu đa dạng và phong phú và ngày càng tăng của mọi tầng lớp
dân cư. Điều kiện thuận lợi hơn của nước ta so với quá trình CNH hàng
tiêu dùng ở nước Anh là chỗ hiện nay có rất nhiều máy móc hiện đại
phục vụ sản xuất có thể nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam. Tận
dụng thuận lợi này, chúng ta có thể đẩy nhanh một bước quá trình
CNH không chỉ hàng tiêu dùng mà cả trong các lĩnh vực khác.

II.QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI CÔNG
NGHIỆP HÓA Ở NƯỚC TA:
2.1.Công nghiệp hóa trước thời kỳ đổi mới (1960-1986)
* Chủ trương của Đảng về CNH:
a. Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa:
Ở miền Bắc từ năm 1960 đến năm 1975
- Đại hội III của Đảng (tháng 9/1960) trên cơ sở phân tích đặc
điểm miền Bắc, trong đó đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, đã khẳng định:
+ Tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm
vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quan
điểm này được khẳng định nhiều lần trong các Đại hội Đảng sau này.
+ Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là xây


11

dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu
xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục
tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.

- Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá III
(tháng 4/1962) nêu phương hướng chỉ đạo và phát triển công nghiệp:
+ Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
+ Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông
nghiệp.
+ Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng.
+ Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy
mạnh phát triển công nghiệp địa phương.
Trên phạm vi cả nước từ năm 1975 đến năm 1985:
- Đại hội IV của Đảng (tháng 12/1976), trên cơ sở phân tích
toàn diện tình hình trong nước và quốc tế, đề ra đường lối công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa,
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh
tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và
nông nghiệp trong cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp; vừa
xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương, kết
hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất”.
- Đại hội V của Đảng (tháng 3/1982):
+ Rút ra kết luận: từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan
trọng là phải xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa cho phù hợp
với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường.
+ Nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường
trước mắt của thời kỳ quá độ là lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu,
ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng
và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ,
vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và

công nghiệp nhẹ.

b. Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới:


12

- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội
và thiên về phát triển công nghiệp nặng.
- Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài
nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa; chủ
lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và các doanh nghiệp nhà
nước; việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện
thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, không tôn
trọng các qui luật của thị trường.
- Nóng vội, giản đơn, duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không
quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội.
c ) Kết quả:
- So với năm 1955, số xí nghiệp tăng lên 16,5 lần. Nhiều khu
công nghiệp lớn đã hình thành, đã có nhiều cơ sở đầu tiên cho các
ngành công nghiệp nặng quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim,
hóa chất được xây dựng.
- Đã có hàng chục trường cao đẳng, đại học, trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật xấp
xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm 1960 là thời điểm bắt đầu công
nghiệp hóa.
Ý nghĩa: Những kết quả trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng tạo cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn
tiếp theo.
2.2. CNH thời kỳ sau đổi mới (1986 đến nay)
Đại hội VI (12/1986)

Đại hội VI cùa Đảng (12/1986) với tinh thần “nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã chỉ ra những sai lầm
trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960 – 1985,
mà trực tiếp là 10 năm từ 1975 – 1985. Đó là:
Phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh
tế, v.v… Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, chủ trương đẩy
mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt
khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và
đầu tư, thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết
hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ
cấu hợp lý, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình
quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương


13

thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư
nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ V,
như: vẫn chưa thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công
nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể
hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện
cho bằng được 3 chương trình mục tiêu: lương thực thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Đại hội VII(1/1994)
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (1/1994) có bước đột phá mới

trong nhận thức về công nghiệp hóa, thể hiện trước hết ở nhận thức về
khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. “Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất
lao động xã hội cao”.
Đại hội VIII (6/1996)
Đại hội nêu ra 6 quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
định hướng những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong những năm còn lại của thập kỷ 90. Các quan điểm và định hướng
này đến nay về cơ bản vẫn đúng và có giá trị chỉ đạo thực tiễn. Sáu
quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa là:
1.
Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc
tế; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; dựa vào nguồn lực
trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài;
xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
2.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân,
của mọi thành phần kinh tế, trong đó nhà nước kinh tế là chủ đạo.
3.
Lấy việc phát huy yếu tố con người làm yếu tố cơ bản cho
việc phát triển nhanh, bền vững; động viên toàn dân cần kiệm xây


14


dựng đất nước, không ngừng tăng cường tích lũy cho đầu tư và phát
triển; tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát
triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường.
4.
Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại,
tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
5.
Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác
định phương án phát triển; lựa chọn phương án đầu tư công nghệ; đầu
tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực hiện có; trong phát triển mới,
ưu tiên đầu tư phương pháp vừa và nhỏ, cong nghệ tiên tiến tạo việc
làm, thu hồi vốn nhanh……
6.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng.

Đại hội IX (4/2001) và Đại hội X (4/2006)
Đảng tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số quan điểm mới về
công nghiệp hóa:
- Con đường công nghiệp hóa: ở nước ta cần và có thể rút ngắn
thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta
nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận
dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các
nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút
ngắn thời gian.
Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn so với
các nước đi trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: phát triển

kinh tế và công nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước
nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa
với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn
lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam. Đặc biệt coi
trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây
là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta: phải phát triển
nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế,
đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.


15

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là
phải tiến hành công nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng
ngoại.
- Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn, hướng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, sản phẩm nông
nghiệp.
-Đại hội XI của Đảng( Tháng 1/2011): Phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường;
xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn
kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển
các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và
các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp
ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công
nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài
hoà giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế

trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó
khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế.
* Thành tựu CNH từ sau đổi mới:
Một là, cơ sở vật chất – kỹ thuật của đất nước được tăng cường
đáng kể, khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao.

Hai là, cơ cấu kinh tế sau công nghiệp hóa chuyển dịch theo
hướng tiến bộ.
Bảng 1: Cơ cấu kinh tế theo ngành của Việt Nam qua các năm.
(Đơn vị: %)
Năm

1990

1995

2000

2005

2010

Nông
nghiệp

38,1

27,2


24,5

20,9

27,9

Công
nghiệp

22,7

28,8

36,7

41

34,1

Dịch vụ

39,2

44

38,8

38,1

38



16

Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã
góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao.
Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người
của Việt Nam.
Năm

1991

1996

2001

2006

2010

Tỉ lệ tăng
GDP(%)

6

9,3

6,84


8,17

9,5

GDP/ng
(USD/ng/năm)

123

283

405

715

1.160

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA Ở NƯỚC TA:
3.1. Những khó khăn:
Mặc dù đã có những khởi sức trong qú trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước trong những năm đầu, Việt Nam thực sự vẫn chỉ
là một nước nghèo nàn lạc hậu trên thế giới. Chính vì điều khó khăn.
Xuất phát điểm cho quá trình này ở Việt Nam là thấp do phải chịu hậu
quả của các cuộc chiến tranh, cơ cấu khin tế truyền thống nặng về nông
nghiệp và thủ công nghiệp, bộ máy lãnh đạo có những biểu hiện tiêu
cức như quan liêu, lãng phí, ban hành chủ trương chính sách chưa hợp
lý... Ngoài ra còn có những nhân tố bên ngoài tác động xấu đến sự
công nghiệp hóa, hiện đại hoá của đất nước ta: những sức ép về mặt xã
hội – chính trị thông qua kinh tế đầu tư kèm theo điều kiện, đầu tư máy

móc thiết bị lạc hậu ... những diễn biến phức tạp về mặt ngoại giao và
quân sự của một số nước trên thế giới làm cho tình hình quốc phòng và
an ninh trong nước trở nên phức tạp hơn.
3.2. Những thuận lợi:
3.2.1 Tình hình trong nước hiện nay:
Việt Nam đã và đang có những khởi sắc về kinh tế trong những
năm gần đây, đời sống người dân đã thay đổi rõ rệt, đó chính là một
trong những điều kiện thuận lợi cho những bước đi tiếp theo của chúng
ta. Chính trị và xã hội ổn định là những cơ sở vững chắc cho đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam cũng như các hợp đồng công nghiệp hóa,


17

hiện đại hóa đất ở Việt Nam. Tổng số vốn đầu tư xét trong vòng 5 năm
(1991 –1995) từ Nhà nước, nước ngoài và nhân dân là 18 tỷ USD với
cơ cấu đầu tư là 40% vốn đầu tư cho công nghiệp, trong đó hơn 60% là
đầu tư chiều sâu. Trong năm 1997, theo dự đoán của ngân hàng trung
ương Malaysia, Việt Nam sẽ đạt được mức tăng trưởng GDP là 9.5%,
đứng đầu trong khu vực Đông Nam Á, Chính sách kinh tế vĩ mô thích
hợp của Nhà nước cũng là nhân tố quan trọng tạo nên sự ổn định và
phát triển kinh tế. Đặt biệt là có những chính sách thích hợp của Nhà
nước về giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ dân trí cho nhân
dân là một tiền đề thích hợp cho phát triển bền vững.
3.2.2. Tình hình xu hướng chung của thế giới:
Các nước có nền công nghiệp phát triển cũng như các nước công
nghiệp mới đều đã tiến xa hơn chúng ta rất nhiều về mọi mặt, và đó
cũng là một điều kiện thuận lợi cho chúng ta học tập, rút những kinh
nghiệm về đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở những nước này
mà còn có thể tiếp thu công nghệ khoa học kỹ thuật trực tiếp từ những

nước này. Xu hướng chung ngày nay của thế giới là hoà bình, hợp tác
và cùng phát triển. Đó là điều kiện tốt cho những nước nghèo, những
nước đang phát triển trên thế giới trong đó có Việt Nam chúng ta, có
thể bắt tay cùng các nước khác trên thế giới để phát triển kinh tế, xã
hội ở nước mình.


18

KẾT LUẬN
Tóm lại, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam là
một tất yếu lịch sử. Nó nhằm tới những mục tiêu cụ thể và mang tính
cách mạng. Nó đổi mới hàng loạt vấn đề cả về lí luận và thực tiễn, cả về
kinh tế và chính trị - xã hội. Nó bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh mới.
Công nghiệp hóa CNH,HDH đã và sẽ là xu thế phát triển chung
của tất cả các quốc gia trên thế giớ. Đó cũng là con đường tất yếu của
nước ta để đi đến mục tieu “dâu giàu, nươc mạnh, xã hội công bằng, văn
minh” CNH,HDH không chỉ là công cuộc xây dựng kinh té mà còn là
quá trình biến đổi, cách mạng sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh
tế, chính trị, văn hóa, khoa học và cong người), làm cho xã hội phát triển


19

lên một trạng thái mới về chất đã và sẽ là xu thế phát triển chung của tất
cả các quốc gia trên thế giớI. Đó cũng là con đường tất yếu của nước ta
để đi đến mục tiêu “dâu giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Công nghiệp hóa không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà còn là quá
trình biến đổi, cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh
tế, chính trị, văn hóa, khoa học và con người), làm cho xã hội phát triển

lên một trạng thái mới về chất. Quá trình thực hiện công nghiệp là nhằm
mục tiêu biến đổi nước ta thành nước công nghiệp, cơ sở vật chất kĩ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với sự phát triển sản xuất, nguồn lực con người được phát huy, mức
sống vật chất, tinh thần được nâng cao, quốc phòng và an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Như vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình lâu dài để tạo
ra sự chuyển đổi cơ bản toàn bộ bộ mặt nước ta về chính trị - kinh tế quốc phòng - an ninh. Việc Đảng và Nhà nước chọn con đường tiến
hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa là hết sức đúng đắn, mặc dù đã có
những sai lầm trong đường lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa, gặp
phải nhiều điều kiện khó khăn trong tiến trình đổi mới, nhưng Việt
Nam đang cơ bản hoàn thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
năm 2020. Bằng sự thông minh, sáng tạo, cần cù, chúng ta hoàn toàn
tin tưởng trong một tương lai không xa, dưới sự lãnh đạo cảu Đảng và
Nhà nước, Việt Nam sẽ hoàn thành công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, đưa đất nước sánh vai cùng các nước bạn bè trong cộng đồng
quốc tế trên con đường phát triển.


20


21



×