Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Khái niệm về stress

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.62 KB, 23 trang )

I.

Khái niệm về Stress:

1. Stress là một từ xuất phát từ tiếng La tinh stringere, có nghĩa là
căng thẳng, mệt mỏi.
Những định nghĩa từ xa xưa về căng thẳng mệt mỏi đã được sử dụng
trong vật lí, trong kĩ thuật và kết quả là ảnh hưởng tới khái niệm về stress tác
động đến cá nhân. Theo khái niệm này, thì các áp lực bên ngoài (áp lực công
việc, gánh nặng công việc) được xem như là áp lực tác động đến cá nhân và
nó gây ra căng thẳng. (Hinkle, 1973).
2. Stress là một thuật ngữ tiếng Anh được dùng trong vật lý học để
chỉ một sức nén mà vật liệu phải chịu đựng.
Đến thế kỷ thứ 17 stress từ ý nghĩa sức ép trên vật liệu được chuyển
sang dùng cho người với ý nghĩa một sức ép hay một xâm phạm nào đó tác
động vào con người gây ra một phản ứng căng thẳng.Hiện nay stress là một
thuật ngữ được dùng rộng rãi. Tuy nhiên nhiều tác giả sử dụng với những
sắc thái khác nhau.
3. Theo nhà sinh lý học Hans Selye năm 1946: "Stress là một phản
ứng sinh học không đặc hiệu của cơ thể trước những tình huống căng thẳng".
Ông miêu tả ba giai đoạn mà mỗi cá nhân phải đối mặt trong những tình
huống gây stress.
Giai đoạn 1: Phản ứng báo động: giai đoạn đầu của sự kháng cự được
theo sau bởi cú sốc chạm trán với stress. Trong giai đoạn này, cách thức
phòng thủ của mỗi cá nhân trở thành hành động.


Giai đoạn 2: Sự kháng cự: đây là giai đoạn của sự thích nghi tối đa và
có hi vọng trở lại trạng thái cân bằng của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, nếu tác
nhân gây stress vẫn tiếp tục hoặc không thực hiện các phương thức phòng
thủ thì cá nhân chuyển sang giai đoạn 3.


Giai đoạn 3: Kiệt sức: Khi những phương thức thích nghi sụp đổ.
4.Theo J.Delay: "Stress là một trạng thái căng thẳng cấp diễn của cơ
thể buộc phải huy động các khả năng phòng vệ để đối phó với một tình
huống đang đe doạ".
5. Những lí thuyết mới hơn, hoàn thiện hơn về stress nhấn mạnh sự
tác động qua lại giữa một người và môi trường của người đó bằng cách xem
xét stress như là hậu quả của sự không thích nghi giữa cá nhân với môi
trường làm việc.
Như vậy có rất nhiều những khái niệm khác nhau về stress nhưng tựu
chung lại nó đều là những căng thẳng, mệt mỏi , là sức nén mà con người
phải chịu đựng. Nó vượt quá khả năng phòng vệ và tự kiểm soát của mỗi con
người.

II.

Biểu hiện và những tác hại của stress:

Cuộc sống luôn luôn đổi thay. Bất cứ ai cũng có lúc cảm thấy ở một
trạng thái mất cân bằng kéo dài, căng thẳng, bức xúc, bực bội, lo âu, ấm ức,
dễ nổi nóng… Những lúc ấy, bạn đã bị stress.
Vì thế, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về stress. Stress diễn ra vô
cùng phức tạp và tác hại cũng rất nặng nề. Stress có thể gây ra từ một lời
khiển trách của sếp mà bạn thấy bị xúc phạm nhưng không dám chống đối
nên cứ bị dằn vặt âm ỉ, một hợp đồng bị trượt khỏi tay chỉ vì sự vô ý của
mình khiến bạn vừa tiếc nuối vừa ân hận, một nỗi buồn không thể nguôi


ngoai, một trận cãi nhau với người thân khó lòng hòa giải, một sự cố gắng
quá sức mình, những khó khăn về tài chính không thể vượt qua…tất cả
những điều trên là biểu hiện, cơ sở để tạo nên stress trong mỗi cá nhân.

1. Dấu hiệu (biểu hiện) của stress:
Nhịp sống của xã hội hiện đại rất dồn dập và nhiều thách thức. Trong
quá trình đối phó với nó, stress trong môi trường làm việc có thể nảy sinh.
Stress xảy ra thường xuyên có tác hại khá nghiêm trọng đến sức khỏe và làm
giảm chất lượng cuộc sống.
Stress do công việc thường gây cảm giác kiệt sức, tự đánh giá thấp
bản thân, tuyệt vọng, trầm cảm..., thậm chí tự tử; đồng thời liên quan đến các
rối loạn trong nhiều chứng bệnh.
Stress do công việc là những phản ứng có hại về mặt cảm xúc và cơ
thể, xuất hiện khi yêu cầu của công việc vượt quá khả năng đối phó hay
kiểm soát của bản thân. Đó cũng có thể là sự mất cân bằng gây căng thẳng
quá mức giữa yêu cầu của công việc và cuộc sống cá nhân.
Những người làm nhiều việc, hoàn thành trong thời gian quá ngắn, ít
khoảng nghỉ giữa giờ, thời gian làm việc quá dài, làm ca, việc đơn điệu
không cần sử dụng đến kỹ năng hoặc quá nhiều xung đột, quá nhiều trách
nhiệm, quá nhiều sếp chỉ huy... có nguy cơ đối diện với stress cao hơn người
khác. Bên cạnh đó, công việc không ổn định, ít cơ hội thăng tiến, không học
hỏi thêm được gì, thay đổi nhiệm vụ quá nhanh... cũng dễ gây ra stress.
- Biểu hiện ró nét nhất khi bị stress là kiệt sức về thể chất lẫn tinh
thần: Ngày nay, có khoảng 3/4 công nhân nghĩ rằng họ bị stress trong công
việc nhiều hơn so với các thế hệ trước. Các vấn đề tại nơi làm việc liên quan


rất chặt chẽ với chuyện sức khỏe, mạnh hơn cả các stress khác trong cuộc
sống.
- Triệu chứng sớm của stress do công việc thường là nhức đầu, rối
loạn giấc ngủ, khó tập trung, dễ cáu kỉnh, khó chịu ở dạ dày, không hài lòng
về công việc, xuống tinh thần. Stress dễ gây ra lo âu, mất tập trung chú ý,
mất tự tin, mất động cơ làm việc, cảm giác thất vọng, dễ bị kích thích, dễ
giận dữ, lạm dụng rượu hay chất gây nghiện, trầm cảm, tự tử. Đặc biệt,

stress gây ảnh hưởng đến hiệu quả công việc hoặc làm tăng nguy cơ bị sai
lầm, nhất là trong môi trường làm việc nguy hiểm hay cần duy trì sự chú ý
cao độ. Stress trong công việc cũng làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ với
đồng nghiệp.
- Nếu stress tại nơi làm việc không được giải quyết, dễ dẫn đến tình
trạng kiệt sức liên tục về mặt thể chất và tâm thần, xuất hiện những cảm xúc
tiêu cực như tự đánh giá thấp bản thân, cảm giác không ai có thể giúp mình
được và tuyệt vọng. Những triệu chứng này sẽ dẫn đến các rối loạn mãn tính
về sức khỏe, suy giảm trầm trọng khả năng tham gia cuộc sống hằng ngày.
Những người bị stress trong công việc cũng thường để stress tác động tới đời
sống gia đình do họ dễ bị kích thích, dễ giận, mất kiên nhẫn, buồn, kiệt sức,
mất thích thú, quá mệt mỏi, giảm tình dục, ảnh hưởng đến sự chăm sóc con
cái và đến quan hệ với các thành viên khác trong gia đình.
- Về biểu hiện trên cơ thể, stress có liên quan đến các rối loạn như
bệnh phổi, tim mạch, ung thư, tai nạn và tự tử, làm trầm trọng hơn các bệnh
lý như loét dạ dày, tá tràng, suyễn, rối loạn tiêu hóa, rối loạn tình dục, rối
loạn cơ xương...
- Qua tìm hiểu trong chương sách thì những nghề nghiệp như khai
thác mỏ, lái máy bay, quảng cáo, cảnh sát và diễn xuất được tin là những


nghề nghiệp tạo ra mức độ stress lớn nhất. Stress trong công việc trở thành
mối nguy hiểm nghề nghiệp cho những chuyên gia về “giúp đỡ” như: các
thầy thuốc, bác sĩ nha khoa, y tá và những kĩ sư y tế khi những người có tỉ lệ
tự tử, làm dụng thuốc hoặc nồng độ cồn cao hơn mong đợi. Người ta chỉ ra
rằng, người lao động trong khu vực nhà nước chịu nhiều stress hơn nhưng
giá trị lại thấp hơn so với những người làm việc trong các công ty.
2. Tác hại của stress:
Stress gây ra tổn hại ở mức độ cao đối với sự kết hợp giữa sức khoẻ
và năng suất lao động của chúng ta. Cooper và Quick (1999) cho rằng:

Trong một thế giới phát triển, stress trực tiếp liên quan đến 4 nguyên nhân
(bệnh tật, đứt mạch máu não, tự tử và giết người) và gián tiếp liên quan đến
3 căn bệnh (ung thư, bệnh gan mãn tính và bệnh về phế quản). Stress trong
công việc trở thành mối nguy hiểm nghề nghiệp cho những chuyên gia.
Stress rõ ràng là tạo nên tác hại vô cùng to lớn.
Vừa qua, nhờ sự hợp tác của nhiều chuyên gia đầu ngành ở nhiều lĩnh
vực, tạp chí Medical (Hoa Kỳ) đã dẫn ra 10 tác hại điển hình nhất của stress
đối với sức khỏe con người như sau:
- Ảnh hưởng đến não: Mất ngủ thường xuyên do stress gây ra là
nguyên nhân khiến não trở nên kém linh hoạt, minh mẫn, thậm chí có nguy
cơ bị tổn thương nghiêm trọng. Theo các nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên
cứu giấc ngủ ở Úc, chỉ cần không chợp mắt trong khoảng 20 giờ liên tiếp,
mức độ linh hoạt và khả năng kiểm soát của não sẽ bị thuyên giảm tương
đương với việc nồng độ cồn trong máu tăng hơn mức bình thường 50%.
- Ảnh hưởng đến tim: Khi bị stress, cơ thể thường giải phóng
một lượng lớn hormone cortisol, góp phần làm xuất hiện bệnh cao huyết áp,


béo phì và tiểu đường. Ngoài ra, stress còn là nguyên nhân khiến tinh thần ủ
rũ, lười vận động, nếu ai có thói quen dùng nhiều đường và mỡ động vật thì
nguy cơ mắc các bệnh tim mạch là rất khó tránh khỏi
- Ảnh hưởng đến phổi: Ngoài cortisol, stress còn kích thích tuyến
thượng thận giải phóng hormone adrenaline. Khi lượng hormone này tăng
cao thì hơi thở thường trở nên gấp gáp, không sâu. Điều này giải thích tại
sao các nhà tâm lý khuyên mọi người nên giữ bình tĩnh mỗi khi gặp căng
thẳng hay lo âu bằng cách cố gắng hít thở thật sâu và đều đặn. Người bị
stress nếu đã mắc bệnh suyễn hoặc các bệnh khác về đường hô hấp thì bệnh
tình sẽ trở nên tồi tệ hơn.
- Ảnh hưởng đến mắt: Dễ dàng nhận thấy mệt mỏi, căng thẳng luôn là
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến chứng mất ngủ. Khi mất ngủ, bên cạnh một

số biểu hiện thường thấy như thần sắc kém tươi tỉnh, da thô ráp, cơ thể suy
nhược…, thì tình trạng mắt mệt mỏi, thâm quầng hoặc sưng đỏ cũng rất dễ
xảy ra. Mất ngủ lâu ngày thậm chí còn có thể làm giảm thị lực cũng như gây
thêm nhiều căn bệnh nguy hiểm khác về mắt.
- Ảnh hưởng đến da: Theo các nhà khoa học tại Trường Đại học
Freedom ở Berlin, một trong những tác hại chính của stress đối với da là
kích thích các tuyến nhờn hoạt động mạnh, khiến da trở nên kém mịn màng,
nhanh lão hóa và dễ nổi mụn, có khi còn làm xuất hiện các bệnh nguy hiểm
khác như chàm bội nhiễm, vảy nến…
- Ảnh hưởng đến lưng, cổ: Ngoài tác hại làm hơi thở trở nên
gấp gáp, hormone adrenaline còn khiến cơ bắp dễ căng cứng, mệt mỏi. Điều
này giải thích tại sao lưng, cổ dễ bị đơ hoặc đau nhức khi tinh thần căng
thẳng, suy nhược. Các nhà khoa học cho rằng stress không những khiến


chúng ta lười vận động mà còn có khuynh hướng nằm, ngồi, đi, đứng…
không hợp lý, càng thêm mỏi mệt.
- Ảnh hưởng đến dạ dày: Khi bị stress, những loại hormone có
tác dụng tăng cường lưu lượng máu đến các cơ trên cơ thể sẽ thuyên giảm rõ
rệt, hậu quả là sức vận động cũng như sự co bóp của chúng bị giới hạn hoặc
yếu đi, trong đó có dạ dày, dẫn đến tình trạng khó tiêu, đầy hơi và chướng
bụng.
- Ảnh hưởng đến răng miệng: Khi tinh thần suy sụp, căng
thẳng, họat động của hệ miễn dịch trở nên kém hiệu quả, nguy cơ nổi mụn
nhiệt (còn gọi là đẹn) ở vòm miệng, nướu, lợi, lưỡi…sẽ rất cao.
- Ảnh hưởng đến đầu: Stress là một trong những nguyên nhân
chính khiến đầu óc dễ choáng váng, mệt mỏi, kể cả chứng đau đầu kinh
niên. Nguy cơ này sẽ cao hơn nếu lưng và cổ bị tổn thương trong khi stress
hành hạ.
- Ảnh hưởng đến chất lượng sống: Tác hại cuối cùng, cũng

chính là tác hại dai dẳng nhất của stress là ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống
tinh thần. Nếu không có biện pháp chế ngự kịp thời, stress sẽ từng bước làm
thui chột khả năng tư duy, trí nhớ, khả năng tự kiểm soát, phán đoán…của
người bệnh, đồng thời dễ làm mất đi niềm tin vào cuộc sống, cướp mất nghị
lực, ý chí vươn lên.

Như vậy, stress có những biểu hiện và tác hại khá rõ ràng. Khi chúng
ta nhận ra những điều này có thể ta đã gặp stress khá nặng. Chúng ta phỉ
quan sát từ những biểu hiện nhỏ nhất để có thể phát hiện ra stress một cách
sớm nhất và tìm được cách xử lý tố nhất.


III. Nguyên nhân gây stress:
Theo nghiên cứu của tác giả Cooper thì có 7 nguyên nhân chính gây
ra stress là:
- Những nhân tố bản chất của công việc
- Vai trò trong tổ chức
- Chiến lược kiểm soát cá nhân
- Mối quan hệ trong công việc
- Thăng tiến trong sự nghiệp
- Bầu không khí tâm lí và văn hoá ứng xử tại cơ quan
- Giao diện giữa gia đình và công việc


Nguồn stress

triệu chứng
stress

sức ép công

việc

triệu chứng cá
nhân

quy định
của tổ chức

Tăng huyết áp
Trầm ảm
Lạm dụng đồ
uống
Cáu giận
Tức ngực

nhân cách và
chiến lược
phát triển
MQH trong
công việc

bệnh cơ
thể

+ Bệnh tim
mạch
+ Rối nhiễu
tâm thần

?



NHÂN

Phát triển
nghề nghiệp
V/hóa tổ chức
- Bầu KK

Công việc
gia đình

Triệu chứng tổ
chức
+ Mất tập
trung trong
công việc
+ Nviên bỏ việc
+ Các mối
quan hệ khó
khăn
+ Mất kiểm
soát

+ Đình
công
+ Tai nạn
lao động
+ Tính
lãnh đạm,

thờ ơ

1. Nhân tố bên trong của công việc
1.1 Môi trường làm việc
Môi trường vật lí như tiếng ồn, ánh sáng, mùi và tất cả các tác nhân
kích thích có thể ảnh hưởng đến tâm trạng và trạng thái tinh thần dù những
nhân tố đó tốt hay không tốt thì chúng ta vẫn phải tìm cách khống chế nó
một cách có ý thức. Sự nghèo nàn về sức khoẻ tinh thần có liên quan trực
tiếp với môi trường làm việc không tốt, như làm việc gấp rút, phải làm việc
ráng sức, thời gian làm việc bất tiện và quá tải. Một đề xuất khác cho rằng,

?


sức khoẻ tinh thần cũng bị ảnh hưởng một cách bất lợi bởi điều kiện làm
việc lặp đi lặp lại, như dây chuyền lắp ráp tốc độ cao.
Mỗi nghề nghiệp đều có những nguyên nhân tiềm ẩn của môi trường
gây stress, chẳng hạn, một nghề mà cá nhân phải giải quyết những công việc
mang tính chi tiết và dày đặc trong môi trường ít ánh sáng sẽ gây mệt mỏi
cho mắt…
Thiết kế vật lí nơi làm việc là nguyên nhân khác gây stress. Trong một
văn phòng thiết kế đơn điệu với những nhân viên thường xuyên tiếp xúc
trong không gian qui định của toà nhà thì mạng lưới giao tiếp kém phát triển
và kết quả là người lao động không xác định rõ ràng về vai trò của mình và
đơn điệu về mối quan hệ.
1.2 Làm việc theo ca
Ngày nay, nhiều công nhân có những công việc đòi hỏi họ phải làm
việc theo ca, một số đó phải làm vào những giờ xen kẽ nhau. Các nghiên cứu
cho rằng, làm việc theo ca là một nhân tố gây stress phổ biến. Điều này đã
minh chứng cụ thể rằng, làm việc theo ca ảnh hưởng đến nồng độ các chất

trong máu, mức độ trao đổi chất, nồng độ đường trong máu, năng lực trí tuệ
và động cơ làm việc, tuy nhiên không đề cập đến tư thế ngủ, đời sống gia
đình và xã hội.
1.3 Thời gian lao động và khối lượng công việc
Khối lượng công việc nhiều hoặc thời gian làm việc kéo dài ảnh
hưởng đến tâm lý và hành vi của mỗi người.
Hai dạng công việc quá tải khác nhau đã đựơc mô tả bởi các nhà
nghiên cưú, đó là: sự quá tải về số lượng( có quá nhiều việc để làm) và sự
quá tải về chất lượng (công việc quá khó với mỗi cá nhân).


1.4 Rủi ro và nguy hiểm
Công việc có liên quan đến rủi ro hoặc nguy hiểm có thể là kết quả
của stress ở cấp độ cao hơn. Khi một vài người nhận thức được nguy hiểm
tiềm ẩn, ngay lập tức người ta chuẩn bị phản ứng với nó. Một cá nhân ở tình
trạng liên tiếp phản xạ được mô tả trong hàng loạt hội chứng “xung đột hoặc
đấu tranh”. Đó là kết quả do adrenalin (hoóc môn do tuyến thượng thận) tiết
ra, sự thay đổi hô hấp và sự mệt mỏi của cơ thể luôn tiềm ẩn, đe doạ lâu dài
đến sức khoẻ.
1.5 Công nghệ mới
Việc đưa kĩ thuật mới vào sản xuất đòi hỏi những người công nhân
làm thuê và những người quản lí phải nhanh chóng thích nghi với từng thiết
bị mới, hệ thống và cách thức làm việc. Một ông chủ vẫn giữ cách thức làm
việc cũ có thể gây khó khăn cho công nhân khi tiếp cận với cách thức làm
việc mới và làm nảy sinh những nghi vấn về sự tương xứng với một người
có quyền giám sát và về sự quản lí hà khắc.
2. Vai trò trong tổ chức
Vai trò của nhân viên trong tổ chức là một trong những yếu tố dẫn tới
stress. Khi vai trò của một người trong tổ chức được định rõ thì khả năng
được thăng cấp của cá nhân đó cũng được xác định rõ ràng và không bị bất

công, khi đó yếu tố gây stress có thể ở mức tối thiểu và ngược lại. Song rất ít
tổ chức xác định được rõ ràng vai trò của từng cá nhân . Có ba nguyên nhân
chính về vai trò dẫn tới stress bao gồm: sự mơ hồ về vai trò, xung đột vai trò
và mức độ chịu trách nhiệm trước người khác.


2.1 Sự mơ hồ về vai trò và xung đột vai trò
Sự mơ hồ về vai trò xuất hiện khi cá nhân không có cái nhìn rõ ràng
về mục đích công việc của họ, sự tin tưởng của những đồng nghiệp đối với
vai trò của họ, lĩnh vực hoạt động và trách nhiệm đối với công việc của họ.
Nguyên nhân chính dẫn tới sự mơ hồ về vai trò chủ yếu là do người lãnh đạo
trong tổ chức không phân công công việc một cách chính xác và phù hợp với
chức năng của từng nhân viên trong tổ chức.
Xung đột là yếu tố không thể tránh khỏi trong bất kỳ một tổ chức nào.
Xung đột vai trò tồn tại khi một cá nhân có nhu cầu đấu tranh trong công
việc, hoặc phải làm những việc mà họ hoàn toàn không muốn làm, hoặc họ
không cho rằng những việc mà họ đang phải làm lại là một phần của công
việc. Xung đột vai trò thường dẫn đến việc giảm đi sự thoả mãn trong công
việc và lo lắng về việc không hoàn thành được công việc.


Vai trò

Sự mơ hồ về vai trò

Xung đột vai trò

- Thiếu sự rõ ràng về phạm vi và
trách nhiệm của công việc.
- Thiếu sự rõ ràng về mục tiêu của

vai trò.
- Thiếu thông tin về vai trò trong
công việc.

- Những đòi hỏi quá cao của công
việc.
- Yêu cầu thực hiện nhiệm vụ
không phù hợp hoặc đứng bên
ngoài công việc được định rõ.

- Không thoải mái trong công việc.
- Công việc có liên quan đến sức
khoẻ và tinh thần.
- Sự căng thẳng tâm lí.
- Căng thẳng cao lien quan đến
công việc.
- Những dự định bỏ việc.
- Sự tin cậy thấp.
- Bất mãn cuộc sống.
- Không có động lực làm việc.
- Sự buồn chán.

- Những áp lực tâm lí.
- Cảm giác không thoải mái.
- Tình trạng căng thẳng liên quan
đến công việc.

- Sự phù phiếm.
- Lòng tự trọng thấp.


2.2 Trách nhiệm
Trách nhiệm đã được chỉ ra một tác nhân khác trong vai trò của tổ
chức gây stress. Đối với hầu hết mọi người, làm việc là một hoạt động cần
thiết và thường xuyên trong cuộc sống. Song nếu bạn có quá nhiều công
việc, trách nhiệm phải hoàn thành trong khi lại thiếu nguồn lực để thực hiện?


Công việc quá tải, lượng thông tin quá lớn hay môi trường làm việc nguy
hiểm… là những tác nhân đem lại sự căng thẳng trong công việc.
Trong mỗi tổ chức có hai dạng trách nhiệm cơ bản, đó là trách nhiệm
về con người và trách nhiệm về những vấn đề khác, như là ngân sách, thiết
bị và nhà cửa… Áp lực về trách nhiệm gây ra sự căng thẳng đặc biệt cho con
người.
3. Nhân cách và sự ứng phó với stress
Nhân cách của mỗi cá nhân cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới stress.
Điều đó được biểu hiện cụ thể qua sự ứng phó của mỗi người trước những
căng thẳng trong công việc.
Hầu hết các mô hình về stress đều phân tích tính cách của cá nhân có
ít nhất là một vai trò trong quy trình của stress dưới đây:
- Tính cách tác động trực tiếp đến hậu quả của stress. Ví dụ, những
người hướng nội sẽ gặp phải sự căng thẳng nhiều hơn trong tất cả các tình
huống, điều này dẫn tới những vấn đề về sức khỏe tinh thần hoặc thể chất
của họ. Bởi vì những người hướng nội thường có xu hướng giữ kín những
vấn đề mà mình đang gặp phải. Điều đó tích tụ lâu ngày làm cho vấn đề trở
nên trầm trọng, khó giải quyết hơn dẫn tới stress. Trong khi đó những người
hướng ngoại lại có xu hướng chia sẻ những khó khăn, vướng mắc mà họ
đang gặp phải trong công việc đối với đồng nghiệp và người than. Điều này
giúp cho những căng thẳng trong họ được giải tỏa bớt đi. Và nhiều khi thì
chính sự tư vấn góp ý của đồng nghiệp, người than chính là chìa khóa giúp
họ giải quyết được vấn đề mà họ đang gặp phải.

- Tác động làm dịu bớt sự căng thẳng hay làm các mối quan hệ căng
thẳng. Ví dụ, người hướng ngoại thì nhận thấy rằng, công việc tách biệt với
xã hội sẽ gây nhiều sự căng thẳng hơn so với những người hướng nội.


- Tác động về nhận thức mang tính trực tiếp, tính cách có một vài ảnh
hưởng đến những nhận thức của con người về đặc điểm công việc của mình.
Ví dụ, con người có yêu cầu cao về quyền lực thì sẽ có nhận thức cao giới
hạn về sự tự lập của họ và đánh giá quyền tự lập trong công việc của họ thấp
hơn như nó thực sự có.
4. Mối quan hệ trong công việc
Những người xung quanh nơi làm việc và những lần gặp gỡ của
chúng ta với họ có thể là nguyên nhân chính của sự căng thẳng và cả sự chịu
đựng. Đặc biệt, trong công việc, quan hệ với cấp trên, đồng nghiệp và nhân
viên cấp dưới có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực đến việc chúng ta cảm
thấy ra sao sau cuối ngày làm việc.
Có 3 mối quan hệ có ảnh hưởng nguy hại tại nơi làm việc, đó là quan
hệ với những người cấp trên, quan hệ với cấp dưới và với các đồng nghiệp
hay cộng sự.
4.1 Mối quan hệ với cấp trên
Sosik và Godshalk (2000) đã cho thấy rằng, phong cách lãnh đạo gây
hứng thú của người cấp trên có thể giảm sự căng thẳng đáng kế cho các nhân
viên cấp dưới. Phong cách lãnh đạo này bao gồm: sự ưu tiên phát triển nhu
cầu của các cá nhân cụ thể, xây dựng một cá nhân điển hình và thiết lập
nhiệm vụ rõ ràng cho nhóm làm việc hoặc tổ chức.
4.2. Mối quan hệ với người dưới quyền và đồng nghiệp
Cách mà một giám đốc giám sát công việc của những người khác luôn
là sự xem xét khía cạnh phê bình công việc của họ. Ví dụ, không có khả
năng để được uỷ quyền đã là một lời phê bình chung để chống lại một vài
giám đốc. Nhưng giờ đây, có vẻ như các giám đốc còn phải đối mặt với một

thử thách mới: tham gia học tập để quản lí mà sự tham gia học tập đó ngày


nay có thể là nguyên nhân của sự tức giận, sự lo âu và sự căng thẳng cho
người quản lí.
Sự căng thẳng trong mối quan hệ với các cộng sự khác có thể nổi lên
từ sự cạnh tranh và mâu thuẫn cá nhân thường được miêu tả như “chính trị
công sở”. Sự hỗ trợ xã hội một cách đầy đủ có thể ảnh hưởng không tốt đến
sức khoẻ cũng như hạnh phúc của mỗi cá nhân, bầu không khí cũng như sự
thành công của tổ chức. Bởi lẽ, hầu hết mọi người dành nhiều thời gian cho
công việc, khi đó mối quan hệ với các cộng sự có thể tạo ra sự hỗ trợ có ích
cho chúng ta hoặc ngược lại, nó lại là nguyên nhân tiềm ẩn lớn gây stress.
5. Thăng tiến trong sự nghiệp
Sự thất bại khi chưa đạt tới đỉnh cao nhất của nghề nghiệp hay chưa
được thăng tiến vượt bậc có thể là nguyên nhân gây stress cực kì nghiêm
trọng. Các cá nhân bị stress nghề nghiệp thường có biểu hiện không thoả
mãn cao trong công việc, hay thay đổi nghề nghiệp, bị kiệt sức và hoạt động
lao động đơn điệu, có ít mối quan hệ hoà đồng và ít hiệu quả trong công
việc.
Đối với nhiều người công nhân, sự thăng tiến trong công việc là điều
quan trọng hàng đầu. Thông qua việc thăng chức, người ta không những
kiếm được nhiều tiền hơn mà còn có địa vị xã hội cao hơn, được mọi người
nể trọng hơn và có thể còn đối mặt với những thách thức mới. Trong những
năm đầu mới bước vào làm việc, sự cố gắng phấn đấu và khả năng đối mặt
với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường thường được công ty thưởng
cho tiền bạc hoặc chức tước. Những điều này tạo cho họ sức ép lớn về mặt
tâm lý.


6. Môi trường và văn hoá của tổ chức

Môi trường của tổ chức là sự cảm nhận của người làm công về chức
năng của tổ chức nơi họ làm việc. Văn hoá ứng xử của tổ chức đề cập đến
những giá trị, những điều được nhận và những điều họ được chia sẻ từ
những thành viên trong tổ chức. Những điều đó có ảnh hưởng đến hành vi
của mỗi cá nhân và mỗi tổ chức.
7. Giao diện giữa gia đình và công việc
Gia đình cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới sự căng
thẳng ở nơi làm việc.
Có nhiều lí do giải thích tại sao giao diện giữa gia đình và công việc
lại trở nên ngày càng nổi bật trong các nghiên cứu và thực nghiệm về stress
(Frone, 2002) Có thể kể đến một vài lý do sau:
- Xu hướng ngày càng tăng phụ nữ trong lực lượng lao động – những
phụ nữ truyền thống gánh vác tốt trách nhiệm quản lí công việc gia đình và
chăm sóc chu đáo con cái. Vì vậy, việc cân bằng cuộc sống gia đình và công
việc được xem như là một vấn đề quan trọng.
- Sự gia tăng của cái được gọi là “nghề nghiệp không ranh giới”
(boundaryless career) là nơi mà công việc và cuộc sống gia đình được cho là
hoà quyện vào nhau và sự hoà hợp này là cặp đôi với nhau.
- Với nhiều người áp lực ngày càng tăng đã khiến họ cảm thấy công
việc trở nên cực nhọc và thời gian làm việc lâu hơn bình thường.
- Xu hướng nghề nghiệp và gia đình kết hợp ngày càng tăng, nơi mà
đòi hỏi ngày càng cao gánh nặng của công việc và trách nhiệm gia đình, điều
đó làm cho cá nhân có xu hướng bị stress.
Sự xung đột giữa 2 yếu tố gia đình và công việc có thể diễn ra theo 2
chiều hướng: công việc can thiệp vào gia đình và gia đình can thiệp vào
công việc.


IV. Giải pháp chung:
Căng thẳng trong công việc không chỉ gây tổn hại đến cá nhân mà cả

các tổ chức. Vì vậy, chúng ta phải làm nổi bật những chiến lược tổ chức, chỉ
đạo để giảm sự căng thẳng, đồng thời thay thế cách quản lí độc đoán, thiết
lập lại công việc một cách linh hoạt hơn.
1. Loại trừ nguồn gốc của căng thẳng tại công sở
Elkin và Rosch (1990) đã tóm tắt phạm vi có ích trong chiến lược trực
tiếp của tổ chức để giảm bớt căng thẳng:
• Thiết lập lại công việc
• Thiết lập lại môi trường làm việc
• Thành lập một kế hoạch làm việc linh động
• Khuyến khích tham gia quản lí
• Tính đến việc phát triển sự nghiệp cho người lao
động
• Phân tích vai trò của công việc và thiết lập mục đích
• Đưa ra sự ủng hộ của xã hội và những thông tin
phản hồi
• Xây dựng liên kết giữa các nhóm
• Thành lập hội chợ việc làm.
• Chia sẻ phần thưởng
Có rất nhiều chiến lược trực tiếp để tăng lượng người lao động tham
gia một cách tự do. Nó được công nhận như một sự ủng hộ xã hội, tự do
kiểm soát công việc và hành vi ứng phó đóng vai trò quan trọng trong việc


giảm bớt căng thẳng. Sự can thiệp ở cấp độ thứ 2 và thứ 3 có thể có ích trong
việc cải thiện và mở rộng những chiến lược ứng phó của cá nhân và ủng hộ
của tổ chức, nhưng chúng sẽ không chấp nhận ngay lập tức những vấn đề
trọng yếu trong sự kiểm soát ở môi trường làm việc.
Tổ chức lành mạnh
Một tổ chức lành mạnh được định nghĩa như là đặc trưng của một tổ
chức bởi cả sự thắng lợi về mặt tài chính (ví dụ, lợi nhuận) và lực lượng lao

động khỏe mạnh về thể chất và tinh thần, những yếu tố đó có khả năng duy
trì lâu dài môi trường làm việc lành mạnh và thỏa đáng, văn hóa tổ chức và
đặc biệt là qua những giai đoạn hỗn loạn và hay thay đổi về thị trường
(Cartwright và Cooper, 1997; Hart và Cooper, 2001). Tổ chức lao động lành
mạnh bao gồm:
* Áp lực thấp
* Người lao động tận tâm với tổ chức và sự thỏa mãn trong
công việc cao.
* Ốm đau, vắng mặt và tỉ lệ thay thế lao động thấp hơn so
với tỉ lệ trung bình của đất nước.
* Mối quan hệ giữa chủ và thợ tốt, đình công và bãi công ít
xảy ra.
* Sự an toàn và tai nạn lao động phải được công bố rõ ràng.
* không có sợ hãi lo lắng về cạnh tranh.
* Lợi ích và hiệu quả nguồn vốn được sử dụng tốt
* Tác động trong môi trường làm việc phải lạc quan.
Vì lẽ đó, chúng ta có thể thấy rằng, một tổ chức lành mạnh thực sự là
một tổ chức thành công trong việc sáng tạo và duy trì môi trường lành mạnh,
các mối quan hệ không stress, một tổ chức mà sự kiểm soát căng thẳng và
các tư vấn can thiệp là không cần thiết, cũng như một tổ chức mà các mục


tiêu can thiệp đầy hiệu quả, có thể làm giảm hoặc loại trừ sự căng thẳng
trong công việc và trong tổ chức trước khi tạo ra hiệu quả lâu dài đối với sức
khỏe của người lao động và tổ chức (trên tất cả các mặt)
Cách giải quyết vấn đề căng thẳng ở nơi làm việc
Nếu như cơ sở để giải quyết vấn đề là áp lực ở nơi làm việc thì cá
nhân và tổ chức phải:
• Nhận thức đúng và chấp nhận sự tồn tại của vấn đề
• Có khả năng xác định và tách riêng vấn đề/sự căng thẳng

• Cố gắng thay đổi vấn đề/sự căng thẳng bằng giải pháp có lợi cho
cả hai bên.
• Nếu vấn đề không thể thay đổi thì phải tìm cách ứng phó với
chúng.
• Giám sát và xem xét kết quả.
Cartwright và Cooper (1997) đã gợi ý các bước sau:
Bước 1: Nhận thức được và chấp nhận sự tồn tại của vấn đề
Chấp nhận để nhận ra ai đó có vấn đề là một bước cốt yếu trước tiên
để hướng tới việc giải quyết nó. Hiểu được vấn đề là yếu tố có ý nghĩa quan
trọng nhất trong việc điều trị bệnh lí của những vấn đề như nghiện rượu, lạm
dụng chất gây nghiện hoặc những mối quan hệ bị tổn thương. Do đó, bước
thứ nhất của việc giải quyết căng thẳng là cần phải có sự nhận thức của cá
nhân và tổ chức về stress, stress là vấn đề nổi cộm trong cuộc sống lao động
ngày nay - điều mà không ít người đã có lúc phải trải qua, bất kể họ đang ở
vị trí nào trong cơ quan, tổ chức và hơn thế nữa, stress không cần thiết phải
đối chiếu với sự kém cỏi của họ (nghĩa là, sự căng thẳng có thể xảy đến với
bất kỳ ai, không phân biệt người có năng lực, trình độ cao hay thấp).


Bước 2 và 3: Nhận dạng vấn đề/stress và cố gắng loại trừ hoặc thay
đổi nó
Ở mức độ cá nhân, việc nhận ra những căng thẳng có thể đạt được
bằng cách duy trì viết nhật kí căng thẳng. Bằng cách ghi lại những rắc rối
hằng ngày, các tình huống và những người có liên quan đến những việc gây
ra tai hoạ, qua một giai đoạn (ví dụ 4 tuần), những thông tin này sẽ biểu lộ
các dấu hiệu (chủ đề) có ý nghĩa quan trọng hoặc những mô hình căng thẳng
nói chung, giúp cho cá nhân nhận ra vấn đề rõ ràng. Nó cũng rất hữu ích nếu
cá nhân ghi lại cách mà bản thân đã đối phó lại với stress như thế nào với
những tình huống tại thời điểm đó, liệu kế hoạch có thành công trong cả thời
gian trước mắt và lâu dài hay không và cách thức để cá nhân vận dụng nó tốt

hơn.
Trên cơ sở những thông tin này, mỗi cá nhân có thể thay đổi hướng
triển khai kế hoạch hành động của mình như cách thức mà họ có thể hoặc là
triệt tiêu nguồn gốc gây stress, hoặc thay đổi hoặc làm dịu bớt căng thẳng.
Bước 4: Nếu vấn đề/stress không thể thay đổi được, khi đó phải tìm
cách ứng phó với nó
Có những sự căng thẳng nhất định mà không một cá nhân cũng không
một tổ chức nào có khả năng thay đổi được, nhưng có thể “ứng phó với nó”
theo nghĩa của ngôn từ truyền thống. Sự ứng phó này nằm trong mối quan hệ
với sự căng thẳng mà cấp độ 2 và 3 của sự can thiệp đóng một vai trò nhất
định. Đồng thời, điều này cũng quan trọng để nhận ra rằng không phải tất cả
căng thẳng đều do những tác động ở nơi làm việc hoặc bị gây ra bởi môi
trường làm việc. Những cơn khủng hoảng tài chính, sự tổn thất, khó khăn,
hôn nhân và những sự kiện khác trong cuộc sống cá nhân tạo ra căng thẳng,
những ảnh hưởng của điều này thường xảy ra ở nơi làm việc.


Bước 5: Giám sát và đánh giá kết quả
Giai đoạn cuối cùng trong quá trình giải quyết vấn đề có liên quan đến
việc đánh giá những giải pháp được tiến hành. Việc ghi lại hằng ngày những
rắc rối, căng thẳng có thể giúp cá nhân xem xét lại những kết quả chiến lược
ứng phó của mình. Tương tự như vậy, việc trắc nghiệm lại những căng thẳng
sẽ cung cấp vạch ranh giới nhờ đó mà việc giới thiệu những phương pháp kỹ
thuật để giảm bớt căng thẳng cho lần sau được thực hiện bởi tổ chức là rất có
giá trị. Nếu như có những sự tranh cãi, cung cấp cách giảm bớt căng thẳng
có ảnh hưởng lớn nhất. Điều này có ý nghĩa với việc tìm cách giải quyết rắc
rối trong căng thẳng thuộc về công việc.

Kết luận:
Trên một bình diện của hệ thống có thể ảnh hưởng đến những bình

diện khác. Mối liên quan giữa stress và sức khỏe cho thấy một hiệu quả
như thế. Stress không chỉ gợi lên những ứng phó về cảm xúc và hành vi,
mà còn dẫn đến những biến đổi sinh lý. Khi có một sự mất cân bằng liên
tục giữa những đòi hỏi đặt ra cho đương sự và khả năng ứng phó của
đương sự, các tác động tiêu cực về sinh lý có thể xảy ra.
Stress không nhất thiết là tiêu cực và chắc chắn không phải là yếu
tố quyết định sức khỏe duy nhất (hoặc quan trọng nhất). Stress không thể
tránh được. Nó là sản phẩm của mối tương giao giữa một cá thể với môi
trường sống. Nó là phần tàng ẩn trong một hệ thống mở. Stress thậm chí
còn có tính khích lệ và tạo nên sự tăng trưởng. Tuy nhiên, khi stress vượt
quá tiềm năng ứng phó của chúng ta, nó có thể gây ra những tác động tai
hại.


Sức khỏe của con người được xác định một cách phức tạp. Nó bị
ảnh hưởng thông qua các cơ chế tâm sinh lý gián tiếp mà ta gọi là stress.
Nó cũng chịu ảnh hưởng bởi các hành vi giúp tăng cường sức khỏe hoặc
gây tác hại cho sức khỏe, bởi các hành động và quyết định nhằm đáp ứng
với bệnh tật và việc điều trị bệnh. Các thông số tâm lý vì thế cũng có vai
trò quan trọng đối với sức khỏe.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×