Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Giáo trình tài chính tiền tệ 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 30 trang )

Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

BÀI 5: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

Mục tiêu

Nội dung

• Hiểu được bản chất và cơ cấu tổ chức của

• Giới thiệu cho sinh viên các kiến thức

Ngân hàng Trung ương.
• Hiểu được mục tiêu, tính chất và tác động
của các công cụ chính sách tiền tệ đối với
nền kinh tế.

cơ bản về Ngân hàng Trung ương, vị
trí, vai trò của Ngân hàng Trung ương
đối với nền kinh tế.
• Giới thiệu cho sinh viên các kiến thức
về chính sách tiền tệ và điều hành chính
sách tiền tệ.

Thời lượng học
• 8 tiết.

v1.0

83



Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP

Tình huống
Công ty Alpha ký hợp đồng sản xuất sô cô la dài hạn cho công ty
1402. với thời hạn là 10 năm. Hiện nay ông Quang đang xác định
giá cho lô hàng của mình sẽ bán, và nhận được tư vấn là ông
không được đặt một mức giá cố định mà phải điều chỉnh tăng dần
qua các năm vì lạm phát được dự báo là sẽ cao trong thời gian tới
do chính phủ hiện nay đang thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng
nhằm kích thích phát triển kinh tế. Ông Quang không hiểu tại sao
phát triển kinh tế lại liên quan tới chính sách tiền tệ, và tại sao
chính sách tiền tệ nới lỏng lại có liên quan tới lạm phát.

Câu hỏi
Anh chị có thể tư vấn cho ông Quang tại sao lại có lạm phát, lạm phát có tác hại gì mà ông
Quang phải điều chỉnh giá cả cho lô hàng của mình qua mỗi năm?
Anh chị hãy giúp ông Quang hình dung được các chính sách tiền tệ có tác động gì tới nền kinh tế,
và những công cụ chính sách tiền tệ khác nhau nhằm tác động tới yếu tố nào trong nền kinh tế?

84

v1.0


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

5.1.


Ngân hàng trung ương (NHTW)

5.1.1.

Sự ra đời và phát triển của NHTW

Sự ra đời của NHTW bắt nguồn từ sự phân hóa của hệ
thống ngân hàng. Qua thời gian, các NHTW ngày càng
hoàn thiện và đảm nhận tốt chức năng quản lý nhà nước
trong lĩnh vực tiền tệ. Quá trình ra đời của NHTW trải
qua các giai đoạn sau:
Sự phân hoá hệ thống ngân hàng
• Ðến thế kỷ XVII, các ngân hàng đã được công nhận như một doanh nghiệp kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Trong thời kỳ này, bên cạnh các nghiệp vụ như huy
động tiền gửi, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh thương phiếu…, các ngân hàng được
phép phát hành tiền dưới dạng các chứng thư, kỳ phiếu thay cho vàng. Lúc đầu,
các kỳ phiếu ngân hàng chỉ được phát hành khi có một khoản tiền vàng thực sự gửi
vào ngân hàng (đảm bảo bằng vàng). Tuy nhiên, đến cuối thế kỉ XVII, các ngân
hàng bắt đầu lợi dụng ưu thế của mình để phát hành một khối lượng lớn các kỳ
phiếu tách rời khỏi dự trữ vàng để cho vay, điều này đe doạ dự trữ vàng và khả
năng chuyển đổi ra vàng của các kỳ phiếu được phát hành.
• Đến cuối thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hóa được
mở rộng cả về phạm vi và quy mô. Trong bối cảnh
ấy, việc nhiều ngân hàng phát hành nhiều loại giấy
bạc khác nhau đã cản trở quá trình phát triển kinh
tế. Nhà nước không thể kiểm soát được khối lượng
tiền trong lưu thông và càng không thể kiểm soát
được tính chất đảm bảo của lượng tiền lưu thông
đó. Ngoài ra, dân chúng cũng có sự lựa chọn kỳ

phiếu của các ngân hàng; kỳ phiếu của các ngân
hàng lớn chiếm lĩnh thị trường, đẩy kỳ phiếu của các ngân hàng nhỏ ra khỏi lưu
thông. Tình trạng này kéo dài dẫn đến sự bất ổn trong lưu thông tiền tệ. Trước tình
hình đó, Nhà nước buộc phải can thiệp nhằm thiết lập trật tự và sự thống nhất cho
việc phát hành tiền, đảm bảo an toàn cho các giấy chứng nhận nợ của các ngân
hàng. Sự can thiệp này dẫn đến việc chỉ còn một số ngân hàng lớn được quyền
phát hành tiền kèm theo nghiệp vụ kinh doanh (ngân hàng phát hành), các ngân
hàng khác chỉ được kinh doanh hoạt động tiền tệ và tín dụng, không được phép
phát hành tiền. Các ngân hàng này được quyền mở tài khoản và thanh toán bù trừ
thông qua ngân hàng phát hành, biến ngân hàng phát hành thanh trung tâm thanh
toán. Từ lúc này, hệ thống ngân hàng được phân thành hai cấp: các ngân hàng phát
hành và hệ thống các ngân hàng trung gian (không có chức năng phát hành nhưng
có chức năng kinh doanh tiền tệ).
• Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, để thống nhất việc phát hành tiền, Nhà nước
chỉ cho phép một ngân hàng phát hành uy tín nhất được quyền phát hành tiền. Các
ngân hàng phát hành khác được chuyển thành các ngân hàng thương mại. Chẳng
hạn như ở Anh, vào năm 1694, quyền phát hành tiền tập trung vào 10 ngân hàng

v1.0

85


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

lớn nhất, sau đó vào năm 1844 chỉ có duy nhất Ngân hàng Anh (Bank of England)
được phép phát hành tiền, các ngân hàng khác chỉ được phép phát hành hạn chế
trong giới hạn của đạo luật Ngân hàng Anh 1844. Tương tự, ở Đức, năm 1875 có
đến 33 ngân hàng tư nhân được phép phát hành
tiền, và quyền lực này sau đó được tập trung vào

Ngân hàng Ðức (Bundesbank) trước Chiến tranh
thế giới thứ nhất. Hầu hết các nước châu Âu (trừ
Italia và Thuỵ Sĩ) cùng với một vài nước thuộc
châu Á và châu Phi như Nhật, Algeria đã hình
thành ngân hàng phát hành với quyền lực và sự ưu tiên từ Chính phủ. Tất cả các
ngân hàng này, với những mức độ khác nhau, từng bước thực hiện các chức năng
của NHTW. Với ý nghĩa như vậy, khái niệm “NHTW” bắt đầu được nhắc đến từ
cuối thế kỷ XIX.
Hoàn thiện NHTW - Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến nay
Đây là giai đoạn hoàn thiện hoạt động NHTW về tổ chức, chức năng, đồng thời là giai
đoạn thành lập một loạt các NHTW mới. Giai đoạn này được đánh dấu bởi một số
mốc đáng ghi nhớ sau:
• Nhà nước tiến hành tách rời chức năng độc quyền phát hành tiền ra khỏi chức năng
kinh doanh tiền tệ trực tiếp với công chúng của các NHTW. Các ngân hàng phát
hành bây giờ chỉ được phép phát hành tiền mà không còn được kinh doanh tiền tệ.
Hoạt động này được thực hiện trước hết ở Ngân hàng Anh, và sau đó ở các ngân
hàng phát hành của các nước khác.
• Từ năm 1920, hàng loạt các NHTW mới được thành lập do ảnh hưởng của NHTW
Anh, Pháp, và đặc biệt do khuyến cáo của Hội nghị Tài chính - Tiền tệ lần thứ nhất
khi khẳng định việc thành lập NHTW là cần thiết không những cho sự ổn định tiền
tệ và tín dụng trong nước mà còn tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ quốc tế về
thương mại và tài chính. Các ngân hàng này khi mới thành lập đã ngay lập tức
mang đầy đủ bản chất của một NHTW vì sự cần thiết của nó đã được chứng minh
qua kinh nghiệm các NHTW đang hoạt động.
• Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1929-1933 và sự phát triển của học thuyết
Keynes về sự cần thiết của vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế,
cũng như ảnh hưởng của khối lượng tiền cung ứng đến các biến số kinh tế vĩ mô,
đã tạo nên sự thay đổi toàn bộ nhận thức của các quốc gia về vai trò của NHTW.
Phần lớn các nhà nước đã tiến hành quốc hữu hoá hoặc thành lập mới ngân hàng
phát hành thuộc sở hữu nhà nước (ví dụ, ngân hàng Anh được quốc hữu hóa năm

1947, NHTW Pháp năm 1946, NHTW Canada năm 1938, NHTW Ðức năm 1939).
Ở một số nước, ngân hàng phát hành không hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước
nhưng hoạt động vẫn mang tính nhất như một ngân hàng của nhà nước và cơ quan
quản lý cao nhất của nó là do nhà nước bổ nhiệm và miễn nhiệm (Mỹ, Nhật).
Lịch sử ra đời của một số NHTW trên thế giới

NHTW lâu đời nhất trên thế giới là NHTW Thụy Điển Riksbank. Ngân hàng được thành
lập năm 1668 với sự trợ giúp của các thương gia Hà Lan. Đến năm 1694, Ngân hàng Anh
được một thương nhân người Scotland William Paterson thành lập tại London theo yêu
cầu của chính phủ Anh để giúp trang trải chi phí chiến tranh. Ngân hàng Nhật Bản được
86

v1.0


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

thành lập 1882 trong Cải cách Minh Trị. Cục Dự trữ liên bang Mỹ được Quốc hội Mỹ
thành lập năm 1913 theo Luật Glass-Owen. Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa bắt đầu
vai trò như một ngân hàng trung ương vào năm 1979. Đến năm 2000, Ngân hàng Nhân
dân Trung Hoa đã trở thành một NHTW hiện đại. Mô hình NHTW hiện đại nhất hiện
nay là NHTW Châu Âu. Đây là ngân hàng trung ương độc lập nhất thế giới, chịu trách
nhiệm ổn định tiền tệ cho khu vực sử dụng đồng Euro.
5.1.2.

Các mô hình NHTW

5.1.2.1. Các mô hình NHTW

Tùy theo điều kiện từng quốc gia, các NHTW có thể được tổ chức theo các mô hình

khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung các NHTW được tổ chức theo hai mô hình lớn sau:
QUỐC HỘI

CHÍNH PHỦ

Các bộ,
cơ quan ngang bộ

Ngân hàng
trung ương

Hình 5.1 : Mô hình NHTW phụ thuộc Chính phủ

Theo mô hình này, NHTW nằm trong nội các Chính phủ, chịu sự chi phối trực tiếp
của Chính phủ về nhân sự, tài chính và đặc biệt là các quyết định liên quan đến việc
xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Ở một số quốc gia, NHTW còn trực thuộc Bộ
Tài chính.
Mô hình này xuất phát từ quan điểm Nhà nước tập quyền. Chính sách tiền tệ là một bộ
phận của chính sách kinh tế vĩ mô, do vậy NHTW, cơ quan thực thi chính sách tiền tệ,
phải thuộc Chính phủ thì Chính phủ mới có mức tập quyền cao, mới tạo được sự ổn
định cần thiết về chính trị và kinh tế, huy động được mọi nguồn lực phục vụ cho các
mục tiêu phát triển kinh tế. Mô hình này được áp dụng ở phần lớn các nước Châu Á
và các nước XHCN trước đây. Thành công của các nước công nghiệp mới Đông Á nơi
NHTW là một bộ phận trong chính phủ là một bằng chứng thuyết phục về sự phù hợp
của mô hình này đối với các nước Á Ðông.
QUỐC HỘI

CHÍNH PHỦ

NGÂN HÀNG


Hình 5.2 : Mô hình NHTW độc lập với Chính phủ

Theo mô hình này, NHTW có quyền quyết định việc xây dựng và thực hiện chính
sách tiền tệ mà không bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu của Ngân sách hoặc các áp
v1.0

87


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

lực chính trị khác. Chính phủ và NHTW chỉ có quan hệ hợp tác chứ không có quan hệ
chi phối. Điển hình của mô hình này là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), NHTW Thuỵ
sĩ, Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB)…
Xuất phát điểm của mô hình này dựa trên quan điểm
dân chủ cổ truyền của Hy Lạp, La Mã. Người Châu Âu
chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng tự do và dân chủ của triết
học Hy Lạp, La Mã cổ đại, cho rằng khái niệm dân tộc,
nhân dân luôn lớn hơn khái niệm quốc gia. Nếu NHTW
trực thuộc Chính phủ, không có gì đảm bảo rằng
NHTW sẽ luôn thực hiện chính sách tiền tệ vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, NHTW
phải đặt dưới sự giám sát của toàn dân, mà đại diện là Quốc Hội.
Tuy nhiên, không phải tất cả các NHTW tổ chức theo mô hình này đều đảm bảo sự
độc lập hoàn toàn khỏi áp lực của Chính phủ khi thực hiện chính sách tiền tệ. Mức độ
độc lập của mỗi NHTW phụ thuộc vào sự chi phối của cơ quan đứng đầu Nhà nước,
vào cơ chế lập pháp và nhân sự của Ngân hàng Trung ương.
5.1.2.2. Ngân hàng trung ương - Độc lập hay phụ thuộc với Chính phủ?

• Những lý luận ủng hộ mô hình NHTW độc lập với Chính phủ

Các lý luận ủng hộ mô hình NHTW độc lập với
Chính phủ cho rằng một NHTW độc lập sẽ thực
hiện chính sách tiền tệ tốt hơn, đảm bảo được giá
trị đồng tiền và kiềm chế được lạm phát. Theo
nhiều nhà kinh tế, các chính trị gia trong xã hội dân
chủ thường tập trung vào các mục tiêu ngắn hạn
(như giảm thất nghiệp, lãi suất) để có thể tiếp tục
thắng cử ở những cuộc bầu cử tiếp theo, và do đó
bỏ qua những mục tiêu dài hạn như ổn định giá trị
đồng tiền. Các chính trị gia cũng thường sử dụng những giải pháp ngắn hạn để giải
quyết những vấn đề kinh tế dù chúng có thể có những tác động tiêu cực trong dài
hạn. Ví dụ tốc độ tăng lượng cung tiền nhanh có thể làm lãi suất giảm trước mắt,
nhưng sau đó có thể lại làm lãi suất tăng khi lạm phát tăng lên. Như vậy, một
NHTW độc lập với Chính phủ sẽ tránh được các “chu kỳ kinh tế chính trị”. NHTW
sẽ hoạt động vì lợi ích của nhân dân hơn là vì lợi ích của một nhóm chính trị gia.
Bên cạnh đó, một NHTW trực thuộc cũng có thể phải chịu sức ép của Chính phủ
để tài trợ các khoản thâm hụt ngân sách. Điều này có thể gây áp lực lạm phát đối
với nền kinh tế. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, ở những nước có NHTW độc lập
với chính phủ thì tỷ lệ lạm phát cũng được duy trì ở mức thấp.
• Những lý luận phản đối mô hình NHTW độc lập với Chính phủ
Bên cạnh những lý luận ủng hộ mô hình NHTW độc lập với Chính phủ, cũng có
những ý kiến phản đối. Một số ý kiến cho rằng khi NHTW trực thuộc Chính phủ,
Chính phủ có thể kết hợp hài hòa, hiệu quả cả chính sách tài khóa và chính sách
tiền tệ, tập trung các nguồn lực tốt nhất cho sự phát triển kinh tế, tránh trường hợp
hai chính sách hoạt động trái chiều, triệt tiêu ảnh hưởng của nhau. Ngoài ra, một số
ý kiến khác cũng cho rằng, chính phủ cũng quan tâm đến những vấn đề dài hạn của
88

v1.0



Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

đất nước, chứ không hoàn toàn tập trung vào những mục tiêu ngắn hạn, do vậy
hoàn toàn có thể hướng chính sách tiền tệ đến các mục tiêu dài hạn.
• Xu thế phổ biến hiện nay
Trong những năm gần đây, ngày càng nhiều các NHTW chuyển sang áp dụng mô
hình NHTW độc lập với Chính phủ. Các lý thuyết kinh tế cũng như bằng chứng
thực nghiệm đã cho thấy các NHTW độc lập hơn thường có những chính sách tiền
tệ tốt hơn, điều này là một động lực khiến các NHTW theo xu thế này.
Sự độc lập của NHTW trên thế giới

Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed Reserve Systems - Fed): là một trong những NHTW
độc lập nhất trên thế giới. Mọi quyết định do Fed đưa ra không cần phải thông qua
Tổng thống hay bất kỳ một cơ quan Chính phủ nào mà chỉ phải báo cáo với Quốc hội.
Fed độc lập cả về việc lập các mục tiêu của chính sách tiền tệ lẫn việc sử dụng các công
cụ để thực hiện các mục tiêu đó.
Ngân hàng Anh (Bank of England): Cho đến năm 1997, NHTW Anh phụ thuộc nhiều
vào Chính phủ, khi các quyết định tăng hoặc giảm lãi suất đều do Bộ trưởng bộ Tài
chính quyết định. Ðến tháng 5/1997, khi Công đảng lên cầm quyền, Bộ trưởng bộ Tài
chính Anh đã trao quyền quyết định lãi suất cho NHTW Anh, tuy nhiên, Chính phủ có
quyền phủ quyết quyết định của NH và ấn định lãi suất trong những điều kiện đặc biệt
và trong một thời gian nhất định. Quyết định về lãi suất do Ủy ban chính sách tiền tệ
quyết định, Ủy ban này bao gồm thống đốc và 4 quan chức khác của NHTW, cùng với
4 chuyên gia kinh tế do Bộ trưởng Tài chính chỉ định.
Ngân hàng Nhật Bản (Bank of Japan): Trước năm 1998, NHTW Nhật trực thuộc
Chính phủ, với quyền quyết định cuối cùng thuộc về Bộ Tài chính. Ðến năm 1998, luật
Ngân hàng Nhật Bản mới đã thay đổi điều này. Ngoài việc xác định mục tiêu của chính
sách tiền tệ là ổn định giá cả, bộ luật mới này cũng giao nhiều quyền tự chủ hơn cho
NHTW Nhật. Bộ Chính phủ cũng mất quyền kiểm soát NHTW Nhật trong nhiều lĩnh

vực, đặc biệt là quyền cách chức các quan chức NH cao cấp.
Ngân hàng Trung ương Châu Âu (European Central Bank - ECB): được thành lập
theo Hiệp ước Maastricht, là ngân hàng độc lập nhất trên thế giới. ECB độc lập về cả mục
tiêu lẫn công cụ so với Liên minh châu Âu, chính phủ và ngân hàng trung ương các nước
trong khu vực đồng euro. Mục tiêu cao nhất của ECB là ổn định giá trị đồng tiền.
5.1.3.

Chức năng của NHTW

Mặc dù có thể được tổ chức theo các mô hình khác nhau nhưng NHTW của tất cả các
nước phải đảm nhận một số chức năng cơ bản sau:
5.1.3.1. Ngân hàng phát hành

Ðây là chức năng cơ sở để NHTW có thể thực hiện các chức năng khác. NHTW là cơ
quan độc quyền phát hành tiền, tức là NHTW là người duy nhất được phép phát hành
tiền theo các quy định trong luật nhằm đảm bảo tính thống nhất và an toàn cho hệ
thống lưu thông tiền tệ của quốc gia. Tiền do NHTW phát hành là phương tiện thanh
toán hợp pháp duy nhất và thanh toán không hạn chế.
Ðể cho giá trị đồng tiền ổn định, đảm bảo đủ phương tiện tiền tệ cho nhu cầu lưu
thông, việc phát hành tiền đòi hỏi phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt.
v1.0

89


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

• Các nguyên tắc phát hành tiền
Nguyên tắc phát hành tiền dựa trên cơ sở đảm bảo bằng vàng (trữ kim): Việc
phát hành giấy bạc ngân hàng vào lưu thông phải được đảm bảo bằng vàng hiện

hữu trong kho của NHTW. NHTW phải đảm bảo việc tự do đổi giấy bạc ngân
hàng ra vàng khi có yêu cầu. Mỗi nước, vào từng thời kỳ khác nhau, áp dụng
nguyên tắc này một cách khác nhau (về mức độ bảo đảm vàng). Nhìn chung, trên
thế giới có 3 hình thức đảm bảo bằng vàng như sau:
o

o

o

Nhà nước quy định một hạn mức phát hành (trong hạn mức: đảm bảo bằng
chứng khoán chính phủ, quá hạn mức: 100% vàng). Hình thức này áp dụng ở
Anh (1844-1938), sau đó Italia, Nhật, Thuỵ Ðiển. Hạn chế của phương thức
phát hành này là cứng nhắc, gây nên sự thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông, đặc
biệt khi có sự chảy máu vàng khỏi quỹ của NHTW hoặc có nhu cầu đột biến về
tiền tệ. Trong thực tế, từ 1928, hạn mức này được điều chỉnh liên tục bởi sự
thay đổi thường xuyên của nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế.
Quy định mức tối đa lượng giấy bạc trong lưu thông và không quy định mức
dự trữ vàng làm đảm bảo cho lượng giấy bạc đó. Nguyên tắc này được áp dụng
tại Pháp từ năm 1870 đến 1928, theo đó quy định không được phép thay đổi
lượng giấy bạc tối đa. Nguyên tắc này cũng được Anh áp dụng từ 1939 đến
1941, tuy nhiên quy định linh hoạt hơn Pháp khi cho rằng NTHW có quyền
điều chỉnh để tăng hạn mức phát hành bất kỳ khối lượng này và vào bất kỳ thời
gian nào trong giai đoạn quy định.
Quy định mức dự trữ vàng tối thiểu cho khối lượng giấy bạc phát hành. Phần
còn lại được đảm bảo bằng các thương phiếu, chứng khoán Chính phủ và các
tài sản có khác.
Ví dụ, Hà Lan quy định chỉ cần duy trì 40% dự trữ vàng cho tổng lượng tiền
phát hành, ở Bỉ, tỷ lệ này là 1/3, còn ở Mỹ quy định 35% dự trữ vàng so với
tổng số tiền gửi phát hành cùng với 40% dự trữ cho tiền giấy phát hành.


Nhìn chung, nguyên tắc phát hành tiền dựa trên đảm bảo bằng vàng kém linh hoạt,
phần nào tách rời khối lượng tiền phát hành ra khỏi nhu cầu lưu thông hàng hoá.
Sau khủng hoảng 1929-1933 và đặc biệt sau Thế chiến II, các nước đã giảm,
ngừng hoặc huỷ bỏ yêu cầu dự trữ vàng cho lượng tiền phát hành, chuyển đổi sang
cơ chế phát hành tiền linh hoạt hơn.
Nguyên tắc phát hành tiền dựa trên nhu
cầu về tiền của nền kinh tế. Theo cơ chế
này, việc phát hành tiền không phụ thuộc
vào khối lượng vàng, NHTW phát hành tiền
dựa trên những nghiên cứu về nhu cầu tiền
tệ của nền kinh tế. Ưu điểm của cơ chế này
là linh hoạt, căn cứ vào nhu cầu tiền tệ
của nền kinh tế và được phát hành trên cơ sở khối lượng hàng hoá, dịch vụ
luân chuyển được thể hiện bằng các giấy tờ có giá của Chính phủ hoặc của
doanh nghiệp.
90

v1.0


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

• Các kênh phát hành tiền:
o

o

o


o

Cho Chính phủ vay: Ðể đảm bảo nguyên tắc phát hành tiền, NHTW thường
yêu cầu CP phải có tài sản thế chấp. Các tài sản này đảm bảo giúp cho các
NHTW có thể thu hút lượng tiền lưu thông qua các hoạt động trên thị trường
mở. Cơ chế này làm yếu năng lực kiểm soát tiền tệ, chứa đựng nguy cơ lạm
phát tiềm năng nên ngày càng ít được sử dụng.
Phát hành qua nghiệp vụ thị trường mở (sẽ được nghiên cứu kỹ hơn trong phần
chính sách tiền tệ)
Phát hành qua các NH trung gian: dưới hình thức cho vay tái chiết khấu (sẽ
được nghiên cứu kỹ hơn trong phần CSTT)
Phát hành qua thị trường vàng và ngoại tệ: NHTW tham gia thị trường ngoại tệ
để nhằm dự trữ ngoại hối, điều chỉnh tỷ giá khi cần thiết. Ðồng thời với việc
mua vàng, ngoại tệ trên thị trường, NHTW thực hiện việc phát hành trực tiếp
tiền ra lưu thông.

5.1.3.2. Ngân hàng của các Ngân hàng

Với vai trò là Ngân hàng của các NHTM, NHTW thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng sau:
• NHTW mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng thương mại
Tiền gửi dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng phải duy
trì trong một tài khoản không hưởng lãi đặt tại NHTW. Mức dự trữ này do NHTW
quy định, được xác định bằng một tỷ lệ nhất định trên tổng số dư tiền gửi của ngân
hàng. Chế độ dự trữ bắt buộc ở các nước khác nhau, các thời kỳ khác nhau có thể
khác nhau, song nhìn chung dự trữ bắt buộc đều mang tính pháp luật, gửi tại
NHTW và không được hưởng lãi.
Chức năng:
o

o


Ðảm bảo khả năng thanh toán trước nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng, đảm
bảo an toàn cho hệ thống NHTM. Ngày này, cùng với sự phát triển của thị
trường tài chính, xu hướng chứng khoán hoá trong hoạt động ngân hàng và sự
ra đời của các hình thức bảo hiểm tiền gửi, các ngân hàng có nhiều cách thức
để đảm bảo khả năng thanh toán của mình hơn, do vậy tỷ lệ dự trữ bắt buộc
ngày càng giảm ở hầu hết các quốc gia.
Một công cụ của chính sách tiền tệ (nghiên cứu ở phần chính sách tiền tệ).

Tiền gửi thanh toán: Khoản tiền gửi của các NH tại NHTW để đảm bảo nhu cầu
chi trả trong thanh toán giữa các ngân hàng khác hoặc nhu cầu giao dịch với
NHTW.
• NHTW cho vay đối với các NHTM:
NHTW cho các NHTM vay chủ yếu dưới hình thức tái chiết khấu các chứng
khoán ngắn hạn do các NHTM nắm giữ. Thông qua hành vi này, NHTW cấp vốn
cho hoạt động của NHTM, tạo điều kiện cho hoạt động của các NHTM.

v1.0

91


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

Ngoài ra, NHTW còn đóng vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo an toàn của hệ
thống ngân hàng thông qua vai trò “người
cho vay cuối cùng” của mình. Khi một
ngân hàng có nguy cơ phá sản và sự phá
sản đó có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của

hệ thống ngân hàng, NHTW có thể can
thệp, cung cấp tín dụng để tránh cho ngân
hàng đó khỏi sự phá sản.
• Trung gian thanh toán giữa các
ngân hàng:
Vì các ngân hàng thương mại đều mở tài khoản tại NHTW nên các NHTM có thể
thực hiện thanh toán với nhau trên tài khoản này. Khi đó, NHTW đóng vai trò như
trung tâm thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng thương mại.
5.1.3.3. Ngân hàng trung ương (NHTW) là Ngân hàng của Nhà nước

Là một định chế tài chính đảm nhận việc thực thi chính sách tiền tệ và đảm bảo sự ổn
định của thị trường tài chính, NHTW còn là ngân hàng của Nhà nước. NHTW cung
cấp các dịch vụ ngân hàng và nhiều dịch vụ khác cho Nhà nước.
• Ngân hàng của Chính phủ
o Nhận tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, tổ chức thanh toán cho kho bạc Nhà
nước trong quan hệ với khách hàng, bảo quản dự trữ quốc gia.
o Cho ngân sách nhà nước vay khi cần thiết: Cho vay phải đảm bảo các nguyên
tắc phát hành tiền
o Ðứng ra bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ: thông báo về việc phát hành
chứng khoán mới, tổ chức đấu thầu, công bố kết quả, tổ chức thanh toán khi
đến hạn thông qua các NH thương mại.
• Cố vấn, đại diện cho Nhà nước
o Cố vấn cho Chính phủ về các chính sách Tài chính-tiền tệ
o Đại diện Nhà nước trong các quan hệ với nước ngoài trên lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng và ngân hàng (ký kết các hiệp ước quốc tế, đại diện cho nhà nước tại các
tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB)
• Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng:
o Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ
o Phê duyệt, cấp giấy phép hoạt động cho các NHTM, các tổ chức tín dụng…,
thu hồi giấy phép, đình chỉ hoạt động…

o Quy định các quy chế hoạt động cho các NHTM, các tổ chức tín dụng…
o Ðảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng
o Thanh tra, kiểm tra hoạt động của hệ thống ngân hàng

92

v1.0


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

5.2.

Quá trình cung ứng tiền tệ

5.2.1.

Các chủ thể trong quá trình cung ứng tiền tệ

Hình 5.3. Các chủ thể trong quá trình cung ứng tiền tệ

• Ngân hàng trung ương - cơ quan giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng và
chịu trách nhiệm thực thi chính sách tiền tệ
• Các ngân hàng thương mại (các tổ chức nhận tiền gửi) - các trung gian tài chính
huy động gửi và cung cấp tín dụng cho nền kinh tế.
• Người gửi tiền
• Người vay tiền từ các ngân hàng thương mại
Trong bốn chủ thể trên, Ngân hàng trung ương đóng vai trò quan trọng nhất trong
quá trình cung ứng tiền tệ.
5.2.2.


Ngân hàng trung ương và lượng tiền cơ sở

5.2.2.1. Bảng cân đối kế toán (giản lược) của NHTW

Việc thực thi chính sách tiền tệ của NHTW liên quan đến những hoạt động làm thay
đổi bảng cân đối kế toán của NHTW. Vì vậy, trong phần này, chúng ta sẽ nghiên cứu
một bảng cân đối kế toán đơn giản (chỉ gồm 4 khoản mục) của một NHTW để tạo
điều kiện cho sự phân tích quá trình cung ứng tiền tệ ở phần sau.
Tài sản có

Tài sản nợ

-

Chứng khoán chính phủ

-

Tiền trong lưu thông (C)

-

Các khoản cho vay chiết khấu đối với Ngân
hàng thương mại

-

Dự trữ của các ngân hàng thương mại (R)
MB = C + R


Hình 5.4: Bảng cân đối kế toán đơn giản

• Tài sản nợ
Có hai khoản mục tài sản nợ trong Bảng cân đối kế toán của NHTW là tiền trong
lưu thông (Currency in circulation - C) và dự trữ của các ngân hàng thương mại
(Reserves - R).
o Tiền mặt trong lưu thông (C) là số lượng tiền mặt đang lưu thông nằm trong
tay dân chúng (ngoài hệ thống ngân hàng). Số tiền mặt trong lưu thông nằm
trong hệ thống ngân hàng được tính vào dự trữ ngân hàng.
v1.0

93


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ
o

Dự trữ ngân hàng (R) bao gồm dự trữ tại NHTM và dự trữ của NHTM đặt tại
NHTW

Cả hai khoản mục này đều rất quan trọng trong quá trình cung ứng tiền tệ vì sự gia
tăng của một hay cả hai khoản mục này sẽ làm tăng khối lượng tiền cung ứng
(trong điều kiện những nhân tố khác không đổi). Đây chính là lượng tiền cơ sở của
nền kinh tế (monetary base - MB).
• Tài sản có
Hai khoản mục tài sản có trong Bảng cân đối kế toán của NHTW bao gồm:
o

o


Chứng khoán chính phủ. Loại tài sản này bao gồm những chứng khoán chính
phủ do Kho bạc phát hành. NHTW cung cấp vốn cho hệ thống ngân hàng bằng
cách mua chứng khoán, do đó làm tăng số chứng khoán chính phủ nắm giữ. Do
đó, chứng khoán chính phủ tăng đồng nghĩa với việc cung tiền tăng.
Các khoản vay chiết khấu. NHTW có thể cho các NHTM vay thông qua việc
tái chiết khấu các chứng từ có giá. Do đó khi khoản mục này tăng, lượng tiền
cung ứng sẽ tăng.

Như vậy, có thể thấy hai tài sản này đóng vai trò hết sức quan trọng. Sự thay đổi của
các tài sản này sẽ làm dự trữ ngân hàng thay đổi, từ đó dẫn đến sự thay đổi cung tiền.
5.2.2.2. Ngân hàng trung ương và quá trình kiểm soát lượng tiền cơ sở (MB)

Như phân tích trong phần 2.1, lượng tiền cơ sở bằng tiền mặt trong lưu thông (C) cộng
với tổng dự trữ của hệ thống ngân hàng (R)
MB = C + R
NHTW có thể kiểm soát lượng tiền cơ sở thông qua
việc mua bán chứng khoán chính phủ trên thị trường
mở, hoặc qua việc cung cấp các khoản vay chiết khấu
cho các ngân hàng thương mại.
• Nghiệp vụ thị trường mở
Cách phổ biến được nhiều NHTW trên thế giới áp
dụng để làm thay đổi lượng tiền cơ sở là thông qua
nghiệp vụ thị trường mở.
NHTW mua chứng khoán trên thị trường mở
o

o

94


NHTW mua chứng khoán từ các NHTM: Giả sử NHTW mua $100 trái phiểu
chính phủ từ NHTM và thanh toán bằng séc. Lúc bấy giờ, dự trữ ngân hàng sẽ
tăng lên $100 và chứng khoán chính phủ do NHTW nắm giữ sẽ tăng thêm
$100. Lượng tiền cơ sở do vậy tăng thêm $100.
NHTW mua chứng khoán từ các cá nhân, tổ chức phi ngân hàng: Tương tự,
nếu NHTW mua $100 trái phiểu chính phủ từ NHTM và thanh toán bằng séc.
Nếu người mua gửi séc đó vào tài khoản đặt tại NHTM thì dự trữ ngân hàng sẽ
tăng lên $100, còn nếu người mua quyết định đổi séc ra tiền mặt thì tiền mặt
trong lưu thông sẽ tăng lên $100. Trong cả hai trường hợp, lượng tiền cơ sở
đều tăng lên $100, tuy nhiên tác động đến lượng tiền cơ sở và dự trữ ngân hàng
có thể khác nhau.
v1.0


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

NHTW bán chứng khoán trên thị trường mở
Nghiệp vụ bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán ngược lại với nghiệp vụ mua chứng khoán,
làm cho số lượng chứng khoán trái phiếu chính phủ
nắm giữ giảm và lượng tiền cơ sở giảm tương ứng.
Lưu ý là nghiệp vụ thị trường mở có thể được thực
hiện với các tài sản khác ngoài chứng khoán chính
phủ, ví dụ ngoại hối. Hoạt động can thiệp của
NHTW trên thị trường ngoại hối cũng làm thay đổi
lượng tiền cơ sở.
• Cho vay chiết khấu
Khi NHTW cho NHTM vay dưới hình thức chiết khấu các chứng từ có giá, các
khoản vay chiết khấu bên tài sản có sẽ tăng và tương ứng là dự trữ ngân hàng bên

tài sản nợ, làm cho lượng tiền cơ sở tăng.
5.2.2.3. Quá trình tạo tiền gửi của hệ thống ngân hàng thương mại – Mô hình
đơn giản

Sau khi nghiên cứu cách thức các NHTW kiểm soát
lượng tiền cơ sở và nghiên cứu hoạt động của các
NHTM, chúng ta có đủ công cụ cần thiết để nghiên
cứu quá trình tạo tiền gửi của các NHTM.
Giả sử NHTM A nhận được $100 tiền gửi, tỷ lệ dự trữ
bắt buộc là 10%. NHTM A sẽ giữ lại $10 và cho vay
$90. Người vay tiền lại gửi số tiền vay vào NHTM B.
Như vậy tiền gửi tại NHTM B lại tăng lên $90 và làm
tăng dự trữ của NHTM B và của hệ thống ngân hàng,
từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng. NHTM B lại tiếp
tục giữ 10% tỷ lệ dự trữ bắt buộc và cho vay số tiền còn lại. Giả sử quá trình này liên
tục tiếp diễn, tổng số tiền gửi vào hệ thống ngân hàng sẽ tăng từ $100 ban đầu lên
$1000, tăng gấp 10 lần.
Ngân hàng

Tăng tiền gửi

Tăng tiền cho vay

Tăng dự trữ

A

100

90


10

B

90

81

9

C

81

72.9

8.1

D

86.61

59.05

6.56










Tổng

1000

1000

100

Hinh 5.5: Quá trình tạo tiền gửi đơn giản (giả sử tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%)

Quá trình tạo tiền gửi như trên được gọi là mô hình số nhân tiền tệ đơn giản. Trong ví
dụ trên, với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì số nhân tiền đơn giản là 10. Công thức
1
r

tổng quát của số nhân tiền tệ đơn giản là: m = , trong đó m là số nhân tiền tệ, r là tỷ lệ
dự trữ bắt buộc.
Lưu ý, mô hình số nhân tiền tệ đơn giản dựa trên nhiều giả định:
• Số tiền cho vay được người đi vay tiếp tục gửi vào hệ thống ngân hàng
• Các ngân hàng chỉ giữ dự trữ bắt buộc và cho vay toàn bộ dự trữ vượt mức.
v1.0

95



Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

Vi phạm những giả định này sẽ khiến cho số nhân tiền đơn giản không còn chính xác.
Vì vậy, trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ mở rộng, nghiên cứu đầy đủ hơn về số
nhân tiền. Chúng ta sẽ nghiên cứu hành vi và mối quan hệ giữa bốn chủ thể trong
quá trình cung ứng tiền để có thể xây dựng được một mô hình cung ứng tiền tệ có
tính thực tế hơn.
5.2.2.4. Mô hình cung ứng tiền tệ và số nhân tiền tệ

Khi xác định mô hình cung tiền, chúng ta sử dụng M1 (tiền mặt cộng tiền gửi không
kỳ hạn) để đo lượng tiền cung ứng. Mặc dù trên thực tế, các nhà hoạch định chính
sách thường sử dụng M2, tuy nhiên ở đây chúng ta vẫn sử dụng M1 vì mô hình này
đơn giản hơn, nhưng vẫn cung cấp cho chúng ta một cái nhìn cơ bản về quá trình cung
ứng tiền tệ.
Mối quan hệ giữa lượng tiền cung ứng và lượng tiền cơ sở

MS = m x MB
• MS là lượng tiền cung ứng (M1)1
• m là số nhân tiền tệ
• MB là lượng tiền cơ sở.

Số nhân tiền tệ cho chúng ta biết lượng cung tiền sẽ thay đổi như thế nào khi lượng
tiền cơ sở thay đổi. Số nhân tiền tệ phản ánh ảnh hưởng của các nhân tố khác ngoài
lượng tiền cơ sở lên lượng cung tiền, ví dụ như quyết định của người gửi tiền về việc
giữ tiền hay gửi tiền vào ngân hàng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHTW, dự trữ vượt mức
của các NHTM...
Tính toán số nhân tiền tệ
Trong mô hình đơn giản, chúng ta không đề cập đến ảnh hưởng của quyết định nắm
giữ tiền/tiền gửi của dân chúng hay quyết định giữ dự trữ vượt mức của các NHTM
đến quá trình tạo tiền gửi. Trong mô hình này, chúng ta sẽ chú ý đến những yếu tố

trên. Dự trữ ngân hàng sẽ bao gồm dự trữ bắt buộc (Required Reserve - RR) và dự trữ
vượt mức (Excess Reserve - ER)
Giả định: Lượng tiền mặt người dân muốn giữ (Currency - C) và dự trữ vượt mức của
ngân hàng (ER) tỷ lệ thuận với tiền gửi (Deposit - D) và đặt:
c=

C
là tỷ lệ tiền mặt/tiền gửi
D

e=

ER
là tỷ lệ dự trữ vượt mức
D

Ta có, lượng tiền cơ sở: MB = R + C = RR + ER + C
MB = rD + eD + cD = (r + e + c)D → D =
M = C + D = cD + D = D(1 + c) =

1

96

1
MB
r+e+c

1+ c
1+ c

→m=
r+e+c
r+e+c

Giả định lượng tiền cung ứng là M1
v1.0


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

Các nhân tố ảnh hưởng đến số nhân tiền tệ
Từ công thức trên có thể thấy, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến số nhân tiền tệ như tỷ
lệ dự trữ bắt buộc (r), tỷ lệ dự trữ vượt mức (e) hay tỷ lệ nắm giữ tiền mặt/tiền gửi (c).
• Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Số nhân tiền tệ và lượng cung tiền tỷ lệ nghịch với
tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng trong khi những nhân tố khác
không thay đổi, ngân hàng thương mại sẽ cần nhiều dự trữ hơn. Thiếu hụt dự trữ sẽ
buộc các ngân hàng phải giảm các khoản cho vay, do đó làm giảm lượng tiền gửi
vào ngân hàng và giảm lượng cung tiền. Lượng cung tiền giảm khi MB vẫn giữ
nguyên cho thấy số nhân tiền tệ cũng giảm.
• Thay đổi tỷ lệ nắm giữ tiền mặt/tiền gửi: Số nhân tiền tệ và lượng cung tiền tỷ lệ
nghịch với tỷ lệ nắm giữ tiền mặt/tiền gửi. Tỷ lệ nắm giữ tiền mặt/tiền gửi tăng có
nghĩa người gửi tiền chuyển một số tiền gửi thành tiền mặt. Tiền gửi có tác động
đến quá trình cung tiền trong khi tiền mặt thì không. Vì vậy, khi người gửi tiền
nắm giữ nhiều tiền mặt hơn, quá trình tạo tiền gửi sẽ giảm, lượng cung tiền và số
nhân tiền tệ đều giảm.
• Thay đổi tỷ lệ dự trữ vượt mức: Số nhân tiền tệ và lượng cung tiền tỷ lệ nghịch với
tỷ lệ dự trữ vượt mức. Khi ngân hàng tăng tỷ lệ dự trữ vượt mức, hệ thống ngân
hàng sẽ có phải cho vay ít hơn, làm giảm lượng tiền gửi được tạo ra, giảm lượng
cung tiền và số nhân tiền tệ
5.3.


Chính sách tiền tệ

5.3.1.

Định nghĩa

Chính sách tiền tệ (CSTT) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô trong đó
NHTW, thông qua các công cụ của mình, kiểm soát và điều tiết khối lượng cung tiền
cung ứng hoặc lãi suất để đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội đề ra.
Trong định nghĩa trên, có một số điểm cần lưu ý sau đây
• CSTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế tài chính vĩ mô quốc gia,
là một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
• Chủ thể thực hiện CSTT là NHTW. Do CSTT hướng vào việc thay đổi lượng tiền
cung ứng nên chủ thể nào thực hiện chức năng phát hành tiền và điều hoà lưu
thông tiền tệ thì chính chủ thể đó phải trực tiếp thực thi CSTT. Chủ thể đó chính là
NHTW. Có một số nước, việc xây dựng CSTT được giao cho một cơ quan khác
nhưng việc thực hiện CSTT vẫn là NHTW. Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước có
trách nhiệm xây dựng CSTT để Chính phủ xem xét trình Quốc hội và là cơ quan
trực tiếp thực thi CSTT sau khi đã được phê duyệt
• Mục đích của CSTT: đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội đề ra
• Chính sách tiền tệ có thể được hoạch định theo một trong hai hướng là chính sách
tiền tệ mở rộng và chính sách tiền tệ thắt chặt.
• CSTT mở rộng được thực hiện nhằm tăng lượng tiền cung ứng, giảm lãi suất,
khuyến khích đầu tư, tiêu dùng, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm;
• CSTT thắt chặt được thực hiện nhằm giảm lượng tiền cung ứng, tăng lãi suất, tránh
sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, giảm áp lực lạm phát.
v1.0

97



Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

5.3.2.

Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ

5.3.2.1. Mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ

CSTT là một công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô nên các mục tiêu của CSTT cũng là
những mục tiêu kinh tế vĩ mô. Các mục tiêu này hầu như thống nhất ở các nước.
Chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn
việc làm. Ðiều 2 Luật NHNN Việt Nam quy định Chính sách tiền tệ quốc gia là một
bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng
tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc
phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân. Hay Luật Dự trữ Liên bang Mỹ sửa đổi
năm 1977 quy định mục tiêu của CSTT Mỹ là thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững,
tạo công ăn việc làm và duy trì sự ổn định của mức giá.
• Ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát (Price Level Stablility; InflationTargeting)
Các NHTW luôn coi việc ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát là mục tiêu hàng đầu
của chính sách tiền tệ. Ổn định giá cả về cơ bản là tạo dựng một môi trường trong
đó các cá nhân và doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định tài chính mà không
phải lo lắng về lạm phát. Ổn định giá cả được hiểu là một tình trạng trong đó lạm
phát không xuất hiện trong các tính toán kinh tế của con người (Alan Greenspan).
Tác hại của lạm phát và giám phát

98




Những biến động bất thường trong tỷ lệ lạm phát sẽ mang lại tổn thất cho mọi cá
nhân trong nền kinh tế. Lạm phát cao cản trở sự phát triển kinh tế. Mức lạm phát cao
gây khó khăn trong việc nhận biết được ý nghĩa của một sự thay đổi trong mức giá
của một hàng hoá. Giá tăng do cầu hàng hoá đó tăng hay do nó phản ánh mức giá
tăng chung của toàn bộ nền kinh tế? Hơn nữa, tỷ lệ lạm phát cao thường biến động
liên tục, điều này sẽ làm tăng một mức bù rủi ro lạm phát đối với lãi suất cũng như
gây méo mó, sai lệch thông tin và do đó gây khó khăn trong việc đưa ra các quyết
định kinh tế. Ngoài ra, lạm phát cao còn khiến các chủ thể kinh tế phải dành nhiều
thời gian và tiền bạc để phòng vệ chống lại lạm phát thay vì theo đuổi các hoạt động
kinh tế sinh lời. Bên cạnh đó, lạm phát bất ngờ còn dẫn đến sự phân phối lại của cải
xã hội. Ví dụ, đối với các khoản vay có lãi suất cố định, lạm phát tăng bất ngờ sẽ
phân phối lại của cải từ người cho vay đến người đi vay vì lạm phát làm giảm số tiền
thực tế phải trả khi giá trị danh nghĩa cố định.



Giảm phát cũng gây tác dụng xấu đối với nền kinh tế. Giảm phát được hiểu là sự sụt
giảm mức giá chung. Nó không phải là sự giảm giá của một số mặt hàng mà là sự
giảm giá trong toàn bộ nền kinh tế (tỷ lệ lạm phát mang dấu âm). Ðiều này thoạt nhìn
có vẻ tốt, đặc biệt từ góc độ của người tiêu dùng. Tuy nhiên, giảm phát cũng có
những tác dụng xấu tương tự như lạm phát. Trong ví dụ về vay vốn với lãi suất cố
định trên, giảm phát sẽ phân phối lại của cải nhưng theo hướng ngược lại. Giảm phát
cũng làm giảm giá trị các khoản thế chấp của hộ gia đình và doanh nghiệp, khiến
cho họ khó vay vốn ngân hàng hơn. Trong điều kiện giảm phát, lãi suất thường thấp
hơn mức lãi suất trong điều kiện lạm phát thấp, điều này đã thu hẹp khả năng sử
dụng chính sách tiền tệ để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế của các ngân hàng
trung ương.




Lạm phát và giảm phát đều có hại cho nền kinh tế. Tuy nhiên, một tỷ lệ lạm phát
thấp, vừa phải (<3%) trong chừng mực nào đó có thể là yếu tố để kích thích kinh tế
tăng trưởng. Khi đó lạm phát trở thành công cụ điều tiết.

v1.0


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

Ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt, đây được xem là một mục tiêu dài hạn.
Các NHTW thường lượng hoá mục tiêu này bằng tỷ lệ lạm phát (hay tỷ lệ gia tăng
chỉ số giá cả tiêu dùng xã hội - CPI). Tỷ lệ lạm phát từ 0-3% thường được xem là
thống nhất với mục tiêu ổn định giá cả. Việc công bố công khai chỉ tiêu này là
cam kết của các NHTW nhằm ổn định giá trị tiền tệ về mặt dài hạn (NHTW sẽ
không tập trung điều chỉnh sự biến động giá cả về mặt ngắn hạn - không khả thi do
những biện pháp về chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế có tính chất trung
và dài hạn và khó có thể dự đoán chính xác kết quả sẽ xảy ra vào thời điểm nào
trong tương lai).
• Tăng trưởng kinh tế vững chắc
Do chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng tới của cải và chi tiêu xã hội nên có thể sử
dụng nó làm đòn bẩy để kích thích tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ phải
đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế với việc tạo một môi trường khuyến khích
tiết kiệm và đầu tư.
Tuy nhiên, cần phân biệt giữa tăng trưởng trong ngắn hạn (ví dụ như khi nền kinh
tế hồi phục từ một cuộc khủng hoảng và tăng trưởng nhanh) và tăng trưởng dài hạn
(thường tăng với tốc độ chậm hơn mức tăng trưởng trên). Chính sách tiền tệ có tác
động nhiều hơn đối với sự tăng trưởng trong ngắn hạn so với sự tăng trưởng dài
hạn. Về dài hạn, khối lượng hàng hoá do nền kinh tế tạo ra phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác ngoài chính sách tiền tệ như trình độ công nghệ, cung lao động, sự ưa

thích của con người đối với tiết kiệm… Tuy nhiên trong ngắn hạn nền kinh tế phải
trải qua các chu kỳ kinh tế trong đó sản lượng có thể thấp hơn hoặc cao hơn mức
sản lượng tiềm năng. Khi đó, chính sách tiền tệ có thể có những tác động trong
ngắn hạn. Ví dụ như khi nhu cầu giảm sút, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng,
NHTW có thể kích thích nền kinh tế và đưa nó về mức sản lượng tiềm năng với
việc hạ lãi suất.
Tuy nhiên, chính sách tiền tệ cũng có thể có một số ảnh hưởng đối với mức tăng
trưởng trong dài hạn của nền kinh tế: lãi suất thấp thúc đẩy quá trình tạo vốn và
thúc đẩy đầu tư, tỷ lệ lạm phát thấp giúp tạo một môi trường kinh doanh ổn định,
xoá bỏ những yếu tố không hiệu quả do lạm phát gây ra và do đó góp phần làm
tăng sản lượng tiềm năng của nền kinh tế.
• Giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo công ăn việc làm
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế vững chắc có quan hệ
chặt chẽ với mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp. Kinh tế
tăng trưởng cao góp phần tạo ra nhiều công ăn việc
làm, ngược lại khi nền kinh tế suy thoái, các doanh
nghiệp hoạt động không hiệu quả và do đó sa thải
nhiều công nhân.
Tạo công ăn việc làm đầy đủ là một mục tiêu quan
trọng của tất cả các chính sách kinh tế, trong đó có
chính sách tiền tệ. Giảm tỷ lệ thất nghiệp có ý
nghĩa quan trọng do:

v1.0

99


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ
o


o

o

Thất nghiệp ảnh hưởng xấu đến mỗi cá nhân và gia đình của họ, làm cho họ
gặp nhiều khó khăn về tài chính và là mầm mống của các tệ nạn xã hội.
Thất nghiệp gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên, do đó làm giảm tổng sản phẩm
quốc dân.
Các khoản trợ cấp thất nghiệp tăng có thể làm thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân
sách và làm căng thẳng tình trạng ngân sách.

Giảm tỷ lệ thất nghiệp không đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp bằng 0 vì trong nền
kinh tế luôn tồn tại một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được
cấu thành từ tỷ lệ thất nghiệp tạm thời và tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu. Mục tiêu tạo
công ăn việc làm là tạo ra việc làm đầy đủ ở mức mà cung lao động bằng với cầu
lao động, tại đó đạt được tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
• Mối quan hệ giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ
Nhìn tổng quát và trong chiến lược lâu dài, các mục tiêu của chính sách tiền tệ có
quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Tuy nhiên, trong thời gian
ngắn, có khi các mục tiêu trên có thể mâu thuẫn với nhau. Chẳng hạn mục tiêu ổn
định giá cả có thể mâu thuẫn với mục tiêu tăng trưởng kinh tế và giảm tỷ lệ thất
nghiệp trong ngắn hạn. Khi nền kinh tế tăng trưởng cao, tỷ lệ thất nghiệp giảm, lãi
suất và lạm phát có thể tăng. Nếu NHTW muốn giữ không cho lãi suất tăng, điều
này có thể làm cho nền kinh tế phát triển quá nóng và gâp áp lực lạm phát. Nhưng
nếu NHTW quyết định tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát, trong ngắn hạn, thất
nghiệp có thể tăng. Điều này thể hiện qua đường cong Phillips trong ngắn hạn
(trong dài hạn, đường cong Phillips là một đường thẳng đứng, ngụ ý rằng không có
sự mâu thuẫn giữa mục tiêu của CSTT trong dài hạn).
Đường cong Phillips trong ngắn hạn


Việc giảm tỷ lệ lạm phát đồng nghĩa với việc thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi
suất tăng lên làm giảm các nhân tố cấu thành tổng cầu, tăng chi phí đầu vào làm giảm tổng
cung, khiến tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng lên. Ðể có một tỷ lệ lạm phát thấp phải chấp
nhận một tỷ lệ thất nghiệp cao và ngược lại.
Trên thực tế, các nhà kinh tế học tin rằng:

100

v1.0


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ


Khi tỷ lệ lạm phát tăng, hoặc khi người ta dự đoán tỷ lệ lạm phát tăng, đường Phillips sẽ
dịch sang phải, do đó làm cho quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát càng xấu hơn, vì với
một mức thất nghiệp sẽ phải đi kèm với một mức lạm phát cao hơn trước.



Ðường Phillips cũng có thể dịch chuyển sang trái, nếu người ta dự đoán tỷ lệ lạm phát sẽ
giảm (điều này đã xảy ra vào những năm 1980, 1990 ở Mỹ khi cả tỷ lệ thất nghiệp lẫn
lạm phát đều giảm)

Ðể giảm lạm phát, NHTW theo đuổi chính sách tiền tệ thu hẹp, do đó giảm sản lượng và
tăng tỷ lệ thất nghiệp để giảm áp lực lạm phát trên thị trường lao động và thị trường hàng
hoá. Nếu chính sách tiền tệ thu hẹp này được thực hiện trong một thời gian dài và duy trì
được tỷ lệ lạm phát thấp trong một thời gian dài, đường Phillips có thể dịch chuyển sang
trái, khi đó với một tỷ lệ thất nghiệp sẽ có một tỷ lệ lạm phát thấp hơn. Do vậy, một chính

sách tiền tệ thu hẹp, nếu thành công, có thể được xem là một trường hợp hy sinh lợi ích
ngắn hạn để có thể đạt được những lợi ích về lâu dài.

Như vậy trong ngắn hạn, các NHTW có thể không đạt được tất cả các mục tiêu cơ bản
của CSTT. Phần lớn các NHTW coi mục tiêu ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và
dài hạn của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên trong ngắn hạn, đôi khi họ phải tạm thời từ
bỏ mục tiêu này để theo đuổi các mục tiêu ngắn hạn khác (như khắc phục tình trạng
thất nghiệp cao đột ngột).
5.3.2.2. Các mục tiêu trung gian

NHTW thường mong muốn đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội như ổn định giá
cả, tăng trưởng, tạo công ăn việc làm. Tuy nhiên, NHTW không thể trực tiếp kiểm
soát được những mục tiêu này. NHTW có những công cụ như nghiệp vụ thị trường
mở, chính sách tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc để có thể đạt được những mục tiêu
cuối cùng. Vấn đề của các NHTW là những công cụ này lại không trực tiếp tác động
đến mục tiêu cuối cùng. Những công cụ này ảnh hưởng đến những biến số kinh tế như
lượng cung tiền, lãi suất, rồi những biến số kinh tế đó lại ảnh hưởng đến những mục
tiêu cuối cùng sau một khoảng thời gian thường không được xác định chắc chắn (độ
trễ - lag). Do vậy, khi thực thi chính sách tiền tệ, các NHTW thường đặt ra một nhóm
mục tiêu trung gian (targets/intermediate targets), những mục tiêu có ảnh hưởng trực
tiếp và có thể dự đoán được đến những mục tiêu cuối cùng. Với việc theo dõi các mục
tiêu trung gian, các NHTW có thể nhận biết được chính sách tiền tệ có đạt được mục
đích mong muốn hay không, mà không phải chờ đến tác động đến mục tiêu cuối cùng.
Vậy, mục tiêu trung gian là các chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để đạt được mục đích
cuối cùng của chính sách tiền tệ.
Tiêu chuẩn để lựa chọn mục tiêu trung gian:
• Có thể đo lường được: Các mục tiêu trung gian
phải là những chỉ tiêu có thể đo lường được một
cách chính xác và nhanh chóng bởi các chỉ tiêu này
chỉ có ý nghĩa khi chúng có thể phản ánh hiệu quả

của chính sách tiền tệ nhanh hơn các mục tiêu cuối
cùng. NHTW có thể dựa vào các mục tiêu này để
điều chỉnh hướng tác động khi cần thiết. Hiển nhiên NHTW không thể đưa ra một
tỷ lệ tăng trưởng M2 nếu không biết M2 tăng trưởng với tốc độ bao nhiêu.

v1.0

101


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

• NHTW có thể kiểm soát được: NHTW phải có khả năng kiểm soát được mục tiêu
trung gian và điều chỉnh chúng cho phù hợp với định hướng của chính sách tiền tệ.
Do vậy, NHTW không thể dùng GDP danh nghĩa làm mục tiêu trung gian được.
• Có mối quan hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng: Ðây là một chỉ tiêu quan trọng
nhất. Khả năng đo lường được một cách chính xác hoặc khả năng kiểm soát được
của NHTW sẽ trở nên vô nghĩa nếu các chỉ tiêu được chọn không có ảnh hưởng
trực tiếp đối với các mục tiêu cuối cùng.
Hai chỉ tiêu đáp ứng được các tiêu chuẩn trên là tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất.
Tuy nhiên không thể đồng thời sử dụng cả hai mục tiêu này làm mục tiêu trung gian.
NHTW chỉ có thể chọn một trong hai chỉ tiêu căn cứ vào mối liên hệ của chỉ tiêu này
đến mục tiêu cuối cùng. Nếu cố định lãi suất, lượng cung tiền có thể biến động mạnh,
dẫn đến lạm phát. Nếu đạt được mục tiêu về tổng khối lượng tiền lại phải chấp nhận
sự biến động của lãi suất. Ðiều này do lượng cầu tiền có thể biến động nhiều.

Hình 5.6. Chọn lượng cung tiền làm mục tiêu trung gian

Hình 5.7. Chọn lượng lãi suất làm mục tiêu trung gian


Các NHTW phải chọn lựa mục tiêu trung gian phù hợp với điều kiện kinh tế và khả
năng quản lý của mình. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ thường chọn lãi suất là mục tiêu
trung gian trong khi NHNN Việt Nam lại chọn lượng cung tiền.

102

v1.0


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

5.3.3.

Các công cụ của chính sách tiền tệ

Căn cứ vào mức độ tác động của các công cụ lên mục tiêu trung gian, có thể chia các
công cụ của chính sách tiền tệ thành hai nhóm: các công cụ gián tiếp (tác động gián
tiếp lên mục tiêu trung gian) và các công cụ trực tiếp (tác động trực tiếp lên mục tiêu
trung gian). Hiện nay, NHTW các nước chủ yếu sử dụng các công cụ gián tiếp để thực
thi CSTT. Các công cụ trực tiếp chỉ được sử dụng trong những trường hợp đặc biệt.
5.3.3.1. Các công cụ gián tiếp

Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operation - OMO)
Định nghĩa

Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ trong đó NHTW mua bán chứng khoán trên thị
trường mở để thay đổi dự trữ ngân hàng, từ đó tác động đến lượng tiền cung ứng và mức lãi
suất trên thị trường.

• Những điểm cần lưu ý trong nghiệp vụ thị trường mở:

o

o

Chứng khoán: Chứng khoán sử dụng trong nghiệp vụ thị trường mở thường là
các chứng khoán chính phủ, chủ yếu là tín phiếu kho bạc, do các chứng khoán
này có tính lỏng cao, được mua bán nhiều trên thị trường nên khả năng tiếp
nhận một khối lượng lớn chứng khoán mua bán trên thị trường sẽ không làm
giá trên thị trường biến động quá mạnh, dẫn đến sụp đổ thị trường.
Thị trường mở: Là thị trường tiền tệ mở - thị trường bán buôn, với các chủ thể
tham gia là các ngân hàng, các tổ chức tài chính, các công ty lớn…

• Phân loại nghiệp vụ thị trường mở:
o

Nghiệp vụ mua và nghiệp vụ bán trên thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở
là công cụ quan trọng và được sử dụng nhiều nhất ở các nước phát triển như
Mỹ, Anh… Tuỳ thuộc vào việc NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng
hay thắt chặt, NHTW sẽ thực hiện nghiệp vụ mua hay bán trên thị trường mở.
ƒ Nghiệp vụ mua vào trên thị trường mở (open-market purchases): NHTW
mua chứng khoán từ các ngân hàng và ghi có cho tài khoản dự trữ của các
ngân hàng tại ngân hàng TW, điều này làm tăng dự trữ ngân hàng, tăng số
nhân tiền gửi, dẫn đến cung tiền tăng và lãi suất giảm.
ƒ Nghiệp vụ bán ra trên thị trường mở (open market sales): NHTW bán chứng
khoán cho các ngân hàng và ghi nợ tài khoản dự trữ của các ngân hàng tại
ngân hàng TW, điều này làm dự trữ giảm, số nhân tiền tệ giảm, cung tiền
giảm và lãi suất tăng.

o


Nghiệp vụ thị trường mở năng động và nghiệp vụ thị trường mở thụ
động/phòng vệ. Nghiệp vụ thị trường mở còn có thể được phân thành hai loại:
ƒ Nghiệp vụ thị trường mở năng động (dynamic OMO): làm thay đổi MB,
thay đổi lượng cung tiền và lãi suất. Nghiệp vụ này được thực hiện với một
quyết định của NHTW (ví dụ như quyết định giảm lãi suất). Nghiệp vụ thị
trường mở năng động có thể mở rộng hay thắt chặt.
Nghiệp vụ thị trường mở mở rộng: với mục tiêu kích thích tăng trưởng kinh
tế, giảm thất nghiệp: NHTW mua chứng khoán trên thị trường mở từ các

v1.0

103


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

ngân hàng làm lượng cung tiền tăng, lãi suất giảm, từ đó dẫn đến đầu tư
doanh nghiệp và tiêu dùng hộ gia đình tăng, khiến GDP tăng và tạo ra thêm
nhiều công ăn việc làm.
Nghiệp vụ thị trường mở thắt chặt: với mục tiêu kiềm chế lạm phát: NHTW
bán chứng khoán trên thị trường mở cho các ngân hàng làm lượng cung tiền
giảm, lãi suất tăng, tổng cầu giảm, áp lực lạm phát giảm.
ƒ Nghiệp vụ thị trường mở thụ động/phòng vệ (defensive OMO): nhằm bù lại
những chuyển động của các nhân tố ảnh hưởng đến dự trữ của các ngân
hàng, duy trì mức lãi suất cơ bản hiện tại (Khi dự trữ của các NHTM tăng
lên, để duy trì mức lãi suất cơ bản, NHTW mua chứng khoán trên thị
trường mở để giảm dự trữ của các NHTM và ngược lại). Nghiệp vụ này
không đi kèm với bất kỳ sự thay đổi chính sách nào. Các NHTW thường
tiến hành nghiệp vụ này hàng ngày.
• Cơ chế tác động:

o NHTW bán các chứng khoán trên thị trường
mở sẽ làm giảm lượng dự trữ của các ngân
hàng trung gian. Khả năng tạo tiền thông qua
kênh tín dụng của hệ thống ngân hàng vì thế
bị ảnh hưởng, dẫn đến làm giảm lượng tiền
cung ứng. Tương tự, khi NHTW mua các
chứng khoán trên thị trường mở sẽ làm tăng
lượng tiền cung ứng.
o Khi vốn khả dụng của các ngân hàng giảm (tăng) do tác động của hoạt động thị
trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ lên ngân hàng giảm xuống
(hoặc tăng lên), trong điều kiện các yếu tố liên quan không đổi, lãi suất thị
trường liên ngân hàng tăng lên (giảm xuống). Thông qua các hoạt động
arbitrage về lãi suất, ảnh hưởng này được truyền đến các mức lãi suất của các
công cụ thị trường mở, và lãi suất thị trường trái phiếu. Kết quả là chi phí cơ
hội đối với người có vốn dư thừa và giá vốn đầu tư đối với người thiếu hụt vốn
tăng lên (hoặc giảm xuống), làm giảm nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng, do
đó làm giảm sản lượng và việc làm.
• Ưu điểm của công cụ:
o NHTW có thể kiểm soát được khối lượng của nghiệp vụ thị trường mở mà
không chịu ảnh hưởng của bất kỳ nhân tố nào khác.
o Nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt và chính xác, có thể sử dụng ở bất kỳ
mức độ nào dù nhỏ và có thể dễ dàng đảo ngược lại khi có sai lầm xảy ra trong
lúc tiến hành nghiệp vụ.
o Thực hiện một cách nhanh chóng, không vướng phải những chậm trễ về hành
chính do đó có thể có tác dụng tức thì.
Tuy nhiên, công cụ này chỉ áp dụng hiệu quả trong điều kiện thị trường vốn thứ cấp
nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng phát triển.
Ở Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở chính thức được khai trương vào ngày
12/07/2000. Mặc dầu doanh số giao dịch qua các phiên giao dịch chưa lớn, số lượng


104

v1.0


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ

thành viên tham gia và số lượng hàng hoá sử dụng trên thị trường còn hạn hẹp nhưng
kết quả các phiên giao dịch cho thấy việc sử dụng công cụ thị trường mở đã có những
dấu hiệu tích cực, tác động đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và góp phần
thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Chính sách tái chiết khấu
Định nghĩa

Chính sách tái chiết khấu là một công cụ của NHTW để thực hiện chính sách tiền tệ, trong đó
NHTW cho các ngân hàng vay dưới hình thức chiết khấu các chứng khoán có giá ngắn hạn.

Cửa sổ chiết khấu là nơi các ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi có thể vay vốn từ
NHTW với một mức lãi suất chiết khấu. Mức lãi suất này thường thấp hơn mức lãi
suất thị trường ngắn hạn. Cửa sổ chiết khấu là một công cụ mà NHTW không có
quyền kiểm soát hoàn toàn.
• Cơ chế tác động của chính sách tái chiết khấu:
NHTW có thể tác động đến khối lượng vay qua 2 cách: tác động đến giá cả các
khoản vay (lãi suất chiết khấu) hoặc/và đến khối lượng vay.
o Giá cả các khoản vay: NHTW nâng lãi suất tái
chiết khấu, làm cho giá của các khoản vay tăng,
hạn chế cho vay các ngân hàng, buộc các ngân
hàng phải giảm bớt khả năng cung ứng tín
dụng, lượng tiền cung ứng giảm. Khi NHTW
giảm lãi suất cho vay, giá của các khoản vay rẻ

hơn, khuyến khích cho vay các ngân hàng, làm
khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng
tăng lên, lượng tiền cung ứng tăng lên.
o Khối lượng vay chiết khấu: Khối lượng vốn NHTW cho các ngân hàng vay
chiết khấu có thể mở rộng hoặc thu hẹp, điều này ảnh hưởng đến khả năng tạo
tiền của hệ thống ngân hàng, làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi.
NHTW quản lý khối lượng cho vay bằng nhiều cách để tránh cho khoản vốn của
mình bị sử dụng không đúng và cũng để hạn chế việc cho vay này. Do lãi suất tái
chiết khấu thường thấp hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng rất muốn vay vốn từ
NHTW thông qua cửa sổ chiết khấu và dùng tiền này để cho vay lại hoặc mua
chứng khoán với lãi suất cao hơn. NHTW cố gắng ngăn cản tình hình này bằng
cách quy định thể lệ cho các ngân hàng, giới hạn mức vay của các ngân hàng. Việc
các ngân hàng được vay vốn ở cửa sổ chiết khấu là một đặc ân chứ không phải là
một quyền lợi.
Ngân hàng phải chịu ba khoản phí khi vay vốn ở cửa sổ chiết khấu: (i) lãi suất chiết
khấu, (ii) phí về việc phải làm đúng theo các điều tra của NHTW vể khả năng thanh
toán của ngân hàng khi đến vay tại cửa sổ chiết khấu và (iii) phí về việc rất có thểbị
từ chối cho vay chiết khấu vì đến vay tại cửa sổ chiết khấu quá thường xuyên.
Ngoài việc được sử dụng làm một công cụ của chính sách tiền tệ, chính sách chiết
khấu còn được các ngân hàng TW sử dụng trong chức năng người cho vay cuối
cùng và chức năng thông báo (nó có thể thông báo cho thị trường về ý định của
NHTW về CSTT trong tương lai).
v1.0

105


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ
Chức năng thông báo và người cho vay cuối cùng của chính sách chiết khấu


Chức năng thông báo: Chính sách chiết khấu có thể được sử dụng để thông báo cho thị
trường về ý định của NHTW về chính sách tiền tệ trong tương lai. Ví dụ: khi NHTW
muốn ngăn ngừa nguy cơ lạm phát bằng một chính sách lãi suất cao, nó sẽ nâng mức lãi
suất tái chiết khấu lên. Ðiều này cung cấp dấu hiệu về một chính sách tiền tệ thắt chặt
trong tương lai. Tuy nhiên, điểm bất lợi là nó có thể bị thị trường giải thích sai lệch đi.
Chẳng hạn như khi NHTW nhận thấy lãi suất tái chiết khấu hiện tại đang thấp hơn nhiều
so với lãi suất thị trường dẫn đến việc các NHTM lạm dụng các khoản vay từ NHTW để
tăng cung tín dụng làm lượng tiền cung ứng tăng mạnh, NHTW muốn tăng lãi suất CK
để làm giảm bớt các khoản vay từ NHTW để tránh nguy cơ tăng trưởng quá nhanh của
lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất tái chiết khấu của NHTW có thể bị thị
trường hiểu lầm là dấu hiệu của sự thay đổi trong CSTT của NHTW, và do vậy gây ra
những phản ứng sai lệch, trái với ý định của NHTW. Ðể khắc phục nhược điểm này,
NHTW nên công bố công khai mục đích của mình khi quyết định thay đổi lãi suất tái
chiết khấu .
• Chức năng người cho vay cuối cùng: Chính sách tái chiết khấu có thể được NHTW sử
dụng để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng (lender of last resort) của mình.
Thông qua công cụ này, NHTW cung cấp thêm dự trữ cho các ngân hàng đang có nguy
cơ phá sản do không có khả năng chi trả, từ đó tránh được một cuộc sụp đổ dây chuyền
trong toàn bộ hệ thống ngân hàng.


• Ưu điểm:
o Các khoản cho vay của NHTW đều được đảm bảo bằng các chứng khoán
có giá
o Có thể sử dụng chính sách này để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng.
• Nhược điểm:
o Có thể khiến dân chúng hiểu sai những ý định của NHTW khi thông báo những
thay đổi lãi suất tái chiết khấu.
o NHTW không thể kiểm soát hoàn toàn tác động của công cụ này bởi NHTW
chỉ có thể thay đổi mức lãi suất chiết khấu và các điều kiện chiết khấu mà

không thể bắt các ngân hàng trung gian vay từ mình. Chính sách này chỉ có thể
phát huy tác dụng khi các ngân hàng có nhu cầu đi vay từ ngân hàng TW.
o Không dễ dàng đảo ngược như nghiệp vụ thị trường mở.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Định nghĩa

Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng phải duy trì trong một tài khoản đặt tại NHTW.
Mức dự trữ này do NHTW quy định, được xác định bằng một tỷ lệ nhất định trên tổng số
dư tiền gửi của ngân hàng – tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở các nước khác nhau, các thời kỳ khác nhau có thể khác nhau,
song nhìn chung dự trữ bắt buộc đều mang tính pháp luật, gửi tại NHTW và không
được hưởng lãi.
• Cơ chế tác động
o Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên sẽ buộc các ngân hàng và các tổ chức nhận tiền
gửi phải gửi nhiều tiền hơn ở NHTW, từ đó làm giảm lượng tiền có thể cho
vay, giảm cung tiền và ngược lại
106

v1.0


Bài 5: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ
o

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất
cho vay của hệ thống ngân hàng. Tiền dự trữ
bắt buộc đều phải mở tài khoản và gửi ở
NHTW và không được hưởng lãi, cho dù các
NHTM vẫn phải trả lợi tức cho các khoản

tiền gửi ở NH mình. Tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đòi hỏi các NHTM phải tăng lãi suất
cho vay, giá các khoản cho vay đắt hơn, khả
năng cho vay giảm xuống, và theo đó lượng
tiền cung ứng cũng giảm xuống.

Công cụ này được áp dụng đầu tiên ở Mỹ năm 1913 nhằm đảm bảo vốn khả dụng
tối ưu cho các ngân hàng thương mại, thoả mãn nhu cầu rút tiền từ các khoản tiền
gửi. Dự trữ bắt buộc nhanh chóng được áp dụng với vai trò là một công cụ của
chính sách tiền tệ ở nhiều nước khác như Ðức, Anh, Pháp… Việt Nam bắt đầu sử
dụng công cụ này từ năm 1992.
• Ưu điểm
o

o

o

Tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có ảnh hưởng rất mạnh đến
cung ứng tiền tệ.
Tăng cường quyền lực cho NHTW vì tuỳ theo mục đích của Chính sách tiền tệ
và tuỳ theo mức vốn khả dụng của các NHTM, NHTW có quyền điều chỉnh tỷ
lệ dự trữ bắt buộc và các NHTM phải có trách nhiệm thực hiện.
Ðảm bảo khả năng thanh toán cho hệ thống NHTM, giúp NHTM tránh được
rủi ro do mất khả năng thanh toán.

• Nhược điểm
o

o


Do có tác dụng rất mạnh nên chính sách này
ít được sử dụng. Chính sách này cũng không
thể sử dụng đối với những điều chỉnh nhỏ.
Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn gây ra
ảnh hưởng lâu dài đối với cung tiền. Chính
sách này còn không thực tế do chi phí quản
lý cao và gây nhiều ảnh hưởng xấu đối với
hệ thống ngân hàng.

Một số quốc gia ủng hộ việc huỷ bỏ tỷ lệ dự trữ
bắt buộc (tức là đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0)
như Canada, Thuỵ Sĩ, Australia. Các nhà kinh tế ủng hộ việc không duy trì tỷ lệ dự
trữ bắt buộc cho rằng phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức 10% đã làm giảm
khả năng cạnh tranh và tính sinh lợi của các ngân hàng Mỹ vì trên thực tế các ngân
hàng này chỉ cần duy trì mức dự trữ khoảng 1-2% số tiền gửi là đã có thể đáp ứng
được nhu cầu rút tiền. Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc được duy trì ở mức 0%, các ngân
hàng vẫn duy trì một mức dự trữ nhưng có thể cho vay nhiều hơn và thu được
nhiều lợi nhuận hơn.

v1.0

107


×