Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Giáo trình tài chính tiền tệ 4: Trung gian tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.74 KB, 20 trang )

Bài 4: Trung gian tài chính

BÀI 4: TRUNG GIAN TÀI CHÍNH

Mục tiêu

Nội dung

• Hiểu được định nghĩa và cơ chế hoạt

• Giới thiệu cho sinh viên các kiến thức cơ

động của các trung gian tài chính.
• Phân biệt được sự khác nhau trong cách
thức hoạt động của các trung gian tài
chính khác nhau.

bản về các thể chế tài chính trung gian.
• Giới thiệu cho sinh viên các kiến thức
nâng cao về từng loại hình trung gian
tài chính cụ thể, đặc biệt là các Ngân
hàng thương mại.

Thời lượng học
• 8 tiết.

v1.0

63



Bài 4: Trung gian tài chính

TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP

Tình huống
Sau khi cân nhắc kỹ, ông Quang chưa quyết định tham gia vào
thị trường tài chính mà tìm hiểu cách thức tài trợ vốn khác cho
hoạt động kinh doanh của mình. Ông Quang lại được tư vấn là
nên tham khảo cách thức xin tài trợ dưới dạng mua trả góp từ
phía công ty tài chính VinaFin. Tuy nhiên theo thói quen, ông
Quang vẫn nghĩ là phương thức vay ngân hàng sẽ là tốt hơn.
Nhưng ông không thể nào khẳng định được phương thức vay
nào là tốt hơn do không biết ngân hàng và công ty tài chính khác nhau thế nào, ngoài ngân
hàng và công ty tài chính ông có thể huy động nguồn tài trợ từ nơi nào khác hay không?
Câu hỏi
Nếu là người tư vấn cho ông Quang, anh chị có thể phân biệt được công ty tài chính và ngân
hàng thương mại hay không, các đối tượng này thuộc vào nhóm trung gian tài chính nào và
đặc điểm của chúng khác nhau như thế nào. Bên cạnh đó, vẫn còn một nhóm trung gian tài
chính nữa chưa được đề cập tới ở ví dụ trên, đó là nhóm trung gian nào và đại diện tiêu biểu
của nó là gì?

64

v1.0


Bài 4: Trung gian tài chính

4.1.


Giới thiệu chung về các trung gian tài chính

4.1.1.

Chức năng của các trung gian tài chính

Như đã giới thiệu ở bài 2, vốn có thể được dẫn từ người thừa vốn sang người thiếu
vốn thông qua kênh thứ hai, kênh dẫn vốn gián tiếp. Trong kênh dẫn vốn gián tiếp,
người đi vay và người cho vay không trực tiếp gặp nhau mà thông qua trung gian tài
chính đứng giữa, truyền dẫn vốn từ người cho vay đến
người đi vay. Ví dụ các ngân hàng có thể huy động
vốn từ việc nhận tiền gửi từ dân cư và sử dụng số tiền
này để cung cấp các khoản vay cho doanh nghiệp hoặc
mua trái phiếu công ty trên thị trường tài chính. Kết
quả là vốn được chuyển từ dân cư sang các doanh
nghiệp với sự trợ giúp của trung gian tài chính.
Kênh dẫn vốn gián tiếp sử dụng trung gian tài chính là
kênh dẫn vốn chính của nền kinh tế. Mặc dù thị trường
tài chính ngày càng đóng vai trò quan trọng nhưng các
trung gian tài chính vẫn là nguồn cung cấp vốn chính
của các doanh nghiệp. Điều này càng đúng hơn ở các
quốc gia đang phát triển. Tại sao các trung gian tài chính và kênh tài chính gián tiếp
đóng vai trò quan trọng như vậy trong các thị trường tài chính? Để trả lời câu hỏi này,
chúng ta sẽ nghiên cứu vai trò của các trung gian tài chính.
4.1.2.

Vai trò của các trung gian tài chính

Trung gian tài chính góp phần làm giảm chi phí giao dịch
Chi phí giao dịch là thời gian và tiền bạc bỏ ra để thực hiện giao dịch tài chính. Chi

phí giao dịch là một vấn đề của những người có tiền để cho vay.
Ví dụ, bạn có một số tiền 10 triệu đồng và muốn cho vay số tiền này. Tuy nhiên, để
đảm bảo người đi vay trả tiền, bạn phải thuê một luật sư soạn thảo hợp đồng cho vay,
trong đó quy định chi tiết lãi suất, số lần thanh toán, thời điểm đáo hạn và các biện
pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng… Luật sư có thể đòi phí 2 triệu đồng để soạn thảo
một hợp đồng. Sau khi tính toán, bạn thấy số tiền lãi bạn có thể thu được (có thể là 1,5
triệu/năm) chưa đủ để bù đắp chi phí giao dịch bạn bỏ ra và do đó bạn không muốn
cho vay nữa. Ví dụ này cho thấy những người tiết kiệm với những khoản tiền nhỏ khó
có thể cho vay trên thị trường tài chính.
Vậy các trung gian tài chính giúp giảm chi phí giao dịch, thúc đẩy hoạt động truyền
dẫn vốn trong nền kinh tế như thế nào?
• Thứ nhất, các trung gian tài chính có thể giảm đáng kể chi phí giao dịch do quy mô
lớn có thể giúp họ tận dụng tính kinh tế theo quy mô (economies of scale), giảm
chi phí giao dịch cho mỗi một giao dịch khi quy mô giao dịch tăng lên (tổng chi
phí tiến hành giao dịch chỉ tăng không đáng kể khi quy mô giao dịch tăng)
Ví dụ: Một ngân hàng có thể thuê luật sư soạn thảo hợp đồng cho vay chi tiết với mức
phí lên đến 10 triệu đồng và sử dụng hợp đồng đó trong nhiều giao dịch, vì vậy làm
giảm đáng kể chi phí giao dịch. Giả sử hợp đồng này có thể được sử dụng cho 1000
giao dịch thì chi phí cho mỗi một giao dịch chỉ là 10 nghìn đồng, như vậy có thể giúp
nguồn vốn của các nhà đầu tư nhỏ tiếp cận thị trường tài chính.
v1.0

65


Bài 4: Trung gian tài chính

• Thứ hai, do hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, các trung
gian tài chính có thể sử dụng kinh nghiệm và chuyên môn của mình làm giảm chi
phí giao dịch. Các tổ chức tài chính là những chuyên gia lành nghề, tinh thông

nghề nghiệp, họ sẵn sàng đưa ra những hợp đồng vay nợ ít tốn kém và cung cấp
các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý. Ngoài ra, các trung gian tài chính còn
cung cấp cho khách hàng những dịch vụ phụ trợ làm cho các khách hàng dễ dàng
thực hiện các giao dịch hơn, ví dụ như cho khách hàng truy cập trang web để giao
dịch, vấn tin tài khoản, chuyển tiền, chi trả hóa đơn…
Các trung gian tài chính hỗ trợ hoạt động chia sẻ và phân tán rủi ro
Các trung gian tài chính giúp các nhà đầu tư giảm thiểu
rủi ro thông qua quá trình chia sẻ rủi ro. Các trung gian
tài chính tạo và bán các tài sản có rủi ro thấp, phù hợp
với khách hàng và sử dụng số vốn huy động được để
mua các tài sản có độ rủi ro cao hơn. Chẳng hạn các
ngân hàng có thể huy động tiền gửi ngắn hạn từ dân cư
và cung cấp các khoản vay dài hạn, nhiều rủi ro hơn cho
các doanh nghiệp.
Ngoài ra, các trung gian tài chính còn thúc đẩy quá trình chia sẻ rủi ro với việc hỗ trợ
các nhà đầu tư phân tán rủi ro. Ví dụ, một nhà đầu tư nhỏ có 10 triệu và muốn đầu tư
trên thị trường chứng khoán. Với số tiền nhỏ này, số lượng chứng khoán mà nhà đầu
tư có thể mua là rất ít, do đó họ không thể phân tán được rủi ro. Các quỹ đầu tư ra đời
để hỗ trợ các nhà đầu tư nhỏ trong vấn đề này. Các quỹ đầu tư huy động vốn từ các
nhà đầu tư nhỏ và sử dụng số tiền đó để đầu tư trên thị trường tài chính. Với việc đầu
tư vào một danh mục tài sản, các quỹ đầu tư này có thể giảm đáng kể chi phí giao dịch
cũng như phân tán hiệu quả rủi ro.
Các trung gian tài chính giúp giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng
Thông tin bất cân xứng (asymmetric information) là việc một bên không biết đầy đủ
thông tin về bên kia trong một giao dịch khiến không thể đưa ra được các quyết định
chính xác. Ví dụ, người đi vay thường có nhiều thông tin về lợi nhuận dự tính và
rủi ro gắn với dự án đầu tư hơn là người cho vay. Sự tồn tại của thông tin bất cân
xứng dẫn đến 2 vấn đề: lựa chọn đối nghịch (adverse selection) và rủi ro đạo đức
(moral hazard).
• Lựa chọn đối nghịch là vấn đề của thông tin bất cân xứng trước khi giao dịch xảy

ra. Nó xảy ra khi những người đi vay không có khả năng trả nợ, đặc biệt là những
người tích cực nhất khi đi vay và do vậy có nhiều khả năng nhất để được vay. Do
không biết hết thông tin về người đi vay nên người cho vay có thể lựa chọn không
chính xác (lựa chọn đối nghịch). Vì vấn đề lựa chọn đối nghịch khiến cho các
khoản vay có thể đến không đúng địa chỉ, nên những người cho vay có thể quyết
định không cho vay mặc dù vẫn có những người đi vay tốt trên thị trường, khiến
cho cả người vay tốt lẫn người vay xấu đều không thể huy động vốn. Vấn đề lựa
chọn đối nghịch được đưa ra đầu tiên trong lĩnh vực bảo hiểm, những người đi mua
bảo hiểm có rủi ro cao lại thường là những người tích cực đi mua bảo hiểm nhất.
• Rủi ro đạo đức là vấn đề do thông tin bất cân xứng gây ra sau khi giao dịch đã xảy
ra. Chẳng hạn sau khi bạn đã mua bảo hiểm tài sản, bạn có thể không có nhiều
động cơ giữ gìn tài sản đó do nghĩ rằng nếu có hư hỏng, mất mát đã được công ty
66

v1.0


Bài 4: Trung gian tài chính

bảo hiểm bồi thường. Công ty bảo hiểm không có
nhiều thông tin về việc bạn sẽ sử dụng tài sản đó
như thế nào nên bạn có thể có những hành động đi
ngược lại quyền lợi của công ty bảo hiểm. Trên thị
trường tài chính, rủi ro đạo đức có thể xảy ra khi
người đi vay sẽ thực hiện một số hoạt động mà
người cho vay không mong muốn. Rủi ro đạo đức
làm giảm khả năng khoản vay sẽ được hoàn trả, do
vậy có thể khiến người cho vay không muốn cho
vay. Rủi ro đạo đức có thể xảy ra trong các công ty cổ phần do sự tách biệt giữa
chủ sở hữu vốn - các cổ đông và người quản lý doanh nghiệp - ban giám đốc:

người quản lý doanh nghiệp, do sở hữu một phần vốn rất nhỏ, hoặc thậm chí
không sở hữu một phần vốn nào của doanh nghiệp, có thể hành động vì lợi ích cá
nhân của họ hơn là lợi ích của các cổ đông sở hữu vốn.
Như vậy, các vấn đề do lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức có thể cản trở sự hoạt
động hiểu quả của thị trường tài chính. Các trung gian tài chính có thể giải quyết đáng
kể vấn đề này.
Với sự có mặt của các trung gian tài chính, các nhà đầu tư nhỏ có thể góp vốn cho thị
trường tài chính với việc cho một trung gian tài chính tin cậy vay vốn, trung gian này
có thể sử dụng khoản tiền này để cho vay hoặc mua chứng khoán. Các trung gian tài
chính, ví dụ như các ngân hàng, có thể thu được lợi tức cao hơn các nhà đầu tư nhỏ do
họ có kinh nghiệm và kỹ năng, họ có thể phân biệt các người đi vay có mức độ rủi ro
tín dụng khác nhau. Ngoài ra, các trung gian tài chính cũng có thể thu lợi tức cao hơn
do họ có kỹ năng giám sát người đi vay và do đó làm giảm rủi ro đạo đức. Kết quả là
các trung gian tài chính có thể trả lãi cho người đi vay và vẫn có thể thu được lợi
nhuận cho mình.
Như vậy, có thể thấy các trung gian tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng trong
nền kinh tế bởi họ giúp làm giảm chi phí giao dịch, thúc đẩy hoạt động chia sẻ và
phân tán rủi ro và giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng.
4.2.

Các trung gian tài chính

Các trung gian tài chính là những tổ chức cung cấp cho
khách hàng các sản phẩm và dịch vụ tài chính hiệu quả
hơn so với giao dịch trực tiếp trên thị trường tài chính.
Trong phần này, chúng ta sẽ nghiên cứu các trung gian
tài chính quan trọng và cách thức các trung gian tài
chính này thực hiện chức năng trung gian. Các trung
gian tài chính có thể được xếp vào 4 loại chính:
• Các tổ chức nhận tiền gửi

• Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng
• Các công ty tài chính
• Các trung gian đầu tư.
v1.0

67


Bài 4: Trung gian tài chính

4.2.1.

Các tổ chức nhận tiền gửi (Depository institutions)

Các tổ chức nhận tiền gửi là các trung gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua
nhận tiền gửi từ cá nhân, tổ chức rồi cung cấp cho những chủ thể cần vốn chủ yếu
dưới hình thức các khoản vay. Hoạt động của các trung gian tài chính liên quan đến
hoạt động tạo tiền gửi, một thành phần quan trọng của cung tiền.
Các loại tổ chức nhận tiền gửi bao gồm:
• Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là các trung gian tài chính
có lịch sử lâu đời nhất. Các ngân hàng đầu tiên
(như ngân hàng hiện nay) xuất hiện ở Italia từ thế
kỷ 13, tại những thành phố của thời kỳ phục hưng,
với chức năng chính là giúp thực hiện hoạt động
thanh toán và thanh toán bù trừ hỗ trợ cho thương
mại hàng hoá và dịch vụ nở rộ ở Italia lúc bấy giờ.
Các NHTM huy động vốn chủ yếu dưới dạng: nhận
tiền gửi thanh toán (tài khoản vãng lai- check/current deposits), tiền gửi tiết kiệm
(savings deposits) và tiền gửi có kỳ hạn (time deposits). Vốn huy động được dùng

để cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, vay thế chấp, mua chứng khoán chính
phủ… Ngoài ra, các ngân hàng còn cung cấp dịch vụ thanh toán qua ngân hàng và
buôn bán ngoại tệ. Đây là nhóm trung gian tài chính lớn nhất và được biết đến
nhiều nhất.
• Các tổ chức cho vay và tiết kiệm (Saving and Loans Associations or S&Ls - Mỹ,
Building Societies - UK) và các Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ.
Các tổ chức này huy động vốn dưới dạng tiền gửi tiết kiệm (thường gọi là
cổ phần - shares), tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi thanh toán (Ở Mỹ, trước những năm
1970, các tổ chức này không được phép nhận tiền gửi thanh toán). Trong quá khứ,
hoạt động của các tổ chức tiết kiệm bị giới hạn và chủ yếu các tổ chức này sử dụng
vốn huy động để cho vay thế chấp để mua nhà. Nhưng các giới hạn này ngày càng
bị nới lỏng và ranh giới giữa các ngân hàng thương mại và các S&Ls dần dần được
xoá bỏ.
• Các quỹ tín dụng (Credit Unions).
Quỹ tín dụng là một tổ chức tài chính tập thể được các thành viên thành lập và
quản lý. Quỹ tín dụng khác với ngân hàng và các tổ chức tài chính khác ở chỗ các
thành viên có tài khoản ở quỹ tín dụng là chủ của quỹ tín dụng. Các quỹ tín dụng
thường là các tổ chức phi lợi nhuận. Chỉ có thành viên của quỹ mới có thể gửi tiền
vào quỹ hoặc vay tiền từ quỹ. Do vậy, các quỹ tín dụng thường cam kết giúp đỡ
các thành viên cải thiện tình hình tài chính của họ.
4.2.2.

Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng (Contractual Savings Institutions)

Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng là các trung gian tài chính huy động tiền theo
định kỳ trên cơ sở một hợp đồng đã ký kết với khách hàng. Ví dụ: Các công ty
bảo hiểm, quỹ lương hưu… Các tổ chức này có thể tính toán tương đối chính xác số
tiền họ sẽ phải trả trong tương lai, họ không phải lo lắng như các tổ chức nhận tiền gửi
68


v1.0


Bài 4: Trung gian tài chính

về việc không thể thanh toán, vì thế, tính thanh khoản của tài sản không phải là một
vấn đề đáng quan tâm đối với họ như các tổ chức nhận tiền gửi. Do đó, các tổ chức
tiết kiệm theo hợp đồng thường đầu tư vốn của họ chủ yếu vào các chứng khoán dài
hạn như cổ phiếu, trái phiếu, các khoản cho vay thế chấp…
• Các công ty bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm là các trung gian tài chính
với chức năng chủ yếu là cung cấp phương tiện để
bảo vệ các hộ gia đình, các doanh nghiệp trước
những tổn thất về tài chính do những rủi ro nhất
định gây ra thông qua việc cung cấp các hợp đồng
bảo hiểm theo đó các công ty bảo hiểm sẽ trả tiền
bảo hiểm khi rủi ro xảy ra.
Có hai loại công ty bảo hiểm chính là công ty bảo hiểm phi nhân thọ và công ty
bảo hiểm nhân thọ. Các công ty bảo hiểm sẽ được nghiên cứu cụ thể ở phần 4.4.
• Các quỹ lương hưu
Các quỹ lương hưu là các tổ chức tài chính hoạt động với mục đích cung cấp cho
người lao động có được khoản thu nhập ổn định sau khi về hưu thông qua việc
cung cấp các chương trình lương hưu (pension
plans). Theo đó, công ty, công đoàn và cán bộ công
nhân viên đóng góp theo định kỳ (trừ vào lương
hưu hoặc tự nguyện đóng góp) trong thời gian
những người này còn đang làm việc đến khi về hưu
được nhận tiền hưu trí (trả một lần khi về hưu hoặc
trả định kỳ đều đặn cho đến chết). Các quỹ lương
hưu dùng tiền đóng góp để đầu tư đạt được mức

sinh lời nhất định trong khi vẫn đảm bảo an toàn
cho khoản vốn. Do số tiền mà các quỹ phải chi trả hàng năm có thể dự đoán trước
với độ chính xác cao nên quỹ thường đầu tư số tiền nhàn rỗi vào các công cụ đầu
tư dài hạn như trái phiếu và cổ phiếu, các khoản vay thế chấp dài hạn. Ban quản trị
của các quỹ lương hưu thường nắm giữ những tài sản có mức sinh lời cao và độ rủi
ro thấp nhờ phân tán rủi ro.
4.2.3.

Các công ty tài chính (Finance Companies)

Công ty tài chính huy động vốn bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi, cổ phiếu,
trái phiếu… và sử dụng số tiền thu được để cho cá nhân và doanh nghiệp vay. Chức
năng trung gian tín dụng của công ty tài chính thể hiện ở chỗ họ huy động các khoản
vốn lớn nhưng thường cho vay các khoản vay nhỏ, điều này khác với các ngân hàng.
Ngân hàng thường huy động những khoản vốn nhỏ từ việc nhận tiền gửi và cho vay
các khoản vay lớn.
Điểm phân biệt các công ty tài chính với các ngân hàng: Công ty tài chính không
được thực hiện dịch vụ thanh toán, nhận tiền gửi từ dân cư. Công ty tài chính chỉ
có thể huy động vốn bằng việc phát hành chứng chỉ tiền gửi trên 1 năm, cổ phiếu,
trái phiếu…
v1.0

69


Bài 4: Trung gian tài chính

• Công ty tài chính bán hàng (Sale finance company):
Các công ty tài chính bán hàng thường là công ty
con của một công ty sản xuất, các công ty này

thường cung cấp các khoản vay cho khách hàng
mua hàng hóa của công ty mẹ. Ví dụ như công ty
tài chính bán hàng General Motors cung cấp tín
dụng cho khách hàng mua xe của General Motors.
Các công ty tài chính bán hàng cạnh tranh trực tiếp
với ngân hàng trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng và được người mua hàng đánh giá
cao do họ có thể tiếp cận khoản vốn vay nhanh và thuận lợi hơn, ngay tại điểm
mua hàng.
• Công ty tài chính tiêu dùng (Consumer finance company)
Các công ty tài chính tiêu dùng cung cấp các khoản vay tiêu dùng cho khách hàng
hoặc để tài trợ các khoản nợ nhỏ. Các công ty tài chính tiêu dùng thường là các
công ty tài chính độc lập hoặc là công ty con của một ngân hàng. Các công ty này
thường không cạnh tranh trực tiếp với ngân hàng trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng.
Họ thường cung cấp tín dụng cho những khách hàng không thể vay vốn từ ngân
hàng và cho vay với lãi suất cao.
• Công ty tài chính kinh doanh (Business finance company)
Các công ty tài chính kinh doanh cung cấp các khoản tín dụng đặc biệt cho các
doanh nghiệp bằng việc cho vay và chiết khấu các khoản phải thu. Công ty tài
chính kinh doanh có thể kể đến các công ty bao thanh toán (factoring), công ty cho
thuê tài chính (leasing)…
4.2.4.

Các trung gian đầu tư

Các trung gian đầu tư là các trung gian tài chính chuyên hoạt động trong lĩnh vực đầu
tư. Chức năng chủ yếu của các tổ chức là hỗ trợ cho các chủ thể kinh tế huy động vốn
để tài trợ cho các dự án đầu tư, cũng như giúp các nhà đầu tư có thể đầu tư các khoản
vốn tạm thời nhàn rỗi vào thị trường tài chính.
• Quỹ đầu tư (Mutual fund/ investment fund)
Các quỹ đầu tư là các trung gian tài chính phát hành các chứng chỉ quỹ để huy

động vốn từ các nhà đầu tư và sử dụng vốn đó để đầu tư vào chứng khoán (cổ
phiếu, trái phiếu).
Với việc phát hành các chứng chỉ quỹ mệnh giá nhỏ và mua chứng khoán với số
lượng lớn, các quỹ đầu tư có thể giảm chi phí giao dịch và nắm giữ một danh mục
chứng khoán đa dạng. Các quỹ đầu tư giúp các nhà đầu tư nhỏ giảm chi phí giao
dịch khi mua chứng khoán và phân tán rủi ro tốt hơn bằng cách đa dạng hóa danh
mục đầu tư. Các quỹ đầu tư này có thể do một công ty đầu tư chuyên nghiệp, một
công ty môi giới đầu tư hoặc một tổ chức tài chính khác (ngân hàng, các công ty tư
vấn đầu tư độc lập…) quản lý.
Mỗi một quỹ có những quy định đầu tư riêng (đầu tư cả cổ phiếu và trái phiếu, chỉ
đầu tư cổ phiếu,…)

70

v1.0


Bài 4: Trung gian tài chính

Có hai loại quỹ đầu tư:
o

o

Quỹ đầu tư mở (Open – end mutual fund): Luôn sẵn sàng phát hành thêm cổ
phiếu mới hoặc hoàn lại vốn cho các cổ phiếu mà cổ đông muốn rút vốn theo
giá trị tài sản ròng của chúng (Net present Value - NPV). Tổng số cổ phần của
quỹ đầu tư mở thay đổi hàng ngày khi các cổ đông mua hoặc hoàn trả cổ phiếu.
NPV = Giá trị thị trường của các chứng khoán nắm giữ/Số chứng chỉ quỹ
lưu hành

Quỹ đầu tư đóng (Closed – end mutual fund): Phát hành chứng chỉ quỹ. Các cổ
phiếu này không được rút vốn ra như trong quỹ đầu tư mở. Cổ phiếu này được
mua bán thông qua môi giới như các cổ phiếu thường, do vậy giá của chúng có
thể cao hơn hoặc thấp hơn NPV.

• Ngân hàng đầu tư (Mỹ), công ty chứng khoán
Các tổ chức này có chức năng giúp đỡ các doanh
nghiệp, chính phủ huy động vốn cho hoạt động của
họ thông qua phát hành chứng khoán. Các ngân
hàng đầu tư còn hỗ trợ các công ty trong việc sát
nhập hoặc mua lại công ty khác và cơ cấu lại các
doanh nghiệp đang tồn tại.
Ngân hàng đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp phát
hành chứng khoán trên các hoạt động sau:
Tư vấn: nên phát hành cổ phiếu hay trái phiếu để huy động vốn, nếu phát hành thì
phát hành với số lượng bao nhiêu, giá như thế nào, đối với trái phiếu thì nên phát
hành với lãi suất bao nhiêu, thời hạn thế nào?
Bảo lãnh phát hành: cam kết mua chứng khoán với một mức giá xác định rồi sau
đó đem bán ra thị trường thứ cấp.
Tham gia hoạt động tài chính:
o Đầu tư (Investing )
o Ngân hàng đầu tư (Investment Banking)
o Tạo lập thị trường (Market Making)
o Giao dịch (Trading)
o Quản trị tiền mặt (Cash Management)
o Sáp nhập và thâu tóm (Mergers and Acquisitions)
o Các dịch vụ khác
4.3.

Ngân hàng thương mại


4.3.1.

Sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng

Thời kỳ hoạt động của các Ngân hàng sơ khai
Hoạt động kinh doanh tiền tệ được bắt đầu với việc nhận giữ tiền vàng và các tài sản
có giá trị khác tại các đền thờ. Các đền thờ cổ có thể được xem hình thức sơ khai đầu
tiên của ngân hàng. Khi gửi tiền, người gửi tiền được nhận một tờ biên lai làm căn cứ
xác định quyền sở hữu và trả lệ phí gửi tiền. Những người gửi tiền có thể sử dụng
những giấy chứng nhận quyền sở hữu vàng để thanh toán. Người nhận các chứng thư
này không gặp khó khăn gì trong việc chuyển chúng ra tiền mặt.
v1.0

71


Bài 4: Trung gian tài chính

Những người nắm giữ tiền nhận thấy rằng trong cùng một khoảng thời gian, có một số
người đến đổi chứng thư lấy tiền, nhưng cũng có những người khác gửi tiền vào. Sự
bổ sung qua lại giữa lưu lượng tiền gửi vào và rút ra làm xuất hiện một lượng tiền
nhàn rỗi trong kho. Điều này cho phép những người giữ tiền chỉ cần dự trữ một lượng
tiền mặt nhất định so với tổng số tiền gửi, phần còn lại có thể sử dụng để cho vay. Có
những bằng chứng cho thấy các đền thờ đã cho các thương gia vay vào thế kỷ 18
trước công nguyên. Người gửi tiền do nhận được tiền lãi từ những khoản cho vay bắt
đầu trả lãi cho các khoản tiền gửi để huy động vốn vào ngân hàng. Một số nghiệp vụ
quan trọng khác của ngân hàng cũng ra đời và bắt đầu được hoàn thiện như ghi chép
sổ sách, thanh toán bù trừ…
Đến thời Trung Cổ Châu Âu, hoạt động ngân hàng không còn tấp nập như trước do

Nhà thờ không ủng hộ hoạt động này. Chỉ có những người Do thái, do không chịu ảnh
hưởng của Giáo hội, vẫn tiếp tục duy trì hoạt động này.
Giai đoạn từ thế kỷ XIII đến cuối thế kỷ XIX
Thế kỷ XIII đánh dấu sự ra đời và phát triển của các
ngân hàng ở miền Bắc Italia, do sự phát triển của
thương mại quốc tế. Đến năm 1250, chỉ tính riêng
Florence đã có 80 ngân hàng. Bên cạnh các nghiệp vụ
truyền thống. các nghiệp vụ khác của ngân hàng cũng
bắt đầu phát triển như chiết khấu thương phiếu, chuyển
ngân và bảo lãnh. Các ngân hàng ở Florence còn có chi
nhánh ở rất nhiều nơi như ở Barcelona, Seville, Majorca, Paris, Avignon, Nice,
Marseilles, London, Bruges, Constantinople, Rhodes, Cyprus and Jerusalem.
Đến TK 17, các ngân hàng thực sự được công nhận như một doanh nghiệp kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ và phát hành tiền dưới dạng các chứng thư, kỳ phiếu thay cho
vàng. Lúc đầu, các kỳ phiếu ngân hàng chỉ được phát hành khi có một khoản tiền vàng
thực sự gửi vào ngân hàng (đảm bảo bằng vàng). Tuy nhiên, đến cuối thế kỉ XVII các
ngân hàng bắt đầu lợi dụng ưu thế của mình để phát hành một khối lượng lớn các kỳ
phiếu tách rời khỏi dự trữ vàng để cho vay, điều này đe doạ dự trữ vàng và khả năng
chuyển đổi ra tiền mặt của các kỳ phiếu được phát hành.
Do tất cả các ngân hàng đều có quyền phát hành tiền nên nhà nước không thể kiểm
soát được khối lượng tiền trong lưu thông và càng không thể kiểm soát được tính chất
đảm bảo của lường tiền lưu thông đó. Bên cạnh đó, dân chúng có sự lựa chọn kỳ phiếu
của các ngân hàng, khiến cho kỳ phiếu của các ngân hàng lớn chiếm lĩnh thị trường,
đẩy kỳ phiếu của các ngân hàng nhỏ ra khỏi lưu thông. Tình trạng này kéo dài dẫn đến
sự bất ổn định trong lưu thông tiền tệ.
Trước tình hình đó, nhà nước buộc phải can thiệp nhằm thiết lập trật tự và sự thống
nhất cho việc phát hành tiền và đảm bảo an toàn cho các giấy chứng nhận nợ của các
ngân hàng. Kết quả của sự can thiệp này là chỉ còn một số ngân hàng lớn được quyền
phát hành tiền kèm theo nghiệp vụ kinh doanh, các ngân hàng khác chỉ được kinh
doanh hoạt động tiền tệ và tín dụng, không được phép phát hành tiền, chúng được

quyền mở tài khoản và thanh toán bù trừ thông qua ngân hàng phát hành, biến ngân
hàng phát hành thanh trung tâm thanh toán.
Dần dần, chỉ có một ngân hàng được quyền phát hành tiền, trở thành NH phát hành.
Hệ thống ngân hàng được phân hoá thành hai cấp: ngân hàng phát hành (không có
72

v1.0


Bài 4: Trung gian tài chính

chức năng lưu thông tiền tệ) và hệ thống ngân hàng trung gian (không có chức năng
phát hành nhưng có chức năng kinh doanh tiền tệ).
Giai đoạn từ thế kỷ 20 đến nay: Ngân hàng hiện đại
Từ đầu thế kỷ 20 đến nay, hệ thống ngân hàng thương mại không ngừng phát triển và
hoàn thiện. Bên cạnh các dịch vụ truyền thống - những dịch vụ có lịch sử lâu đời mà
sự ra đời và phát triển của nó gắn liền với sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân
hàng, được cung ứng theo kiểu “truyền thống”, không có nhiều ứng dụng công nghệ
hiện đại như dịch vụ nhận tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ cho vay…, các ngân hàng thương
mại đang mở rộng danh mục dịch vụ, cung cấp ngày một nhiều các dịch vụ mới cho
khách hàng. Các dịch vụ hiện đại ra đời đã mang lại nhiều lợi ích cho người sử dụng,
giúp họ có thể sử dụng mọi dịch vụ tài chính tại một ngân hàng. Và theo như P.Rose,
các ngân hàng thương mại ngày nay đã trở thành các “siêu thị tài chính” cung cấp đầy
đủ các dịch vụ từ ngân hàng đến bảo hiểm, chứng khoán dưới cùng một mái nhà1
Dịch vụ khác

Dịch vụ tín dụng

Dịch vụ tài trợ
thương mại


Dịch vụ đầu tư

Dịch vụ thanh toán
NGÂN HÀNG
HIỆN ĐẠI

Dịch vụ
quỹ đầu tư

Dịch vụ
bảo hiểm

Dịch vụ quản trị
tiền mặt

Dịch vụ môi giới

Dịch vụ ngân hàng
đầu tư/bảo lãnh
chứng khoán

Hình 4.1. Các dịch vụ cung cấp bởi các ngân hàng đa năng hiện nay

4.3.2.

Chức năng của Ngân hàng thương mại

• Trung gian tín dụng
Đây là chức năng quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng thực

hiện chức năng này với việc huy động vốn từ những chủ thể tạm thời dư thừa vốn
và cho những chủ thể thiếu vốn vay, đóng vai trò như một “cầu nối” giữa những
người thừa vốn và những người thiếu vốn.
Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai trò hết sức
quan trọng đối với người gửi tiền, người đi vay và đối với nền kinh tế.
Người gửi tiền thu được lãi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi gửi vào ngân hàng.
Ngoài ra, người gửi tiền còn được cung cấp một số dịch vụ thanh toán của ngân hàng.
Người đi vay được thỏa mãn các nhu cầu về vốn kinh doanh, chi tiêu và thanh toán.
Đối với bản thân ngân hàng, họ sẽ thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất huy
động vốn và lãi suất cho vay, hoặc từ các khoản phí dịch vụ.

1

v1.0

Peter Rose (1999), Commercial Bank Management, Irwin McGraw Hill.
73


Bài 4: Trung gian tài chính

Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh
tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá tình tái sản xuất được thực hiện
liên tục.
• Thanh toán
Chức năng thanh toán được thực hiện trên cơ sở chức năng trung gian tín dụng.
Ngân hàng thực hiện thanh toán hàng hoá, dịch vụ thay mặt cho khách hàng (ví dụ
phát hành và thanh toán séc, chuyển tiền, thanh toán điện tử)… Ngân hàng thương
mại đóng vai trò là người “thủ quỹ” cho người gửi tiền do ngân hàng là người giữ
tài khoản của họ.

4.3.3.

Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại

Trong phần này, chúng ta chỉ đi sâu nghiên cứu các
nghiệp vụ cơ bản thể hiện trên bảng cân đối kế toán
như các nghiệp vụ huy động và sử dụng vốn. Ngoài ra,
các ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ khác
không phản ánh trên bảng cân đối kế toán như bảo
lãnh, tư vấn…
4.3.3.1. Nghiệp vụ huy động vốn

Đây là nghiệp vụ huy động, tạo nguồn vốn cho Ngân
hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn được phản
ánh thông qua cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương
mại. Nguồn vốn của ngân hàng là toàn bộ các nguồn
tiền tệ mà ngân hàng tạo lập, huy động được để cho
vay, đầu tư, cung cấp các dịch vụ ngân hàng…
• Vốn huy động (Nợ phải trả) - Nghiệp vụ tài sản nợ
Tiền gửi (Deposits): Đây là nguồn vốn huy động lớn nhất và quan trọng nhất của
các ngân hàng. Trong trường hợp các ngân hàng phá sản, tiền thu được từ việc bán
các tài sản của ngân hàng phải được dùng, trước hết, để trả nợ cho những người
gửi tiền, sau đó mới dùng để trả cho các chủ nợ khác và cho cổ đông.
Các loại tiền gửi phổ biến:
o Tiền gửi không kỳ hạn (demand deposit, sight deposit) : Là loại tài khoản ngân
hàng cho phép người gửi tiền có thể gửi tiền vào và rút tiền ra bất kỳ lúc nào.
Loại tiền gửi này có mục đích chính là để thanh toán. Tiền gửi không kỳ hạn
còn được gọi là tiền gửi phát séc, tiền gửi vãng lai (cheque/checking account,
current account). Do chủ tài khoản có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào, nên tài
khoản này có lãi suất thấp, hoặc không có lãi suất. Chủ tài khoản sẵn sàng chấp

nhận lãi suất thấp để có một tài sản có tính lỏng cao và được hưởng các dịch vụ
thanh toán của ngân hàng.
o Tiền gửi có kỳ hạn (time deposit) : là những khoản tiền gửi có kỳ hạn nhất
định. Về nguyên tắc, người gửi chỉ có thể rút theo thời hạn đã thoả thuận,
nhưng trên thực tế, để thu hút loại tiền gửi này với kỳ hạn dài, các ngân hàng
vẫn cho phép rút tiền trước hạn nhưng khách hàng chỉ được hưởng lãi suất
không kỳ hạn hoặc với mức lãi suất tương ứng theo loại kỳ hạn nhất định do
ngân hàng quy định. Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn lãi suất tiền gửi không
kỳ hạn và thông thường kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao.
74

v1.0


Bài 4: Trung gian tài chính

Tiền gửi chiếm đến 70-80% tổng nguồn vốn của các ngân hàng, lớn hơn rất nhiều
so với vốn tự có của ngân hàng, điều này đặt các ngân hàng trước nhiều rủi ro. Các
ngân hàng phải luôn sẵn sàng để trả tiền cho người gửi tiền. Áp lực này buộc các
ngân hàng phải cẩn trọng khi cho vay, nếu không, ngân hàng có thể sụp đổ trước
sức ép của người gửi tiền.
Nguồn vốn đi vay : Trong quá trình hoạt động, ngân hàng thương mại có thể vay
vốn từ ngân hàng trung ương (NHTW), các ngân hàng khác hoặc vay trên thị
trường tài chính.
o Vay từ NHTW: NHTW là ngân hàng của các
ngân hàng, là “người cho vay cuối cùng”, vì
vậy, các ngân hàng thương mại có thể được
NHTW cho vay vốn khi cần thiết.Nhìn chung,
các NHTW cho các ngân hàng thương mại vay
chủ yếu dưới hình thức chiết khấu, tái chiết

khấu các chứng từ có giá. Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam cho các tổ chức tín dụng là các ngân
hàng vay ngắn hạn dưới các hình thức tái cấp vốn theo các loại sau:
ƒ Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng: là hình thức tái cấp vốn của Ngân hàng
Nhà nước cho các ngân hàng đã cho vay đối với khách hàng
ƒ Chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá
ƒ Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác
ƒ Ngoài ra, các ngân hàng thương mại còn vay từ NHTW để thanh toán bù
trừ, hoặc vay hỗ trợ đặc biệt.
o Vay từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác. Các ngân hàng thương mại có thể
vay từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức sau:
ƒ Vay từ các NH khác trên tài khoản đặt tại NHTW với mục đích chính là
đảm bảo quy định dự trữ bắt buộc của NHTW
ƒ Vay từ các ngân hàng khác trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng
o Vay trên thị trường tài chính bằng cách phát hành các chứng khoán: Đây là
nguồn vốn mà NHTM có được qua việc phát hành các chứng khoán như hợp
đồng mua lại, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi...
Với việc phát hành các chứng từ có giá, ngân hàng có khả năng tập trung một
khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn và chủ động sử dụng.
• Vốn ngân hàng - vốn chủ sở hữu (Bank capital)
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng, hay còn gọi là vốn ngân hàng, là khoản vốn thuộc
sở hữu của ngân hàng.
Vốn điều lệ : là vốn ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Tuỳ theo hình thức
sở hữu mà vốn điều lệ được hình thành từ các nguồn khác nhau. Đối với các
NHTM quốc doanh, số vốn ban đầu do Nhà nước cấp khi thành lập và được bổ
sung trong quá trình hoạt động, còn đối với NHTM cổ phần, vốn điều lệ do các cổ
đông đóng góp.
Vốn điều lệ nhiều hay ít phụ thuộc khả năng tài chính của chủ sở hữu và quy mô
hoạt động của từng ngân hàng, tuy nhiên không được thấp hơn mức vốn pháp định

mà luật pháp quy định cho từng loại ngân hàng.
v1.0

75


Bài 4: Trung gian tài chính

Câu hỏi : Vốn điều lệ có thể thay đổi trong quá trình hoạt động không? Nếu có,
lấy từ nguồn nào?
Các quỹ : Để đảm bảo duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của mình, trong quá
trình hoạt động các NHTM phải trích lập các quỹ, như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ,
quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển
Câu hỏi: Ngân hàng lấy tiền ở đâu để trích lập các quỹ?
Vốn chủ sở hữu chiếm một tỷ lệ nhỏ trong toàn bộ nguồn vốn hoạt động của NHTM
nhưng nó có ý nghĩa rất lớn. Đây là một trong những yếu tố đánh giá năng lực tài
chính, mức độ chịu đựng rủi ro, điều kiện tiếp cận tín dụng quốc tế. Theo quy định
Basel I (1988), các NHTM được yêu cầu phải duy trì một mức vốn chủ sở hữu tối
thiểu trên tổng tài sản. Hệ số an toàn vốn (CAR), theo quy định của Basel ít nhất phải
bằng 8%. Vốn tự có cũng là căn cứ để xác định giới hạn cho vay đối với một khách
hàng. Theo luật Việt Nam, ngân hàng chỉ có thể cho vay tối đa một khách hàng không
vượt quá 15% vốn tự có; tổng bảo lãnh cho một khách hàng không được vượt quá
15% vốn tự có...
4.3.3.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn - Nghiệp vụ tài sản có của NHTM

Nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng thương mại bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến
việc sử dụng các khoản vốn huy động được.
• Nghiệp vụ ngân quỹ
Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, ngân hàng luôn giữ một
khoảng tiền mặt dưới các dạng sau:

o
o

o

o

Tiền mặt tại quỹ: bao gồm tiền, vàng bạc, đá quý
Tiền gửi tại NHTW: Tất cả các ngân hàng
thương mại đều phải mở tài khoản và gửi một
khoản tiền vào NHTW. Khoản tiền này được
gọi là dự trữ bắt buộc.
Các khoản tiền gửi tại NHTW và tiền mặt tại
quỹ được gọi chung là dự trữ ngân hàng. Dù
nhìn chung dự trữ ngân hàng không trả lãi, các
ngân hàng thương mại vẫn phải giữ dự trữ do
hai nguyên nhân cơ bản sau: (i) các ngân hàng
thương mại phải duy trì dự trữ bắt buộc theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHTW
quy định; (ii) các ngân hàng ngoài ra còn duy trì một tỷ lệ dự trữ vượt mức để
có thể đảm bảo nhu cầu thanh toán của khách hàng, đây cũng là nguồn vốn đầu
tiên ngân hàng có thể muốn sử dụng trong trường hợp khách hàng muốn đến
vay tiền.
Tiền gửi tại các ngân hàng khác (ngân hàng đại lý): Nhiều ngân hàng còn gửi
tiền tại các ngân hàng khác để đổi lấy các dịch vụ thanh toán bù trừ như thanh
toán séc, giao dịch ngoại hối... Đây là một phần của hệ thống ngân hàng đại lý

• Chứng khoán
Các NHTM mua các chứng khoán như trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu... nhằm các
mục đích sau:
76


v1.0


Bài 4: Trung gian tài chính

Tìm kiếm lợi nhuận
o Nâng cao khả năng thanh khoản
o Đa dạng hóa các dịch vụ kinh doanh nhằm phân tán rủi ro
Các chứng khoán có thể mang lại thu nhập cho ngân hàng, tuy nhiên theo từng
mục đích mà ngân hàng có thể quan tâm đến các loại chứng khoán khác nhau. Ví
dụ nếu ngân hàng quan tâm đến tính thanh khoản, có thể nắm giữ các chứng khoán
có khả năng sinh lời thấp nhưng có tính thanh khoản cao và ít rủi ro, và ngược lại,
nếu ngân hàng quan tâm đến tính sinh lời có thể nắm giữ các chứng khoán có lợi
tức cao.
o

• Cho vay
Cho vay là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các NH.
Cho vay (cấp tín dụng) là sự chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị từ người sở hữu (NHTM)
sang người sử dụng (người đi vay) trong một thời
gian nhất định. Hết thời gian này, người sử dụng
sẽ hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị
ban đầu.
Một số phương thức cho vay
o Cho vay có tài sản đảm bảo:
ƒ Cho vay cầm cố
ƒ Cho vay thế chấp
ƒ Cho vay trả góp

ƒ Cho vay có bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
o Cho vay thấu chi: Ngân hàng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách
hàng chi vượt số dư có trên tài khoản vãng lai, tới một hạn mức nhất định trong
thời hạn quy định.
o Cho vay từng lần
o Cho vay theo hạn mức tín dụng (credit line): Ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn
sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định, trong
một thời hạn nhất định. Khách hàng phải trả phí cam kết cho ngân hàng trên cơ
sở hạn mức tín dụng được sử dụng.
o Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng
o Cho vay bổ sung vốn lưu động (working capital loans): nhằm tài trợ thêm vốn
lưu động cho hoạt động SXKD của ngân hàng. Khi vay tiền, người đi vay dùng
chính thu nhập thu được từ việc sử dụng vốn vay để trả nợ ngân hàng
o Cho vay chiết khấu
o Cho vay theo dự án đầu tư
o Cho vay hợp vốn: Hai hay nhiều tổ chức tín dụng tham gia vào một dự án đầu
tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn.
o Cho thuê tài chính: Cho thuê tài chính và cho thuê vận hành
• Góp vốn đầu tư dài hạn
Góp vốn đầu tư vào công ty con, công ty liên kết, công ty liên doanh và các khoản
đầu tư dài hạn khác
v1.0

77


Bài 4: Trung gian tài chính

• Tài sản cố định
Khác với các doanh nghiệp thông thường, tài sản cố định của các ngân hàng

thương mại chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản. Những loại tài sản cố
định của ngân hàng bao gồm trụ sở làm việc, trang thiết bị...
4.3.4.

Hoạt động cơ bản của NHTM

Các NHTM huy động các tài sản nợ và dùng số tiền này để sử dụng vào các tài sản có
với những đặc tính khác. Ví dụ, NHTM nhận tiền gửi tiết kiệm từ một người và dùng
tiền này cho người khác vay trả góp. Quá trình này được gọi là quá trình “chuyển biến
tài sản” (asset transformation). NHTM đã chuyển tài khoản tiết kiệm (tài sản có của
người gửi tiền) thành một khoản vay trả góp (tài sản có của ngân hàng). Một đặc điểm
nữa của quá trình chuyển biến tài sản này là NHTM “vay ngắn và cho vay dài”, vì
NHTM thường cho vay các khoản vay dài hạn và tài trợ cho chúng bởi những khoản
tiền gửi ngắn hạn.
Quá trình chuyển biến tài sản và cung cấp các dịch vụ NH cũng giống như bất kỳ quá
trình sản xuất nào của doanh nghiệp. Nếu một NH có thể cung cấp các dịch vụ tốt,
được ưa thích với chất lượng thấp, và thu được nhiều thu nhập từ tài sản của mình,
NH đó thu được lợi nhuận, và ngược lại.
Bên cạnh hoạt động chuyển biến tài sản, các ngân hàng thương mại còn thực hiện các
hoạt động ngoại bản để thu phí, ví dụ như bảo lãnh, tư vấn, thanh toán.... Các khoản
thu phí này càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
4.4.

Công ty bảo hiểm

4.4.1.

Giới thiệu chung về bảo hiểm

Định nghĩa: Bảo hiểm là một sản phẩm tài chính bảo vệ các nhà đầu tư trước những

kết quả không mong muốn. Bảo hiểm là một hợp đồng, theo đó một bên (người cung
cấp bảo hiểm) cam kết sẽ bồi thường cho bên kia (người được bảo hiểm) trước những
thiệt hại, tổn thất của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã quy định trong hợp đồng
gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã mua bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm
đó và đã nộp phí bảo hiểm.
Các khái niệm cần chú ý

• Người bảo hiểm (Insurer): là người nhận trách nhiệm về rủi ro, được hưởng phí bảo
hiểm và phải bồi thường khi có tổn thất xảy ra. Thông thường người bảo hiểm chính là
các công ty bảo hiểm
• Người được bảo hiểm (Insured): Là người có lợi ích bảo hiểm, là người bị thiệt hại khi
rủi ro xảy ra và người được bảo hiểm bồi thường.
• Lợi ích bảo hiểm (Insurable interest): Một người được xem là có lợi ích bảo hiểm đối
với một đối tượng nào đó nếu sự mất mát hoặc thiệt hại đối với đối tượng đó sẽ khiến
cho người đó gặp phải những tổn thất về tài chính hoặc các tổn thất khác. Một yêu cầu
cơ bản đối với bất kỳ hợp đồng bảo hiểm nào là người mua bảo hiểm phải có lợi ích bảo
hiểm đối với đối tượng bảo hiểm
• Đối tượng bảo hiểm (Subject – matter insured): là tài sản, lợi ích mang ra bảo hiểm.
Đối tượng bảo hiểm có thể là tài sản, con người hoặc trách nhiệm đối với bên thứ ba.

78

v1.0


Bài 4: Trung gian tài chính

• Rủi ro được bảo hiểm (Insurable risk): là rủi ro đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Người bảo hiểm chỉ bồi thường những thiệt hại do những rủi ro đã thỏa thuận gây ra.
• Giá trị bảo hiểm: là giá trị tài sản được bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng bảo hiểm

• Số tiền bảo hiểm: là số tiền tính cho từng loại tài sản được bảo hiểm mà trong giới hạn
đó, người bảo hiểm phải tiến hành bồi thường tổn thất khi tai nạn bảo hiểm xảy ra.
• Phí bảo hiểm (premium): là số tiền mà người tham gia bảo hiểm phải đóng góp cho
người bảo hiểm về các đối tượng bảo hiểm
• Tỷ lệ phí bảo hiểm: là mức phí bảo hiểm tính trên một đơn vị của số tiền bảo hiểm cho
một thời kỳ bảo hiểm nhất định (thường là một năm)

Vai trò của bảo hiểm
Bảo hiểm đóng vai trò to lớn trong đời sống kinh tế xã hội, cụ thể là:
Bảo hiểm bảo vệ cho người sản xuất và dân cư tránh khỏi những tác động, tổn thất
ngoài ý muốn. Bảo hiểm đã làm cho các chủ thể kinh tế an tâm trong quá trình lao
động sản xuất, kinh doanh và cuộc sống đời thường, giảm bớt những nỗi lo ray rứt
hàng ngày về những hiểm họa, những rủi ro bất ngờ. Đây là một yếu tố có tính quyết
định rất lớn đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng
trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Phân phối lại các khoản vốn trong xã hội một cách có hiệu quả. Bảo hiểm đã phân
phối lại vốn của nhiều người để bù đắp cho một số ít người khi có thiệt hại xảy ra.
Các công ty bảo hiểm là một định chế tài chính trung gian thu hút một nguồn vốn
đáng kể từ các cá nhân, doanh nghiệp (qua phí bảo hiểm) để đầu tư vào các lĩnh vực
khác. Với nguồn vốn dồi dào, khi chưa sử dụng cho các mục tiêu đã định, các công ty
bảo hiểm có thể dùng vốn ấy đem cho vay hoặc đầu tư để thu lợi nhuận.
Nguyên tắc bảo hiểm
• Quy luật số đông: Bảo hiểm hoạt động trên quy luật số đông. Các công ty bảo
hiểm thu phí bảo hiểm từ nhiều người mua bảo hiểm và sử dụng số tiền đó để bồi
thường cho một số người mua bảo hiểm gặp tổn thất. Như vậy, thực chất của bảo
hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người ra cho tất cả những
người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Do đó, một nghiệp vụ bảo hiểm nào đó muốn
được tiến hành phải có nhiều người tham gia, hay nói cách khác, bảo hiểm chỉ có
thể hoạt động được dựa trên quy luật số đông.
• Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (Utmost good faith): Theo nguyên tắc này, các

bên trong mối quan hệ bảo hiểm phải tuyệt đối trung thực, tin tưởng lẫn nhau,
không được lừa dối nhau. Nếu một bên vi phạm thì hợp đồng bảo hiểm trở nên
không có hiệu lực.
• Nguyên tắc bồi thường (Indemnity): Theo nguyên tắc này, khi có tổn thất xảy ra,
người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo
hiểm có vị trí tài chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém.
Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi.
• Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm (Insurable Interest): Người được bảo hiểm muốn mua
bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm. Khi xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm phải
có lợi ích bảo hiểm rồi mới được bồi thường.
• Nguyên tắc thế quyền (Subrogation): Người bảo hiểm, sau khi bồi thường cho
người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba
v1.0

79


Bài 4: Trung gian tài chính

có trách nhiệm bồi thường cho mình. Để thực hiện nguyên tắc này, người được
bảo hiểm phải cung cấp các biên bản, giấy tờ, chứng từ, thư từ... cần thiết cho
người bảo hiểm.
4.4.2.

Các công ty bảo hiểm

Có hai loại công ty bảo hiểm phổ biến là công ty bảo hiểm nhân thọ và công ty bảo
hiểm phi nhân thọ.
Công ty bảo hiểm nhân thọ
Công ty bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm những rủi ro, tổn

thất liên quan đến con người như sức khỏe, tử vong…
Vì các công ty bảo hiểm nhân thọ có thể dự báo tương
đối chính xác xác suất tử vong của dân số, công ty bảo
hiểm có thể dự đoán được số tiền sẽ phải thanh toán
cho những người mua bảo hiểm trong tương lai. Vì
vậy, các công ty này thường sử dụng số tiền tạm thời
nhàn rỗi để nắm giữ các loại tài sản dài hạn, có tính
thanh khoản thấp.
Có hai loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chính:
• Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trọn đời: Hợp đồng bảo hiểm này thu một khoản phí
bảo hiểm cố định trong suốt thời hạn bảo hiểm. Trong những năm đầu, các khoản
phí thu được vượt quá chi phí bảo hiểm do xác suất tử vong thấp. Vì vậy, đối với
loại hợp đồng bảo hiểm này, giá trị tiền mặt tăng nhanh trong những năm đầu và
sau đó giảm dần do phí bảo hiểm cố định giảm xuống thấp hơn chi phí bỏ ra để
bảo hiểm tử vong do xác suất tử vong tăng lên. Những người mua bảo hiểm có thể
vay công ty bảo hiểm dựa trên giá trị tiền mặt của hợp đồng hoặc nhận được giá trị
tiền mặt này với việc hủy bỏ hợp đồng.
• Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ kỳ hạn: Khác với hợp đồng bảo hiểm trọn đời, bảo
hiểm nhân thọ kỳ hạn tính phí dựa trên số tiền cần thiết để bảo hiểm rủi ro tử vong
trong thời gian bảo hiểm. Do vậy, phí bảo hiểm sẽ tăng lên khi xác suất tử vong
tăng lên. Loại hợp đồng này không có giá trị tiền mặt và chỉ dùng với mục đích
bảo hiểm, không có mục đích tiết kiệm như hợp đồng bảo hiểm trọn đời.
Công ty bảo hiểm phi nhân thọ
Công ty bảo hiểm phi nhân thọ cung cấp bảo hiểm đổi
với tài sản và trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba.
Về khía cạnh đầu tư, các công ty bảo hiểm phi nhân
thọ khó có thể dự báo chính xác số tiền phải trả cho
những người mua bảo hiểm như những công ty bảo
hiểm nhân thọ. Do vậy, các công ty bảo hiểm phi nhân
thọ thường nắm giữ những tài sản có tính lỏng cao.

Các công ty bảo hiểm phi nhân thọ bảo hiểm rất nhiều loại rủi ro. Nếu một tổn thất
nào đó có lớn, nhiều công ty bảo hiểm có thể cùng cung cấp một hợp đồng bảo hiểm
(đồng bảo hiểm). Ngoài ra các công ty bảo hiểm cũng có thể giảm rủi ro cho mình
bằng cách tái bảo hiểm. Tái bảo hiểm là việc các công ty bảo hiểm chuyển giao rủi ro
cho một công ty bảo hiểm khác.

80

v1.0


Bài 4: Trung gian tài chính

TÓM LƯỢC CUỐI BÀI

• Kênh dẫn vốn gián tiếp là kênh dẫn vốn chính của nền kinh tế do ưu thế của trung gian tài
chính trong việc giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ hoạt động chia sẻ và phân tán rủi ro và giải
quyết vấn đề thông tin bất cân xứng.
• Các trung gian tài chính có thể được xếp vào bốn nhóm chính: các tổ chức nhận tiền gửi, các
tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng, các công ty tài chính và các trung gian đầu tư.
• Với hai chức năng chính là trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, ngân hàng thương
mại là trung gian tài chính quan trọng nhất trong hệ thống tài chính.
• Ngân hàng thương mại thực hiện các chức năng của mình thông qua hai nghiệp vụ cơ bản là
nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ sử dụng vốn.
• Công ty bảo hiểm là một loại hình trung gian tài chính có chức năng bảo vệ các nhà đầu tư
trước những kết quả không mong muốn. Có hai loại công ty bảo hiểm phổ biến là công ty bảo
hiểm nhân thọ và công ty bảo hiểm phi nhân thọ. Công ty bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm những
rủi ro, tổn thất liên quan đến con người, còn công ty bảo hiểm phi nhân thọ bảo hiểm những
rủi ro tổn thất đối với tài sản hoặc trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba


v1.0

81


Bài 4: Trung gian tài chính

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Định chế tài chính nào là lớn nhất trong hệ thống tài chính?
2. Tiền gửi của người dân được coi là tài sản nợ hay tài sản có của NHTM?
3. Quỹ đầu tư có được phép phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn không?
4. Công ty chứng khoán chỉ làm việc môi giới cho khách hàng hay còn tự mình đầu tư kiếm lợi
trên thị trường, điều này có làm thiệt hại cho nhà đầu tư không?
5. Tại sao lại có bảo hiểm trách nhiệm dân sự khi người mua bảo hiểm là người có lỗi?
6. Tại sao bảo hiểm nhân thọ vẫn trả lại tiền cho người mua bảo hiểm cả khi người mua bảo
hiểm không hề gặp rủi ro?

82

v1.0



×