Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Các khái niệm về ngôn ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.51 KB, 12 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các khái niệm về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của
loài người, phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội.
Ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, trong thời đại hiện
nay, nó là công cụ quan trọng nhất của sự trao đổi văn hoá giữa các dân tộc.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội, và là công
cụ tư duy của con người, Ngôn ngữ học có khía cạnh tâm lý học, ngôn ngữ có
vai trò nhiều nhân tố: xã hội, tâm lý, dân tộc...
Ngôn ngữ học tâm lý nghiên cứu những mối quan hệ qua lại giữa nhân
cách với cấu trúc chức năng của hd ngôn ngữ. Về một khía cạnh khá giữa nhân
cách với ngôn ngữ như yếu tố cấu thành hình thành thế giới của con người.
Qua nghiên cứu ngôn ngữ tâm lý học sẽ thấy được đặc điểm tâm lý của
một cộng đồng bản ngữ, và qua đó sẽ thấy được “trong ngữ nghĩa của mỗi ngôn
ngữ tự nhiên đều hàm chứa một cách nhìn thế giới của mỗi cộng đồng bản ngữ
đó đối với sự vật hiện tượng xung quanh họ”.
Ngôn ngữ tâm lý học phát hiện ra những đặc điểm và bản sắc tâm lý, bức
tranh thế giới quan của một cộng đồng bbm cả “thế giới nội quan” hay thế giới
bên ngoài.
“Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc”, qua ngôn ngữ mỗi cộng đồng bản
ngữ thể hiện được thế giới quan tâm linh của mình, đồng thời thế giới quan tâm
linh cũng làm ngôn ngữ phát triển, kho tàng kinh sách là một ví dụ điển hình về
điều này.
Thế giới quan tâm linh của người dân tộc thiểu số thể hiện qua ngữ nghĩa
ngôn ngữ của họ, thí dụ: thế giới quan tâm linh người Thái có: thế giới thần linh,
trong đó có tự nhiên thần và nhân thần, nhân thần là tổ tiên, hay cộng đồng
người tài giỏi có phép (được thờ cúng), thể hiện qua lễ cúng ma, cúng mà nhà,
ma cửa, ma nương... với các bài cúng ma, các câu cầu khấn, các lễ và văn tấu
của người Thái.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Thế giới quan tâm linh châu Âu không có tục thờ cúng tổ tiên, trong đạo
thiên chúa chỉ có cầu chúa mà khong cầu cúng ông bà tổ tiên, kinh sách giảng
đạo nhiều, các bài ca lễ trong nhà thờ, trong tiếng Anh có từ Christ (chúa trời),
hoặc các thánh (Saint), hoặc ma quỷ (ghost, monster...) mà không có các từ “tổ
tiên ông bà linh thiêng”, thiên binh, thiên tướng, bồ tát, diêm vương...
Văn hoá lễ hội phản ánh trong ngôn ngữ:
Phần lễ bao gồm các nghi thức tế tự, bùa chú, các bài khấn, kinh sách, vật
thiêng, không gian thiêng (chùa, nhà thờ, đền...), thầy cúng, ông đồng bà cốt...
- Thí dụ: “Số cô chẳng giàu thì nghèo, ngày 30 tết có thịt treo trong
nhà...”.
Phần Hội: đình, lễ hội, cưới xin, hội làng, đám rước, cỗ bàn.
“Miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, “người ơi người ở đừng về,
người về em nhớ... í a...”
Thế giới quan tâm linh của người Bana Tây Nguyên là “sống gửi thácvề”,
người đã chế cũng có cuộc sống, cần đồ vật, sinh hoạt cõi âm, nên họ có nhà mả,
lễ mở cửa mả, lễ đâm trâu và hết tang, tiễn người chết về với tổ tiên, do đó họ có
ngôn ngữ cả hát cúng tế trong lễ này, và ác ngôn ngữ hình thể: ăn mặc kỳ dị,
nhảy múa...
1. Thế giới quan riêng, cái thể hiện qua ngôn ngữ hệ cấu trúc (Structualism)
của cộng đồng bản ngữ
Hầu hết các ngôn ngữ khi phân tích cấu trúc đều có 3 thành phần chính: S
- V - Q - chủ ngữ động từ và vị ngữ, thí dụ Tôi - lên - gác, I go upstair gồm 3
thành phần tạo câu.
Cái tôi, cái bản sắc, cái chính luôn có mặt, là hạt nhân chính của câu
“nguyên tử luận”, về mặt Ngôn ngữ tâm lý học nó “nhấn mạnh mặt cá nhân
trong hành vi ngôn ngữ của con người”.
Cấu trúc từ mang tính âm dương, nó được “ý niệm hoá”, “phạm trù hoá”
một cách đối xứng: trên > < dưới, trần > < sàn, ngọn > < gốc, trời > < đát.
Thế giới quan được phạm trù hoá, sinh vật (cái, con) --> cái (bàn, hồ, cây)
và con (người, vật).

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngôn ngữ là tấm gương phản ánh văn hoá của mỗi dân tộc, các dân tộc
thiểu số của Việt Nam có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình trong sh cộng đồng
của họ, đồng thời họ cũng sử dụng Tiếng Việt để giao tiếp với cộng đồng người
Việt trên toàn quốc, đồng thời được cung cấp giáo dục, y tế, giải trí, thông tin
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng bằng chữ Quốc ngữ. Sự giao thoa
văn hoá ngôn ngữ này làm phong phú thêm cho nền văn hoá của người thiểu số,
đồng thời cũng làm thay đổi cuộc sống, kinh tế và vị thế của cộng đồng các dân
tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt anh em.
Có thể nói rằng “cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nước ta thực sự là một
cộng đồng song ngữ” - tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Kinh.
Bản sắc thế giới quan của cộng đồng dân tộc thiểu số vừa mang nét đặc
thù của nền văn hoá của dân tộc họ, đồng thời mang nét chung của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
Nền văn hoá của các dân tộc thiểu số được phổ biến và giới thiệu ra các
dân tộc khác, mang lại tự hào và đa dạng bản sắc văn hoá cho cộng đồng các
dân tộc Việt Nam: đàn - T-rưng, đàn nước, múa chăm, trang phục Thái trắng,
kèn lá.
2. Phản ánh của thế giới quan người Việt văn hoá trong phát âm và thơ ca
“Các nghiên cứu ngôn ngữ học khác nghiên cứu ngôn ngữ như một chủ đề
có sẵn, Ngôn ngữ tâm lý học nghiên cứu quá trình tạo sinh ra ngôn ngữ đó”.
Thế giới quan qua ngôn ngữ Việt cũng có phần đóng góp của các văn hoá
dân tộc thiểu số, thí dụ: trong ngôn ngữ Việt là ngôn ngữ thanh điệu, các tù binh
Chăm sau khi được cấp đất đã nói tiếng Việt “trại đi” vì tiếng Chăm là ngôn ngữ
không có thanh điệu, tạo thành những vùng ốc đảo thổ ngữ Việt lẫn lộn hệ thanh
điệu xung quanh Nà Nội.
Một ví dụ khác là một khảo sát về dân ca quan họ cho thấy các làng quan
họ gốc đều có quan hệ với người Chăm đã bị Việt hoá, dễ thấy âm nhạc của
người Việt chỉ có ngũ cung, trong khi quan họ lại có cả bán âm. Các sắc thái văn

hoá mà người Chăm đóng góp cho nền văn hoá ngôn ngữ Việt:Các điệu lý (Lý
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoài Nam, Lý con sáo, Lý ta lý, Lý ngựa ô, Lý thiên thai), những điệu hò: (Hò
mái đẩy, hò huế, hò bài chòi), (GS. Phạm Đức Dương).
Khi nghiên cứu quan trọngr tạo sinh phát âm, bao gồm ba cấp độ: 1- Có lý
do, có mục đích, có động cơ. 2- Lựa chọn từ ngữ. 3- Phát âm, hiện thực hoá lời
nói.
Quan trọngr có âm (anticulation) chuyển từ tư duy thành âm nói, là quan
trọngr tri giác, chuyển từ nghĩa đến âm từ (âm/chữ), mang tiêu chí nghĩa.
3. Đặc trưng và sự thể hiện cách nhìn thế giới của cộng đồng bản ngữ qua ý
nghĩa của từ
Ý nghĩa của từ là kết quả phán ánh hiện thực một cách đặc biệt thông qua
ý thức của con người.
Thông qua ý nghĩa của mình, từ thể hiện quan trọngr phản ánh trực tiếp,
cảm giác về thế giới.
Nét biểu hiện rõ nhất của đặc trưng thế giới quan của cộng đồng ngôn ngữ
qua ngôn ngữ là “ý nghĩa biểu trưng”.
Ví dụ: 1. Người Nhật dùng lá dương sỉ để biểu trưng cho sự mong mjốn
thành đạt, lá quýt biểu thị mong muốn lời nói người khác hóm hỉnh, ý nhị, lá
thông xanh biểu thị trường thọ.
2. Người Việt Nam lại cho rằng: Hoa huệ cho tang lễ, lá dương sỉ biểu
hiện quyền lực, hoa lan biểu hiện cho sự thanh bạch.
Ví dụ: Các câu ca dao trong tiếng Việt phản ánh mối quan hệ xã hội, nền
văn hoá, thế giới quan “triều đình trọng tước, nhà nước trong xỉ” - xỉ ở đây là
răng lợi-rụng răng - người già.
Hoặc nền thế giới quan nền văn hoá trồng lúa, nông nghiệp: “chồng cày,
vợ cấy, con trâu đi bừa”.
Trong ngôn ngữ tâm lý học, cấu trúc tâm lý của nghĩa là từ cấu trúc liên
tưởng, thí dụ: trong tiếng Việt, nói đến “bàn”, ta liên tưởng tới “ghế”, “học”

trong tiếng Anh: “man”, liên tưởng tới “woman”, “boy”, “girl”, “table-chair”.
4. Đặc trưng thế giới quan Việt Nam trong phạm trù hoá hiện thực và bức
tranh ngôn ngữ về thế giới
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự khác nhau về thế giới quan và văn hoá Dân tộc của mỗi nền dân tộc về
“bức tranh ngôn ngữ thế giới” đã được khác biệt hoá trong cách thể hiện của
mỗi ngôn ngữ khác nhau. Khác biệt giữa các trình độ văn hoá khác nhau.
Ví dụ: thanh lịch khác nhau giữa ngườithì nói: “trời rất đẹp”, “trời dẹp dã
man”, “trời đẹp lồng lộng”, “trời đẹp kinh dị”, “đẹp như tranh”.
ảnh hưởng của chế độ phong kiến Việt Nam, gần giống như hình mẫu
Trung Quốc “một chế độ vương quyền, không dựa vào thần quyền, theo nguyên
tắc gia trưởng phụ quyền cha truyền con nối”, “là đại gia đình mở rộng ra ngoài
xã hội”, do đó nó được phạm trù hoá trong ngôn ngữ, thí dụ: “gọi là quốc gia-
nhà nước” mà không gọi là “làng nước”.
Người ấn Độ không muốn nắm bắt được quan niệm thời gian từ quá khứ
đến tương lai bằng số lượng, ít sách viết có niên đại chính xá, là đất nước của
nền văn hoá tôn giáo” - nền nghệ thuật (văn hoá) phi ngôn từ đồ sộ - còn di sản
ngôn từ thì nhỏ hơn nếu so sánh với nó - Mác nói : “ấn Độ là nước không có lịch
sử”.
Bức tranh thế giới - world picture - trong tiếng Anh bao gồm các phạm trù
về từng cá nhân (persongôn ngữel), hay từng con người, vấn đề nhân bản
(human being), mở rộng ra là đơn vị gia đình (family unit), là hạt nhân của xã
hội (social nuclear) , và rộng hơn nữa: the ưorld, the earth, international
sociality, hay đi xa hơn: the sun, the moon, space, star & galaxy.
5. Đặc trưng thế giới quan của cộng đồng bản ngữ trong sự chuyển nghĩa và
biểu trưng
*Tính nhị nguyên bất đối xứng: “cùng một ký hiệu có một số chức năng,
cùng một ý nghĩa có thểđược biểu hiện bởi một số hay nhiều ký hiệu. Bấtkỳ một
ký hiệu nào cũng đều có tiềm năng là tự đồng âm và từ đông nghĩa một cách

đồng thời. Đây là một nguyên nhân của sự chuyển nghĩa của cá từ: Ví dụ: Tiếng
Anh có teach-teeth-title.
*Sự cải biến ngữ nghĩa: “là sự chuyển từ tên gọi có cấu trúc ngữ nghãi
này sang một tên gọi có cấu trúc ngữ nghĩa khác” điều này là cơ sở sáng tạo
quan trọng nhất của các nhà thơ và nhà văn.
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×