Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.41 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ MAI

THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ MAI

THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở TỈNH NINH BÌNH
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS DƢƠNG ĐỨC CHÍNH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Mai


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM ................................................................... 8
1.1.

Khái quát chung về thi hành án dân sự ............................................ 8

1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự................................................................ 8

1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự ........................................................ 15
1.1.3. Ý nghĩa và vai trò của thi hành án dân sự ........................................... 20
1.2.

Một số nội dung cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự qua
các giai đoạn....................................................................................... 21

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950 ................................................ 21
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1980 ................................................ 24
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1993 ................................................ 26
1.2.4. Giai đoạn từ 1993 đến nay .................................................................. 30
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 37
Chƣơng 2: THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH NINH BÌNH .... 38
2.1.

Đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế- xã hội ảnh hƣởng đến việc
thực hiện thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình ................................. 38

2.1.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, tự nhiên....................................................... 38


2.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội ....................................................... 39
2.1.3. Đặc điểm về dân cư, tôn giáo .............................................................. 40
2.2.

Thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình từ
năm 2011 đến nay .............................................................................. 42

2.3.


Đánh giá chung về công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh
Bình từ năm 2011 đến nay ................................................................ 55

2.3.1. Ưu điểm ............................................................................................... 55
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế ........................................................................ 59
2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ....................................................... 62
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 68
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG THI HÀNH ÁN Ở TỈNH NINH BÌNH ........................... 69
3.1.

Phƣơng hƣớng nâng cao chất lƣợng thi hành án dân sự ở tỉnh
Ninh Bình từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 ............ 69

3.2.

Giải pháp nâng cao chất lƣợng thi hành án dân sƣ từ nay đến
năm 2020 và tầm nhìn 2025 .............................................................. 74

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................... 74
3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình .... 78
3.3.

Điều kiện để thực hiện giải pháp hoàn thiện nâng cao chất
lƣợng công tác thi hành án dân sự................................................... 86

3.3.1. Phía Nhà nước ..................................................................................... 86
3.3.2. Phía Cơ quan thi hành dân sự ở tỉnh Ninh Bình ................................. 91
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 97

KẾT LUẬN .................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 100


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND:

Hội đồng nhân dân

TAND:

Tòa án nhân dân.

THADS:

Thi hành án dân sự.

UBND:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang


Bảng 2.1: Kết quả thi hành về việc

45

Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự về tiền

45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động đưa bản án, quyết định về
dân sự của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
ra thi hành trên thực tế. THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án
được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp
chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
và lợi ích của nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Điều 106 Hiến
pháp năm 2013 của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành” [35].
Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà nước trước
đây, nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án
dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 và gần đây là Pháp
lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12
và Nghị quyết về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự số 24/2008/QH12,
Luật số 64/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân
sự có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015 với mục đích nhằm tiếp tục hoàn thiện
thể chế về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản,

bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, góp
phần bảo đảm thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013, theo đó bản án,
quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ
chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành.

1


Tuy nhiên, do tác động của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế,
các giao lưu dân sự trong nội bộ nhân dân và giữa các cơ sở kinh tế ngày càng
mở rộng và đa dạng dẫn tới tình trạng số vụ việc tranh chấp về dân sự và kinh
tế ngày càng tăng về số lượng và phức tạp về nội dung. Kết quả là số lượng
các bản án, quyết định phải thi hành ngày càng nhiều, tổng số tiền và hiện vật
phải thi hành ngày càng lớn, trong đó có nhiều vụ việc rất khó khăn, phức tạp
trong việc tổ chức thi hành. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cấp Ủy Đảng, chính
quyền và sự cố gắng của đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án trong các cơ
quan thi hành án từ Trung ương tới địa phương đã làm giảm đáng kể số lượng
án phải thi hành hàng năm, nhưng số vụ việc và số tiền phải thi hành chuyển
kỳ sau vẫn còn rất lớn, có xu hướng tăng lên. Đáng lo ngại là trên thực tế
nhiều vụ việc không thể thi hành được còn tồn tại rất nhiều. Trong những năm
qua, ngành thi hành án đã đạt được những kết quả nhất định nhưng lượng án
tồn đọng vẫn còn đáng kể. Riêng ở Ninh Bình, công tác thi hành án đã đạt
được kết quả cao theo đúng chỉ tiêu mà Bộ Tư pháp cũng như Tổng cục thi
hành án dân sự đặt ra, năm 2015 việc chiếm 94% (vượt 6% so với chỉ tiêu quốc
hội giao, tiền đạt 82% (vượt 5% so với chỉ tiêu Quốc hội giao). Kết quả đạt
được nói trên phản ánh sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ thi hành án ở tỉnh
Ninh Bình, sự quan tâm, chỉ đạo của cấp Ủy Đảng, chính quyền địa phương; sự
phối hợp chặt chẽ của các ngành hữu quan trong thi hành án dân sự.
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm còn bộc lộ nhiều tồn tại, chưa đáp

ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, vẫn còn trong tình trạng các
bản án, quyết định cuả Tòa án đã có hiệu lực nhưng chưa được nghiêm chỉnh
thi hành, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật.
Qua thời gian học tập, nghiên cứu tại khoa Luật- Đại học Quốc Gia Hà Nội,
được sự hướng dẫn của Nhà giáo ưu tú.Phó Giáo Sư.Tiến sĩ Dương Đức
Chính học viên chọn đề tài: "Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh
Bình" làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình.

2


Học viên mong muốn qua luận văn này đưa ra được những thực trạng
cũng như những đề xuất, kiến nghị trong thực tiễn nhằm phát huy hơn nữa vai
trò của thi hành án dân sự trong việc đưa bản án, quyết định về dân sự của
Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành
trên thực tế. Đây là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối
với lĩnh vực thi hành án dân sự nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy định
của pháp luật thi hành án dân sự góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, công tác thi hành án dân sự đang được đặt
ra và là nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội và tất cả
công dân Việt Nam. Thi hành án dân sự là một lĩnh vực tương đối rộng và
phức tạp, vì vậy trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân
sự, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự,
cụ thể là: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi
hành án”, mã số 96-98-207/ĐT do Cục quản lý thi hành án dân sự Bộ Tư
pháp chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Những cơ sở lý
luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại”, mã số 95-98-114/ĐT do Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí

Minh chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước: “Luận cứ
khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở
Việt Nam trong giai đoạn mới” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lí thuộc
Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện năm 2003; và công trình nghiên cứu khác, như:
Luận án tiến sĩ luật học của Hoàng Thế Anh (2015), "Giám sát thi hành án dân
sự", Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học của
Nguyễn Công Long (2000): “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện”; Luận văn thạc sĩ luật học của

3


Nguyễn Thanh Thủy (2001): “Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự”;
Luận văn thạc sĩ luật học của Trần thị Bích Thủy: “Đổi mới tổ chức bộ máy
cơ quan thi hành án dân sự thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh”; Luận văn
thạc sĩ luật học của Cù Hoàng Hanh (2008): “Đổi mới tổ chức và hoạt động
của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế”; Luận văn
thạc sĩ luật học của Đỗ Thị Lý (2010): “Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh
Thái Bình”; Hoàng Thọ Khiêm (2006): “Đổi mới tổ chức cơ quan thi hành
án”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội; Đề tài khoa học cấp cơ sở: “Triển khai
áp dụng Luật thi hành án +dân sự trong công tác đào tạo nghiệp vụ thi hành
án” do TS Lê Thu Hà, trưởng khoa đào đạo Chấp hành viên và các chức danh
tư pháp khác làm chủ nhiệm; “Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật
Thi hành án dân sự”, của Nguyễn Thị Khanh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
số 05/2010; “Công tác cán bộ thi hành án dân sự - Một số vấn đề từ thực
tiễn” của Đinh Duy Bằng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 09/2010; “Vướng
mắc trong hoạt động thi hành án dân sự” của Ngọc Biên, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 09/2011; “Một số khó khăn sau hai năm áp dụng Luật Thi hành
án dân sự” của Lạc Phong, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 02/2012;
“Nguyên nhân của tình trạng án dân sự tồn đọng” của Hoàng Thế Anh, Tạp

chí Dân chủ và pháp luật, 06/2012; Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt
Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự
của Học viện tư pháp và một số bài viết trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
Tạp chí luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Tin thi hành án dân sự,…
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân
sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Các công trình nghiên
cứu trên đã nghiên cứu sâu về những vấn đề chung về thi hành án dân sự;
những vấn đề mang tính tổng thể hay những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác
nhau của thi hành án dân sự trên phạm vi toàn quốc. Nhưng đến nay, chưa có

4


công trình nghiên cứu nào dưới góc độ lý luận và thực tiễn về công tác thi
hành án dân sự ở một địa phương cụ thể với những đặc thù riêng biệt của địa
bàn có tốc độ đô thị hóa nhanh như tỉnh Ninh Bình. Do vậy, việc lựa chọn đề
tài "Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình" được xem là một trong
những công trình đầu tiên nghiên cứu về thực tiễn công tác thi hành án dân sự
ở một địa phương cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích khoa học của Luận văn là lãm rõ cơ sở lý luận cũng như
thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở Ninh Bình. Trên cơ sở đó thấy được
thực trạng của công tác thi hành án dân sự, đánh giá đúng và nghiêm túc về
vai trò, vị trí của công tác thi hành án dân sự, để đưa ra các yêu cầu và giải
pháp tăng cường hơn nữa vai trò của công tác hoạt động thi hành án dân sự,
đảm bảo mọi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án phải được
đưa ra thi hành góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự ở
tỉnh Ninh Bình nói riêng và thi hành án dân sự cả nước nói chung trong giai
đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên cần phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Luận giải hệ thống lý luận về thi hành án dân sự
- Đánh giá thực trạng hoạt động công tác thi hành án dân sự ở tỉnh
Ninh Bình.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động công tác thi
hành án đưa ra phương hướng, yêu cầu và giải pháp để nâng cao chất lượng
thi hành án dân sự.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Việc nghiên cứu được thực hiện trên quy định về thi hành án dân sự
trong pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh
Bình hiện nay.

5


3.4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận về thi hành án và hoạt động thực tiễn công tác thi hành
án dân sự ở tỉnh Ninh Bình. Từ đó đưa ra các yêu cầu và giải pháp nâng cao
chất lượng công tác thi hành án dân sự. Về thời gian nghiên cứu: Thời gian
nghiên cứu đề tài từ năm 2011-2015. Ngoài thời gian nghiên cứu trên luận
văn còn mở rộng nghiên cứu các khoảng thời gian lịch sử để có thêm số liệu,
đánh giá, so sánh, minh họa cho các luận cứ trong luận văn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp cơ bản được sử dụng trong việc nghiên cứu, hoàn
thiện luận văn: Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp cụ
thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương
pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Thứ nhất: Luận văn đã nghiên cứu tương đối toàn diện và đầy đủ về
“Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình”. Kết quả nghiên cứu của luận
văn góp phần làm sáng rõ những vấn đề lý luận về pháp luật thi hành án dân
sự ở Việt Nam nói chung và Ninh Bình nói riêng.
Thứ hai: Luận văn đã đi sâu nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng pháp
luật thi hành án dân sự hiện hành và liên hệ thực tiễn ở tỉnh Ninh Bình, chỉ ra
những kết quả đạt được, nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như
những tồn tại, hạn chế trong việc thực thi pháp luật thi hành án dân sự.
Thứ ba, luận văn đưa ra các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao
chất lượng công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình hoàn thiện pháp luật
thi hành án dân sự từ ngay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025.

6


Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các hoạt động nghiên cứu, chỉ đạo, tổ chức hoạt động của công tác thi
hành án nhằm tiếp tục phát huy vai trò của công tác thi hành án dân sự nói
chung, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thi hành án dân sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn thi hành án dân sự ở Ninh Bình.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp, điều kiện nâng cao chất lượng
công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.

7



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái quát chung về thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong
lịch sử đã lý giải một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và
những mối quan hệ của nó với các hiện tượng xã hội khác nhau trong xã hội
có giai cấp, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai
cấp. Pháp luật: Là hệ thống các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được
nhà nước bảo đảm thức hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh
các quan hệ xã hội, duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống
trị [48, tr. 139]. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự
chung (qui phạm pháp luật) thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể
hiện ý chí của nhân dân, được Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên
cơ sở giáo dục, thuyết phục, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa [48, tr. 143]. Pháp luật thi hành án dân sự là một bộ
phận cấu thành của hệ thống pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật thi hành án dân sự, trước hết cần
làm rõ một số khái niệm có liên quan đến khái niệm pháp luật thi hành án dân
sự như: khái niệm thi hành, khái niệm tư pháp, khái niệm thi hành án và khái
niệm thi hành án dân sự.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là "Thực hiện điều đã chính thức
quyết định" [54, tr. 1559]. Theo từ điển Luật học thì thi hành án là "giai đoạn kết
thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm
cho phán quyết của toà án nhất định có hiệu lực pháp luật" [37, tr. 464].


8


Việc xác định bản chất của thi hành án dân sự vẫn là vấn đề còn nhiều
tranh luận cả từ góc độ lý luận và thực tiễn. Dựa trên những luận cứ khác
nhau, có quan điểm cho rằng:
Quan điểm 1: Thi hành án dân sự là một giai đoạn tố tụng.
Thi hành án là gia đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở để tiến hành
hoạt động thi hành án. Ở giai đoạn này, cơ quan thi hành án áp dụng
các biện pháp được pháp luật quy định để đưa chân lý trở thành
hiện thực trong đời sống thực tế. Thi hành án là hoạt động bảo vệ
pháp luật khác về bản chất với các hoạt động hành chính là tổ chức
và quản lý. Thi hành án nhằm mục đích thực thi các phán quyết của
Tòa án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành và thi
hành có hiệu qủa trên thực tế. Hoạt động thi hành án gắn liền với
quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử [49, tr. 8].
Theo quan điểm này thì thi hành án là giai đoạn nằm trong quá trình
quyết vụ án, theo đó giai đoạn tố tụng trước của giai đoạn xét xử là giai đoạn
chuẩn bị xét xử, còn thi hành án là giai đoạn xét xử, giai đoạn thực thi các
phán quyết của Tòa án trên thực tế. Căn cứ duy nhất để thi hành án là bản án,
quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật. Tính lệ thuộc của thi
hành án vào công tác xét xử được thể hiện ở việc khẳng định xét xử là tiền đề
của thi hành án. Trong quá trình thi hành án, vai trò của Tòa án gắn chặt với
hoạt động của thi hành án, thể hiện ở trách nhiệm của Tòa án trong việc hoãn
thi hành án trong thời gian luật định, hay “xem xét, kháng nghị để xét xử theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án quyết định có vi phạm thủ tục
tố tụng” khi cơ quan thi hành án kiến nghị. Hậu quả pháp lý của việc xem xét
theo trình tự này có thể làm thay đổi kết quả thi hành án hay cách thức tiến

hành thi hành án của cơ quan thi hành án.

9


Thi hành án với quan điểm này, được hiểu là giai đoạn kết thúc trình tự
tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử làm cho phán quyết
của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Quan điểm 2: Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính chất
hành chính – tư pháp. Theo quan điểm này quá trình tố tụng mà
trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm dứt khi tòa án ra phán
quyết nhân danh nhà nước. Trong đó tòa án đã xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên còn việc thi hành các phán quyết là một gia
đoạn khác, không phụ thuộc vào quá trình tố tụng. Thi hành án
không phải là gia đoạn tố tụng bởi vì: Thi hành án có mục đích là
khác với mục đích tố tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các
vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải
quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là
quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật [28, tr. 21].
Cùng quan điểm trên PGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng:
Không thể đồng nhất hoạt động thi hành án với hoạt động tố
tụng, bởi lẽ hoạt động thi hành án có tính chất chính trị, pháp lý, xã
hội của nó. Nghiên cứu hoạt động thi hành án hiện nay cần đặt
trong vấn đề để xây dựng nhà nước pháp quyền. Xét về bản chất,
hoạt động thi hành án được thể hiện ở ba phương diện chủ yếu sau:
- Xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá
trình thi hành án.
- Tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi
hành án;

- Đặc thù trong các quan hệ về thủ tục thi hành án. Quan hệ
thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ

10


khác mang tính hành tính- tư pháp. Nhưng cần khẳng định rằng các
quan hệ mang tính hành chính - tư pháp chủ yếu hơn. Thi hành án
là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực,
một số công việc Nhà nước có thể xây dựng hành lang pháp lý để
thực hiện xã hội hóa hoạt động này.Đây là điều khác so với hoạt
động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không
có xã hội hóa.
Cùng quan điểm, TS. Đinh Trung Tụng cũng cho rằng:
Thi hành án không mang tính chất tố tụng thuần túy mà có
nhiều tính chất của giai đoạn mang tính hành chính- tư pháp. Ở đây có
nhiều điểm khác nhau giữa tố tụng và quá trình thực hiện thi hành án.
Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực thi không
phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá trình thi hành án mang tính hành
chính- tư pháp hơn. (đặc biệt là trong thi hành án kinh tế- tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi hành án hình sự đối
với loại hình phạt không phả là hình phạt tù) [49, tr. 12].
Xuất phát từ các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi
hành án dân sự ở nước ta, nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm cho rằng thi
hành án dân sự là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt động hành
chính - tư pháp. Điều này thể hiện ở một số điểm sau đây:
- Cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết định dân sự của
Toà án; các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chủ yếu là cơ quan tư
pháp (theo nghĩa rộng);
- Thi hành án dân sự là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối

quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó (ví dụ: việc thi
hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của Toà án; trong quá trình thi hành
án, Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu cơ

11


quan thi hành án hoãn việc thi hành án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án để
xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm...). Tuy nhiên,
thi hành án lại có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được
bắt đầu bằng quyết định của Thủ trưởng cơ quan thi hành dân sự đối với thi
hành án dân sự. Những quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với
tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án.
Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa
vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Tính chấp
hành trong thi hành án phản ánh một đặc trưng chứng tỏ nó không đơn thuần
là hoạt động tố tụng thuần tuý. Bên cạnh các chủ thể là Tòa án, Viện kiểm sát,
chúng ta có thể thấy các chủ thể tham gia vào giai đoạn thi hành án đông đảo
và đa dạng hơn so với các giai đoạn tố tụng trước đó, ví dụ UBND địa
phương nơi người phải thi hành án cư trú; cơ quan, tổ chức nơi người phải thi
hành án làm việc...
- Thi hành án và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân
quả với nhau. Trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra, các
cơ quan tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp thời các biện
pháp ngăn chặn như thu giữ, kê biên, phong tỏa tài sản... thì đến giai đoạn thi
hành án, cơ quan thi hành án sẽ gặp rất nhiều khó khăn do đương sự cất giấu,
tẩu tán tài sản dẫn đến tình trạng án tồn đọng không thể thi hành được. Hoặc
nếu một bản án, quyết định được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình,
đạt lý, rõ ràng, cụ thể, được dư luận ủng hộ, đồng tình thì việc thi hành án sẽ
dễ dàng, nhanh chóng hơn nhiều. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của Tòa

án được tuyên không khách quan, toàn diện và công bằng, thiếu tính khả thi
sẽ gây cản trở cho việc thi hành án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
các cơ quan nhà nước. Đồng thời, việc thi hành án nhanh chóng, kịp thời sẽ
có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử, củng cố, tăng cường uy
tín của cơ quan xét xử.

12


- Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện Kiểm
sát nhân dân thì Viện Kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm sát
chung như trước đây, có nghĩa là không thực hiện chức năng kiểm sát đối với
hoạt động hành chính mà chỉ kiểm sát đối với hoạt động tư pháp. Tuy nhiên,
trong Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân hiện hành vẫn có một chương với
nhiều điều quy định về kiểm sát thi hành án. Trong thực tiễn, Viện Kiểm sát
nhân dân các cấp đã ban hành nhiều kháng nghị đối với các quyết định về thi
hành án. Tuy nhiên, tính chất của kháng nghị trong giai đoạn thi hành án có
nhiều điểm không giống với kháng nghị trong giai đoạn xét xử... Điều này
cho thấy rõ mối quan hệ mật thiết, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
với cơ quan thi hành án, giữa pháp luật tố tụng tư pháp với pháp luật về thi
hành án, giữa quan hệ pháp luật tố tụng với quan hệ pháp luật về thi hành án.
- Quá trình thi hành án nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ tục thi hành án
cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng
trước đó vì đều liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Hơn nữa,
yêu cầu đặt ra đối với những người tiến hành các trình tự, thủ tục thi hành
án, kể cả Chấp hành viên trong thi hành án dân sự cũng không thấp hơn
những người tiến hành tố tụng trước đó là phải độc lập và tuân theo pháp
luật để bảo đảm duy trì sự thật trong bản án, quyết định của Tòa án và tiến
tới đạt được sự thật trên thực tế; nếu không độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật thì giá trị sự thật mà bản án, quyết định của Tòa án đã xác định sẽ không
còn nguyên nghĩa của nó, trừ trường hợp các đương sự có sự thỏa thuận tự
nguyện khác trong quá trình thi hành án.
- Bản chất của thi hành án là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp
hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau
nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa

13


án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của thi
hành án là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án được ghi trong bản án,
quyết định được thực thi trên thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng
pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành - nét đặc trưng của hoạt động
hành chính. Mặt khác, tính chất chấp hành không chỉ là yêu cầu trong hoạt
động thi hành án mà còn là yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước
đó với ý nghĩa cao nhất là chấp hành các quy định của pháp luật, bản thân
pháp luật được Nhà nước ban hành có tính bắt buộc chung mà mọi người phải
tôn trọng thực hiện.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm về thi hành án dân sự như sau: “Thi
hành án dân sự là hoạt động hành chính- tư pháp của Nhà Nước, do các cơ
quan thi hành án thẩm quyền tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định,
nhằm đảm bảo thi hành án các bản án hoặc các quyết định về dân sự của Tòa
án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền”. Trong các văn bản
pháp luật về thì hành án thì chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm cụ thể về
thi hành án dân sự. Dưới góc độ lý luận xung quanh khái niệm “dân sự” trong
thi hành án dân sự có hai cách hiểu khác nhau:
Ý kiến thứ nhất: Tại điều 1 của Bộ luật dân sự năm 2005 cho rằng quan
hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản phát sinh trong
giao lưu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự trong thi hành án

bao gồm bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và nhân thân phi tài
sản (như bản án, quyết định về tranh chấp các hợp đồng dân sự, về hôn nhân
gia đình và một số loại bản án, quyết định có tính chất dân sự).
Ý kiến thứ 2: “Dân sự” ở đây hiểu theo nghĩa rộng, đó không chỉ bao
gồm các bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với các loại hợp đồng
dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại án khác có tính chất dân sự của
Tòa án, mà còn bao gồm các bản án, quyết định khác do pháp luật quy định.

14


Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật hiện hành, nhiều vụ việc có tính chất khác
nhau, được giải quyết theo các trình tự khác nhau nhưng đến giai đoạn thi
hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
Đồng tình với ý kiến này, bởi lẽ theo quy định của pháp luật hiện hành,
nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự khác
nhau nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục
thi hành án dân sự như đã nêu.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
Từ góc độ tiếp cận về khái niệm của thi hành án dân sự, trên cơ sở các
quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự có
thể thấy thi hành án dân sự có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Thi hành án mang bản chất hành chính- tƣ pháp
- Tính hành chính thể hiện ở chỗ: Thi hành án là dạng hoạt động chấp
hành, quản lý.
+ Là dạng hoạt động chấp hành vì thi hành án chỉ được tiến hành trên
cơ sở các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật
định; toàn bộ quá trình thi hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức
khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản
án, quyết định của Tòa án và theo các quy định cụ thể của pháp luật.

+ Là dạng hoạt động quản lý vì thi hành án là sự tác động của pháp
luật, của các cơ quan thi hành án tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác
thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được
xác định trong các bản án, quyết định của Tòa án; phải tuân theo các quy định
của pháp luật; giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của
cá nhân, tôn trọng kỉ luật nhà nước.
- Tính tư pháp thể hiện ở chỗ: Căn cứ để thi hành án là các bản án và
quyết định của Tòa án và có sự tham gia của các cơ quan tư pháp vào quá

15


trình thi hành án. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng tính tư pháp trong thi hành
án là tư pháp hiểu theo nghĩa rộng. Trong thực tiễn ở nước ta, cơ quan tư pháp
thường được hiểu bao gồm Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ
quan điều tra, cơ quan thi hành án. Điều này là không đúng. Về mặt lý luận,
nhiều quốc gia trên thế giới đều xem quyền tư pháp là quyền xem xét và phán
quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp; Tòa án là cơ quan tư pháp độc
lập duy nhất. Viện Kiểm sát nhân dân chỉ là cơ quan tham gia các hoạt động
tư pháp. Ngay cả Bộ Tư pháp về tên gọi là như thế nhưng vẫn không có quyền
tư pháp (quyền phán quyết) mà chỉ là cơ quan quản lý nhà nước về một số
lĩnh vực liên quan trong hoạt động tư pháp (luật sư, thi hành án dân sự...).
Tương tự như vậy, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án cũng thuộc nhóm cơ
quan hành pháp. Hệ quả là không thể dựa vào tính tư pháp trong thi hành án
để cho rằng thi hành án là một giai đoạn của tố tụng hành chính. Vì vậy, có
thể dùng "cái gạch ngang" giữa hành chính và tư pháp để phản ánh bản chất
của thi hành án.
Tính chất hành chính - tư pháp là một đặc điểm rất quan trọng cần lưu ý
trong khi quy định về tổ chức và hoạt động của thi hành án. Là hoạt động
thuộc trách nhiệm của hệ thống cơ quan hành pháp nên trong các quy định

của pháp luật thi hành án phải xác định rõ trách nhiệm chính trong tổ chức,
quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án phải thuộc về Chính phủ và Ủy ban nhân
dân các địa phương. Với đặc điểm là hoạt động mang tính chất tư pháp thì
những tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trực tiếp thi hành án (thủ trưởng cơ
quan thi hành án, chấp hành viên) phải có tính độc lập tương đối, hoạt động
theo luật và chịu trách nhiệm trước Nhà nước. Thật khó có thể xác định rõ
được mức độ (liều lượng) của tính hành chính và tính tư pháp trong thi hành
án. Tuy nhiên, trong thực tiễn, đặc điểm của mỗi loại hình thi hành án cũng
như của mỗi nhóm vụ việc trong từng loại hình thi hành án sẽ quy định mức

16


độ của tính hành chính và tính tư pháp và thông thường trong thi hành án, tính
tư pháp luôn thể hiện ở mức độ hạn chế hơn so với tính hành chính.
Thứ hai: Chủ thể bắt buộc trong quan hệ thi hành án dân sự là Cơ
quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và đƣơng sự (Ngƣời đƣợc thi
hành án, ngƣời phải thi hành án)
Quan hệ THADS luôn tồn tại ba chủ thể bắt buộc là cơ quan THADS,
Chấp hành viên và các bên đương sự (Người được thi hành án, người phải thi
hành án) hình thành trên cơ sở các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Pháp luật. Cơ quan thi
hành án và Chấp hành viên là chủ thể thực hiện quyền lực Nhà nước để thi
hành bản án, quyết định theo quy định. Về nguyên tắc tính chủ động, độc lập
của Chấp hành viên trong hoạt động nghiệp vụ luôn được tôn trọng, bảo vệ.
Ví dụ, đối với việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trong thi hành án
dân sự, Chấp hành viên chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp
luật quy định, đó là: khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy có giá của
người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; phong
tỏa tài khoản, tài sản của người phải thi hành án tại ngân hàng, kho bạc: kê

biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang di người thứ ba giữ; buộc
giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật, tài sản khác; cấm hoặc
buộc phải thi hành án không làm hoặc làm công việc nhất đinh; chỉ được áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án sau khi người phải thi hành án đã hết
thời gian tự nguyện thi hành án (trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi
hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án);
không được tổ chức cưỡng chế thi hành án trong các ngày nghỉ theo quy định
của pháp luật lao đông trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng hôm
sau, mười lăm ngày trước và sau tết nguyên đán, các ngày lễ tết truyền thống
đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án và các

17


trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ tư pháp quy định; việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành
án: Chấp hành viên phải căn cứ vào nội dung bản án, quyết định, tính chất,
mức độ của nghĩa vụ thi hành án, điều kiện của người phải thi hành án, đề
nghị của đương sự và tình hình thực tế tại địa phương để áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án.
Thứ ba: Đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa thuận thi hành
án của các đƣơng sự
Xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận, bình đẳng, hòa giải
trong quan hệ dân sự. Ngoài những trường hợp chủ động ra quyết định thi
hành án theo quy định, cơ quan thi hành án chỉ tổ chức thi hành án trên cơ sở
yêu cầu của người phải thi hành án, người được thi hành án đồng thời bảo vệ
quyền và lợi ích cho các bên đương sự thực hiện quyền thỏa thuận và tự
nguyện thi hành án. Chỉ khi các đương sự không thỏa thuận được với nhau thì
mới bị cưỡng chế thi hành án. Người phải thi hành án có quyền yêu cầu về
việc thi hành án khác với nội dung bản án, quyết định tuyên như quyền yêu

cầu không thi hành án, hoặc cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành
án… và được người được thi hành án chấp nhận thì việc thi hành án được
thực hiện theo yêu cầu đó.
Thứ 4: Trình tự thủ tục thi hành án dân sự dƣợc tiến thành theo
một thủ tục trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
Trình tự thủ tục THADS là một cơ chế chặt chẽ theo quy định của luật
THADS nhằm phục vụ cho chức năng thi hành án. Qua nghiên cứu, thủ tục
thi hành án phải đảm bảo chính xác bởi lẽ hoạt động thi hành án là để hiện
thực hóa quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ THADS. Đó là trình tự
nhận bản án, quyết định của tòa án nhân dân, nhận đơn yêu cầu thi hành án, ra
quyết định thi hành án, xác minh thi hành án, thông báo thi hành án, cưỡng

18


×