Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Mối quan hệ giữa thu nhập và điều kiện sinh hoạt của người dân nông thôn” ở xã ái quốc huyện nam sách tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.95 KB, 50 trang )

Mối quan hệ giữa thu nhập và điều kiện sinh hoạt của người dân nông
thôn” ở xã Ái Quốc - huyện Nam Sách - tỉnh Hải Dương

PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.Lời nói đầu.
Đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, xoá bỏ chế độ quan liêu bao cấp để
chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động dưới sự điều tiết
của Nhà nước, công cuộc đổi mới đã đem lại những kết quả rất đáng khích lệ đã
làm thay đổi bộ mặt đất nước trên hầu hết các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hoá ,
chính trị …
Tại Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX đã quyết định chiến lược
phát triển kinh tê xã hội của đất nước 10 năm đầu thế kỷ XXI: “ Chiến lược đẩy
mạnh CNH – HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”[8]. Mục tiêu đưa đất
nước ta đi lên và thoát khỏi một nước nông nghiệp để trở thành một nước công
nghiệp nhằm nâng cao đời sống cho người dân. Muốn đạt được điều đó thì mục
tiêu thu nhập của người dân phải được quan tâm hàng đầu.
Với chủ trương phát triển nền nông nghiệp bền vững, Đảng và Nhà nước ta
đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích sự phát triển kinh tế nông nghiệp
nông thôn, chính sách đã tác động một cách toàn diện và sâu rộng đến đời sống
kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư nước ta. Đảng tiếp tục đẩy mạnh quá trình
phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn là: “đa dạng hoá việc làm, ai giỏi nghề
nào thì làm nghề ấy, trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho từng hộ gia
đình” [8], từ đó đã tạo ra động lực cho người nông dân tự chủ trong công việc
của gia đình mình, xu thế tất yếu của con người là: khi thu nhập tăng thì cùng
với nó là các điều kiện sinh hoạt của con người trong gia đình ngày càng phong
phú và đa dạng hơn để đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi ngày càng cao của con
người… Ngôi nhà, các điều kiện sinh hoạt trong gia đình đã nói lên mức sống
của gia đình đó như thế nào. Một ngôi nhà tồi tàn, cũ nát thì cũng nói lên gia



đình đó có thu nhập thấp và kinh tế kém phát triển; còn một ngôi nhà sang trọng,
đựơc thiết kế kiếu cách, tiện nghi sinh hoạt đắt tiền thì có thể khẳng định rằng
gia đình có thu nhập khá giả. Từ đó, có thể thấy rằng thu nhập và điều kiện sinh
hoạt của người dân có mối quan hệ mật thiết với nhau, khi thu nhập tăng lên thì
con người sẽ cố gắng nâng cao mức sống của gia đình mình lên họ sẽ đầu tư vào
xây dựng nhà cửa, mua sắm tiện nghi sinh hoạt… trong gia đình.
Xã Ái Quốc thuộc tỉnh Hải Dương đang nằm trong quá trình đô thị hoá,
dưới sức ép của các KCN thì điều kiện sản xuất, sinh hoạt, thu nhập của người
dân đã có sự thay đổi nhanh chóng. Vì vậy đời sống, điều kiện sinh hoạt của
người dân nơi đây đã và đang chuyển mình cho phù hợp với mức thu nhập của
gia đình mình. Điều kiện vật chất và tinh thần thay đổi như thế nào? Thông qua
phân tích mối quan hệ giữa thu nhập và điều kiện sinh hoạt của người dân nơi
đây sẽ cho chúng ta cách nhìn tổng quan hơn về vấn đề này, đó cũng chính là lý
do tôi chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa thu nhập và điều kiện sinh hoạt của
người dân nông thôn” ở xã Ái Quốc - huyện Nam Sách - tỉnh Hải Dương.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Để thực hiện nội dung nghiên cứu liên quan đến việc tìm hiểu mối
quan hệ giữa thu nhập và điều kiện sinh hoạt của người dân, tôi đặt ra một số
mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Thứ nhất, tìm hiểu mối quan hệ giữa thu nhập và điều kiện sinh hoạt
của người dân.
Thứ hai, tìm hiểu sự đầu tư cho điều kiện sinh hoạt của hộ gia đình có
mức thu nhập khác nhau thì có sự khác nhau như thế nào.
Thứ ba, từ đó đưa ra một số kết luận và khuyến nghị.
3 . Đối tượng, khách thể, phạm vị và mẫu nghiên cứu:
3.1 Đối tượng nghiên cứu.
Trên cơ sở đưa ra tính cấp thiết của đề tài nêu ở trên, đối tượng của đề
tài được xác định đó là việc chỉ ra mối quan hệ giữa thu nhập và điều kiện
sinh hoạt của người dân nông thôn.
3.2 Khách thể nghiên cứu:



Các hộ gia đình nông thôn tại xã Ái Quốc- huyện Nam Sách - tỉnh Hải
Dương.
3.3 Phạm vi nghiên cứu:
3.2.1 Phạm vi thời gian:
Cuộc khảo sát về thay đổi đời sống kinh tế - xã hội của người dân
nông thôn ở xã Ái Quốc( tháng 5- 2007)
3.3.2 Phạm vi không gian:
Tại xã Ái Quốc - huyện Nam Sách - tỉnh Hải Dương.
3.3.3. Mẫu nghiên cứu:
Báo cáo được lấy một phần để nghiên cứu từ kết quả khảo sát thực tế
với 819 hộ gia đình nông thôn tại xã Ái Quốc - huyện Nam Sách - tỉnh Hải
Dương của k49 xã hội học, với phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên.
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn:
4.1. Ý nghĩa khoa học:
Trong nghiên cứu này tôi đã sử dụng một số khái niệm, thuật ngữ , lý
thuyết của xã hội học, qua kết quả nghiên cứu tôi hy vọng góp phần khẳng
định thêm các lý thuyết xã hội học, nhất là lý thuyết xã hội học kinh tế, lý
thuyết xã hội học gia đình, lý thuyết xã hội học nông thôn…
Tìm hiểu về mối quan hệ giữa thu nhập và điều kiện sinh hoạt của
người dân sẽ giúp cho chúng ta thấy được sự thay đổi đời sống của người dân
nông thôn khi thu nhập tăng lên, vì vậy mà điều kiện sinh hoạt của người dân
theo đó cũng ngày càng được tăng lên.
4.2.Ý nghĩa thực tiễn.
Trên cơ sở xem xét và phân tích những kết quả thu được sau thời gian
nghiên cứu đã cho chúng tôi có cái nhìn tổng quát về thu nhập cũng như điều
kiện sinh hoạt của người dân nơi đây, để từ đó tôi có thể đánh giá được mức
sống của người dân nơi đây, có cái nhìn khách quan hơn về nguồn thu nhập
của người dân ở xã Ái Quốc và cho chúng ta biết được mức đầu tư cho sinh

hoạt của các hộ gia đình có sự khác nhau. Từ đó cho chúng ta cái nhìn chính


xác về cơ cấu nguồn thu nhập của các hộ gia đình ở nông thôn và sự đầu tư
cho điều kiện sinh hoạt cho của các hộ gia đình nông thôn nói chung và các
hộ gia đình ở xã Ái Quốc nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu.
5.1 Phương pháp nghiên cứu cụ thể.
5.1.1. Phương pháp phân tích tài liệu.
Để thấy được mối liên hệ giữa thu nhập và điều kiện sinh hoạt của các
hộ gia đình ở xã Ái Quốc. Thu nhập là vấn đề rộng lớn nó bao quát lên nhiều
vấn đề khác nữa trong đó có điều kiện sinh hoạt, vì vậy tôi đã sủ dụng
phương pháp phân tích tài liệu nhằm mang lại hiệu quả cao trong nghiên cứu.
-Báo cáo đã sử dụng tài liệu sau:
+Báo cáo tình hình kinh tế xã hội, văn hoá giáo dục, y tế củ UBND xã
Ái Quốc - Nam Sách - Hải Dương.
+Một số báo cáo thực tập của sinh viên khoa xã hội học các khoá
trước.
+Các tạp chí xã hội học liên quan.
+Số liệu đã xử lý của 819 bảng hỏi do tập thể sinh viên k49 khoa xã
hội học đã điều tra tại xã Ái Quốc.
5.1.2 Phương pháp phỏng vấn.
5.1.2.1. Phỏng vấn bằng bảng hỏi.
Báo cáo thực tập này được lấy một phần từ kết quả nghiên cứu của tập thể
k49 xã hội học qua khảo sát thực tế tại xã Ái Quốc - Nam Sách - Hải Dương.
5.1.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu.
Được tiến hành phỏng vấn với 5 hộ gia đình tại xã Ái Quốc – Nam
Sách - Hải Dương. Phỏng vấn sâu nhằm có thêm thông tin sâu hơn mà ở
trong bảng hỏi chưa khai thác được nhằm phục vụ cho đề tài. Khi phỏng vấn
sâu tôi có tiến hành so sánh giữa các hộ gia đình ở trong xóm và các hộ ngoài

mặt đường về thu nhập, nguồn thu nhập, điều kiện sinh hoạt của họ có khác
nhau không, những gia đình có nghề nghiệp khác nhau thì mức thu nhập của
họ khác nhau như thế nào và sự đầu tư cho điều kiện sinh hoạt trong gia đình


họ có sự khác nhau ra sao. Đồng thời tôi cũng sử dụng các phỏng vấn sâu của
các bạn cùng lớp khi có liên quan đến đề tài nghiên cứu này.
5.1.3. Phương pháp quan sát.
Tôi tiến hành quan sát về nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt … của các hộ
gia đình.
Sử dụng phương pháp quan sát làm cho kết quả nghiên cứu được sát
thực và thu được thông tin đa dạng hơn.
5.1.4. Phương pháp so sánh.
So sánh về thu nhập, các mức thu nhập của các hộ gia đình làm nghề
nghiệp khác nhau có sự khác nhau như thế nào, điều kiện sinh hoạt của người
dân ở những gia đình có thu nhập cao và những gia đình có thu nhập thấp.
6. Giả thuyết nghiên cứu.
Trang thiết bị, tiện nghi sinh hoạt của các hộ gia đình phụ thuộc chặt chẽ
vào mức thu nhập của họ.

7.Khung lý thuyết.


Điều kiện kinh tế xã hội

Các nguồn thu nhập

Điều kiện sinh hoạt



PHẦN II. NỘI DUNG CHÍNH
I. cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.
1. Cơ sở lý luận.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện
chứng ( CNDVLS và CNDVBC).
CNDVLS và CNDVBC là cơ sở lý luận cơ bản và là nguyên tắc chung
cho mọi khoa học nói chung cũng như khoa học xã hội học nói riêng. Vận
dụng tổng hợp những lý luận này chúng tôi tuân theo các nguyên tắc sau.
-Những hiện tượng xã hội phải được xem xét trong quan hệ biện chứng
với nhau.
-Vận dụng cách tiếp cận của chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét các
vấn đề xã hội, cũng như hiện tượng nghiên cứu trong hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của từng địa phương. Theo quan điểm này cần phải xem xét giữa thu
nhập và điều kiện sinh hoạt có mối quan hệ như thế nào trong bối cảnh cụ thể
của từng địa phương.
Phương pháp luận duy vật biện chứng xem xét các sự vật, hiện tượng
không chỉ dừng lại ở bên ngoài mà còn đi sâu vào bản chất bên trong. Trong
bài làm này tôi không chỉ nghiên cứu xem thu nhập của người dân nơi đây
như thế nào, tiện nghi sinh hoạt trong gia đình họ có đầy đủ không, tôi còn đi
tìm hiểu xem thu nhập có quyết định gì đến điều kiện sinh hoạt của người
dân nơi đây
-Đồng thời cũng cho thấy nguyên nhân dẫn đến sự phân tầng xã hội.
1.2. Các lý thuyết áp dụng.
*Thuyết chức năng cấu trúc của Rorbert Merton
Merton đã phát triển khái niệm sự cân bằng mạng lưới(net balance),
ông đã giúp trả lời câu hỏi rằng chức năng tích cực có nhiều tác dụng hơn các
phản chức năng không, hoặc ngược lại. [8]
Ông muốn nói đến kết quả hoạt động có thể đo được, có sự hợp lý
không?



Merton đã giới thiệu khái niệm về các chức năng biển hiện(manifest)
và chức năng tiềm ẩn( latent), hiểu một cách đơn giản các chức năng biểu
hiện là các chức năng được dự tính, còn chức năng tiềm ẩn là các chức năng
không được dự tính, phân tích xã hội học phải vén mở ra các hệ quả ngoài dự
kiến – đó là một vấn đề cơ bản của xã hội học.Vì vậy, khi phân tích mối quan
hệ giữa thu nhập và điều kiện sinh hoạt của người dân sẽ cho ta thấy được sự
đầu tư của những hộ gia đình vào điều kiện sinh sống của gia đình mình có
phù hợp hay không?
*Cách tiếp cận lý thuyết phân tầng xã hội của Max Weber.
Theo Maxr Weber, ông đưa ra quan điểm 3 chiều về sự phân
tầng: Giai cấp, quyền lực, Đảng phái.[10]
Sự phân chia giai cấp bắt nguồn không chỉ từ sự kiểm soát hay không có quyền
kiểm soát tự liệu sản xuất mà còn có từ những khác biệt không liên quan trực
tiếp gì với tài sản. Những nguồn lực đó bao gồm kỹ năng, kỹ sảo và bằng cấp,
tức trình độ chuyên môn và tác động mạnh đến các loại công việc mà người ta
có thể kiếm được. Cái mà Weber gọi là “ cơ may cuộc đời
” cá nhân tức là cơ may có được những gì đang muốn, tránh cái không đáng
muốn. Trong các nhóm xã hội về uy tín mà họ có với những người khác. Vi thể
biểu hiện qua phong cách sống của con người. Tất cả những dấu mốc và biểu
trưng vi thể như nhà cửa, quần áo, nghề nghiệp…để góp phần tạo lên vi thể xã
hội của cá nhân trong mắt người khác. Những người có cùng vị thế tạo lên một
cộng đồng trong đó người ta có ý thức mạnh mẽ về bản sắc chung. Thường thì
việc có tài sản tạo ra vi thể cao nhưng điều đó không phải bao giờ cũng đúng mà
có nhiều ngoại lệ. Công trình của Weber cho thấy ngoài giai cấp, nhiều chiều
cạch khác của sự phân tầng cũng ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới cuộc sống con
người. Ông chú ý đến sự tác động qua lại phức giữa giai cấp, vị thế và đảng phái
với tư cách là những khía cạch riêng của sự phân tầng.
Như vậy với lý thuyết này chúng ta sẽ kiểm soát xem các yếu tố vốn kinh tế,
nghề nghiệp ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của người dân như thế nào? khả



năng tạo ra sự khác biệt của những nhóm có thu nhập khác nhau và khả năng tạo
ra sự khác biệt địa vị kinh tế và sự đầu tư cho điều kiện sinh hoạt của các hộ gia
đình có thu nhập khác nhau như thế nào như thế nào?
*Theo lý thuyết của Max và Anghen về quy luật tích luỹ.
“Quy luật tích luỹ sẽ dẫn đến hiện tượng tích luỹ giữa người giàu và
người nghèo trong xã hội” [3]
Người nghèo vốn ít, năng lực kém, tư liệu sản xuất ít dẫn đến quản lý
kém, sản xuất kém hiệu quả, thua lỗ do đó không thu hút được tư liệu sản
xuất nên sự đầu tư cho phương tiện sinh hoạt trong gia đình chưa được đầy
đủ.
Người giàu có vốn, có kiến thức, kinh nghiệm, biết cách quản lý, có tư
liệu sản xuất nên có hiệu quả do đó thu hút được nhiều tư liệu tư liệu sản xuất
nên việc đầu tư cho các phương tiện sinh hoạt đầy đủ hơn, phong phú hơn.
*Lý thuyết biến đổi xã hội.(BĐXH)
-Lý thuyết BĐXH chỉ ra rằng, mọi xã hội cũng giống như tự nhiên
không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ là sự ổn định bên ngoài, còn
trên thực tế nó không ngừng biến đổi ở bên trong bản thân nó.Do đó, bất cứ
xã hội nào trong bất cứ nền văn hoá nào thì nó luôn biến đổi. Mọi sự biến đổi
trong xã hội ngày nay càng được thể hiện rộng hơn.
-Con người xã hội – là một đơn vị cơ bản của xã hội, với tư cách là
chủ thể hành động xã hội, nó luôn biến đổi từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi.
-Các nhà xã hội học đã đưa ra định nghĩa khác nhau về biến đổi xã hội:
“Đó là một quá trình qua đó những khuôn mẫu hành vi xã hội, quan hệ xã
hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được biến đổi theo
thời gian”. [10]
T ốc độ biến đổi xã hội được xem như tiêu chuẩn để phân loại xã hội.
Có những biến đổi xã hội diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng cũng có những
biến đổi xã hội diễn ra trong thời gian dài.

2. Cơ sở thực tiễn.


2.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Có thể khẳng định rằng nghiên cứu về vấn đề thu nhập có rất nhiều nhà
nghiên cứu và các tổ chức xã hội quan tâm, đồng thời nó cũng là đối tượng quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu xã hội học. Ở nước ta từ khi mở cửa nền kinh tế
thị trường thì vấn đề nghề nghiệp đang có sự chuyển biến lớn: Nghề nghiệp
được đa dạng thì dẫn đến thu nhập của các hộ gia đình có sự khác nhau, từ thu
nhập khác nhau mà từ đó dẫn đến mức sống của các hộ gia đình cũng khác nhau,
điều đó cũng cho ta thấy sự phân tầng xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc.
Trong cuốn “ Vài nét về thực trạng và cơ cấu xã hội lao động nghề nghiệp
ở đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ mới” của tác giả Lê Phương - Tạp chí xã hội
họ số 4 năm 1996 cũng đã nói lên nghề nghiệp khác nhau thì dẫn đến nguồn thu
nhập cũng khác nhau.
Trong cuốn “ Vấn đề tạo việc làm tăng thu nhập nâng cao địa vị người phụ
nữ hiện nay” của tác giả Lê Thi - NXBKHXH 1991, cũng nói đến sự biến đổi
nguồn thu nhập thay đổi khi việc làm thay đổi và diễn đến mức sống của người
dân cũng thay đổi.
Đề tài này tôi nhằm đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về mối quan hệ giữa thu
nhập và điều kiện sinh hoạt của các hộ gia đình nông thôn. Xem mối quan hệ
giữa thu nhập và điều kiện sinh hoạt của người có sự khác nhau như thế nào
giữa những hộ gia đình làm những nghề nghiệp khác nhau có điều kiện sinh hoạt
khác nhau như thế nào.Từ đó đưa ra những kết luận và những khuyến nghị cho
vấn đề nghiên cứu này.
2.2. Các khái niệm công cụ.
2.2.1.Gia đình
Gia đình là một nhóm xã hội có đặc điểm cư trú chung và giống nhau về
huyết thống, mỗi gia đình đều có một hoạt động kinh tế chung là nhằm thoả mãn
nhu cầu và phúc lợi vật chất cho các thành viên trong gia đình nhằm tái tạo sức

lao động cũng như thoả mãn những nhu cầu văn hoá tinh thần của gia đình và
chi phí sản xuất. [6]
( Tống Văn Chung – XHH nông thôn, tr 227)


2.2.2. Hộ gia đình
Hộ gia đình là một khái niệm chỉ một hình thức tồn tại của một nhóm xã
hội lấy gia đình làm nền tảng,là một tổ chức kinh tế, là một đơn vị hành chính
địa lý. Nói một cách khác, hộ gia đình bao gồm những người có quan hệ hôn
nhân hay ruột thịt, có quỹ chi chung. [6]
*Ở nông thôn,theo tiêu chí nghề nghiệp có thể chia ra thành 3 loại:
+ Hộ gia đình thuần nông: là những hộ gia đình có thu nhập từ lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp, ngoài ra họ không có nguồn thu nào từ những nghành nghề
khác.
+ Hộ gia đình phi nông nghiệp: là những hộ gia đình nền kinh tế chủ yếu
dựa vào các khoản thu không từ nông nghiệp.
+ Hộ gia đình hỗn hợp: là những hộ gia đình nguồn thu từ nông nghiệp còn
có nguồn thu khác không từ nông nghiệp.
(Th.S Tống Văn Chung- NXB HN 1998)
2.2.3 Nông thôn:
Nông thôn là một phân hệ xã hội có lãnh thổ xác định hình thành từ lâu
trong lịch sử có đăc trưng là sự thống nhất của môi trường nhân tạo với các điều
kiện địa lý - tự nhiên ưu trội, với kiểu loại xã hội phân tán về mặt không gian. Ở
nông thôn loại hình hoạt động lao động kém đa dạng so với đô thị, tính thuần
nhất về nghề nghiệp và xã hội cao hơn. Nông thôn và đô thị hợp lại thành chỉnh
thể xã hội và lãnh thổ của cơ cấu xã hội. [6]
( Tống Văn Chung – XHH nông thôn,tr 115)
22.4.Thu nhập:
Theo “Đại từ điển kinh tế thị trường” thì “ Thu nhập của người lao động
được biểu hiện bằng số tiền tệ ( tiền, hiện vật, hoặc dưới các dạng khác được

quy ra tiền) của người lao động thu nhập được bình quân trong một khoảng thời
gian nhất định( ngày, tháng, năm)”.
2.2.5. Mức thu nhập:


Mức là cái được xác định về mặt nhiều hoặc ít làm căn cứ để đạt tới trong
hành động, để làm chuẩn đánh giá so sánh.
Như vậy, có thể hiểu mức thu nhập là các khoản thu nhập được định mức,
quy đổi ra tiền tệ hoặc sản phẩm so sánh lẫn nhau. Mức thu nhập thường được
đánh giá cao hay thấp.

II. Kết quả nghiên cứu
1.

Tổng quan về địa bàn nghiên cứu.

1.1. Vị trí địa lý
Xã Ái Quốc là một xã đồng bằng nằm ở phía Đông Nam huyện Nam Sách
tỉnh Hải Dương. Ái Quốc có diện tích đất tự nhiên là 818,9 ha trong đó đất sản
xuất nông nghiệp là 450 ha, đất canh tác dành cho khu công nghiệp là 133,1 ha.
Trên địa bàn có 1 khu công nghiệp Nam Sách và 1 cụm công nghiệp Ba Hàng,
nơi có quốc lộ 5 tuyến Hà Nội – Hải Phòng đi qua và quốc lộ 183 đi Quảng
Ninh. Địa bàn xã nằm giữa tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh.
[1]
Phía Đông giáp xã Lai Vu huyện Kim Thành, phía Tây giáp xã Quyết
Thắng huyện Thanh Hà, phía Nam giáp thành phố Hải Dương và phía Bắc
giáp xã Đồng Lạc huyện Nam Sách.
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, cán bộ và nhân dân xã Ái Quốc đã
viết lên một trang sử hào hùng, trong lịch sử chống giặc ngoại xâm ở 2
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là một vị trí chiến lược quan

trọng và trụ thép kiên cường vì đó ngày 31 tháng 5 năm 1957 xã Ái Quốc
vinh dự được đón Bác Hộ về thăm và ngày 3 tháng 9 năm 1973 được
Chính phủ phong tặng danh hiệu “anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân “.
Là một xã đầu tiên được Bác Hồ về thăm và Chính phủ phong tặng danh
hiệu “anh hùng lực lượng vũ trang” [1] sớm nhất tỉnh Hải Dương cũ, cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước xã có 1650 thanh niên lên đường bảo vệ
Tổ quốc có 205 liệt sĩ đã hy sinh, 145 thương bệnh binh và 6 bà mẹ Việt
Nam anh hùng.
1.2. Về giáo dục:


Xã có 4 trường học mầm non, cấp I cấp II cấp III đều có phòng học kiên cố
cao tầng, riêng trường cấp I và cấp II đã đạt danh hiệu chuẩn quốc gia về giáo
dục giai đoạn 2000-2006 đảm bảo dạy và học tốt cho con em địa phương.
1.3. Về y tế :
Trạm y tế xã đã có bác sĩ làm trạm trưởng, trạm đã thực hiện đủ tiêu chuẩn.
Năm 2006 vừa qua trạm y tế xã Ái Quốc đã được công nhận trạm chuẩn quốc
gia về y tế đảm bảo tốt công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu
cho nhân dân , chủ động tuyên truyền và phòng chống dịch có hiệu quả cao,
đảm bảo các chương trình y tế quốc gia.
1.4. Về sản xuất nông nghiệp:
Bình quân năng suất lúa đạt 127 tạ/ha lương thực bình quân đầu người là
495kg/người/năm.
1.5. Về văn hóa:
xã đã thực hiện tốt chế độ xã hội hóa văn hóa ở các khu dân cư, thúc đẩy
phong trào văn hóa, văn nghệ thể dục, thể thao phong trào toàn dân xây dựng
đời sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng văn hóa, hiện xã có 3/10 thôn được
danh hiệu làng văn hóa.
1.6. Về dân số:
Xã đã thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa gia đình, hạ thấp tỷ lệ sinh và tỷ lệ

sinh con thứ 3, năm 2006 chỉ còn 0,8% hộ gia đình sinh con thứ 3, hàng năm
đều hoàn thành chỉ tiêu cấp trên giao.
1.7. Về lao động tại khu công nghiệp:
Hiện xã có 1760 nhân khẩu lao động trong khu công nghiệp, độ tuổi từ 18 đến
36, thu nhập bình quân đầu người 12.600.000 đ/người/năm, tổng thu nhập năm
2006 bình quân là 22 tỷ 176 triệu đồng.
1.8. Về giao thông thủy lợi:
Địa bàn xã đã có 98% bê tông hóa đường làng, ngõ xóm, các đường mương
dẫn nước sản xuất đều được kiên cố hóa những trục chính để dẫn nước sản
xuất.
1.9. Trật tự xã hội:


Ở nơi đây vấn đề trật tự xã hội đang là vấn đề bức xúc cho nhân dân
đây:
+ An ninh trật tự phức tạp hơn.
+ Tệ nạn xã hội gia tăng.
2. Sơ lược về thu nhập và điều kiên sinh hoạt của người dân xã Ái
Quốc.
2.1.Sự chuyển đổi thu nhập của người dân so với năm 2003 ở xã Ái
Quốc.
Với chiến lược đẩy mạnh CNH- HĐH trong công cuộc đổi mới đất
nước bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đó là sự tăng trưởng
và phát triển trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội, kinh tế, giáo dục, y tế, chính
trị… đặc biệt là kinh tế đã có sự chuyển mình rõ rệt. Cùng với sự phát triển
chung của cả đất nước, cũng như các vùng nông thôn khác, xã Ái Quốc đã và
đang từng bước khắc phục đói nghèo, đời sống của người dân ngày càng
được cải thiện và nâng cao.Theo kết quả nghiên cứu, số người được đánh giá
mức sống của các hộ gia đình hiện nay so với 2003 là đã tăng lên rất nhiều.
Theo một số ý kiến của người dân thì “ cuộc sống gia đình khá hơn

trước, gia đình cũng có các tiện nghi để phục vụ cuộc sống như: tivi, tủ lạnh,
xe máy, các đồ dùng khác. Không như trước đây cái gì cũng thiếu, con cái
thì khổ sở, vất vả làm suốt ngày. Bây giờ thì đã thay đổi khá hơn trước”
( Nữ - 44T – buôn bán)
Đó là các cuộc phỏng vấn của chúng tôi và người dân đã nói rất nhiều
về cuộc sống của các hộ gia đình trong xóm và về gia đình mình. Điểm nổi
bật được người dân nói đến nhiều là cuộc sống thay đổi, mức sống cao hơn
trước không còn túng thiếu như trước nữa.“ Ngày trước gia đình chị khó
khăn lắm chỉ ở nhà trồng lúa thôi, mà có năm chẳng đủ thóc ăn đấy nhưng
mấy năm nay chị cũng đi buôn bán kiếm thêm được chút tiền tiêu, chồng chị
thì vào Công ty Cám Vina làm nên gia đình cũng khá giả hơn, đấy gia đình


chị đã mua được cái tivi màu 21in vào năm ngoái đấy, năm nay anh chị đang
góp tiền để mua lấy cái xe máy để đi cho tiện khi có việc cần đi xa”.
( Nữ, 34 tuổi – buôn bán)
Trong 5 ngày thực tập tại địa bàn xã Ái Quốc, chúng tôi đã đi tìm hiểu
và tiến hành quan sát thấy được cuộc sống của người dân nơi đây rất khá về
cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà cửa, phương tiện đi lại, các đồ dùng trong gia
đình,… để phục vụ cuộc sống và dùng trong sinh hoạt hàng ngày của mỗi hộ
gia đình.


Bảng 1: Tổng thu nhập của hộ gia đình trong năm qua (triệu/ hộ/
năm)
Tổng thu của hộ
Dưới 10 triệu
Từ 10 - 20 triệu
Từ 20 - 30 triệu
Từ 30 - 40 triệu

Từ 40 - 50 triệu
Trên 50 triệu
Tổng
Nhìn chung mức thu nhập của các hộ

%
9,2
24,2
21,2
15,4
8,4
21,6
100,0
gia đình nông thôn nơi đây còn

thấp. Mặc dù, xã Ái Quốc nằm trên quốc lộ 5 có những điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế và cơ cấu nghề nghiệp khá đa dạng nhưng người dân ở đây
vẫn chưa biết phát huy lợi thế có. Mức thu nhập của người dân còn nhiều hạn
chế, thu nhập trung bình của hộ gia đình ở 35.437.000đồng/ hộ/ năm, trung
bình thu nhập của hộ gia đình là tương đối cao nhưng thực tế số hộ có thu
nhập như vậy không phải là cao vì nhìn vào bảng số liệu ta thấy số gia đình
có thu nhập dưới 10 triệu chiếm 9,2%, từ 10 - 20 triệu chiếm 24,2%, từ 20 30 triệu chiếm 21,2% nhưng cơ cấu thu nhập của người dân đã đa dạng và
mở rộng hơn đó chính là điều kiện thuận lợi để nâng cao thu nhập cho người
nơi đây.
Đặc biệt trong những năm gần đây xã Ái Quốc và các vùng lân cận
khác đã có những thuận lợi để phát triển khi các KCN lần lượt được xây
dựng ở đây như: Nhà máy cám Vina, KCN Nam Quang… đã tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân có cơ hội việc làm mới và từ đó nâng cao thu nhập
của người dân.
Đối với những người dân có đầu óc nhanh nhạy trong làm ăn kinh doanh

thì họ luôn tận dụng và nắm bắt được thời cơ đến với họ, chính vì vậy mà thu
nhập của những hộ gia đình làm kinh doanh cao hơn những gia đình làm nghề
khác và những tiện nghi sinh hoạt được sử dụng trong gia đình họ cũng tiện nghi
và đẹp đẽ : “ Thời buổi này phải nhanh nhạy trong làm ăn mới kiếm được tiền
chứ. Khi đã kiếm được tiền thì mức sống của gia đình chắc chắn sẽ tăng lên,


những năm trước gia đình bác chỉ buôn bán nhỏ kinh tế khó khăn lắm, nhà thì
cấp bốn, tiện nghi trong nhà chẳng có gì đắt tiền cả, bây giờ anh em cho vay ít
vốn để làm ăn nên bây giờ cháu nhìn đấy gia đình bác cũng chẳng thua kém ai”.
(Nam - 50 tuổi, kinh doanh)
Thu nhập của các hộ gia đình trong xã có sự khác nhau giữa các gia
đình làm nông nghiệp, gia đình kinh doanh, gia đình buôn bán và gia đình
CBCNVC. Mức thu nhập khác nhau giữa các hộ gia đình thì mức sống của
họ cũng khác nhau vì vậy điều kiện sinh hoạt của các hộ gia đình cũng có sự
khác nhau. Nhưng đó chỉ mang tính tương đối.
Bảng 2: So sánh thu nhập hiện nay với năm 2003
So sánh thu nhập với năm 2003
Tăng
Như cũ
Giảm
Làm nông nghiệp
12,5
10,4
10,9
Buôn bán nhỏ
8,4
3,0
0,7
Tiểu TCN

1,4
0,5
0,2
Làm dịch vụ
6,3
1,0
0,0
Làm thuê công ty
32,8
9,3
0,9
Làm tự do
37,8
14,2
3,5
Thuỷ sản
8,4
6,0
1,3
Lương hưu
12,3
4,4
0,1
Khác
7,3
4,6
0,5
Cùng với sự chuyển nhượng đất nông nghiệp cho Nhà nước để xây
Thu nhập


KCN thì thu nhập từ trồng lúa giảm đi đáng kể, theo như cuộc điều tra của
chúng tôi về: so sánh thu nhập hiện tại với với năm 2003 của các hộ gia đình
ở đây thì tỷ lệ thu nhập từ làm nông nghiệp giảm đi nhiều đến tận 10,9% hộ
gia đình trả lời là thu nhập từ trồng lúa đã giảm, còn đối với những gia đình
có thu nhập từ trồng lúa tăng lên thì hầu như đó là những gia đình không bị
chuyển giao đất cho KCN và còn do họ đã tăng gia sản xuất của những hộ
gia đình đã bỏ ruộng không làm nghề nông nữa mà chuyển sang làm nghề
khác nhưng thu nhập từ nông nghiệp của những hộ gia đình tăng lên so với
2003 là không cao chỉ có 12,5%. Đây cũng là điều phù hợp với xu thế của
các vùng nông thôn đang từng ngày, từng giờ chuyển đổi mình để phu hợp


hơn với xu thế của thời đại: nông nghiệp giảm dần thay vào đó là công
nghiệp và dịch vụ đang ngày càng tăng lên.
Khi công nghiệp đến đây thì thu nhập từ trồng hoa màu; trồng cây
cảnh; cây ăn quả đang giảm dần, thay vào những diện tích các loại cây trồng
trên thì số đất đó được dùng vào để xây nhà trọ; các dịch vụ ăn uống; dịch vụ
vui chơi giải trí… thu nhập từ các loại hình này đang ngày càng tăng lên.
Đối với loại tiền từ lương thưởng, chế độ chính sách, phụ cấp, lương
hưu do Nhà nước đã thay đổi chế độ phụ cấp và tăng tiền lương lên nên
khoảng thu nhập từ các nguồn này cũng tăng lên theo.
Một điều chúng tôi thấy rõ sau khi các KCN được xây dựng ở đây thì
nghề nghiệp các người dân nơi đã đa dạng hơn rất nhiều những người làm
công nhân; làm thuêc cho công ty,… đã ngày càng tăng lên và thu nhập của
họ cũng theo đó tăng lên, từ đó mức sống của người dân đã ngày càng thay
đổi nhiều so với trước.
Thu nhập của người dân tăng lên đã làm cho bộ mặt của xã Ái Quốc đã
thay đổi đi rất nhiều đời sống của người dân ngày càng được nâng cao và
theo đó những tiện nghi sinh hoạt, những ngôi nhà sang trọng và đẹp đẽ đã
và đang được xây dựng nhưng đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự phân hoá

giàu nghèo ở đây bởi đối với những gia đình có vốn, đầu óc kinh doanh và
khả năng nhạy bén trong thời buổi kinh tế nên đã nâng mức thu nhập của
mình cao lên, còn đối với những gia đình có vốn ít, ngại thay đổi và tâm lý
cộng đồng nông thôn nên nguồn thu của gia đình không những nâng lên mà
còn giảm xuống đáng kể vì sau khi mất ruộng họ không biết làm gì để nâng
mức thu nhập của gia đình mình lên.
2.2. Điều kiện sinh hoạt của người dân ở xã Ái Quốc
2.2.1 Về nhà ở.
Xã Ái Quốc có điều kiện thuận lợi là nằm sát với đường 5, các KCN
đã được xây dựng và đi vào hoạt động đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
người dân trong việc nâng cao thu nhập của mình. Qua quan sát của chúng
tôi thì ở đây đang có sự chuyển mình rõ rệt, nhà cửa cao tầng đã và đang


mọc lên san sát. Có thể thấy rằng qua cái nhìn bề ngoài thì thấy đây là một
vùng phát triển tương đối khá: “ cuộc sống nơi đây đã thay đổi, mức sống
của người dân cao hơn trước, không chỉ thu nhập cao mà đời sống vất chất –
tinh thần đều thay đổi. Nhà cửa khang trang to đẹp hơn…”
(Bác N.T.H – 50 tuổi )

Bảng 3: Loại nhà ở của người dân trước và sau 2003
Loại nhà

Trước 2003

Sau 2003

% chênh lệch

Nhà tranh


1,5

0,4

-1,1

Nhà mái ngói

36,3

26,4

-10,1

Nhà mái bằng

50,7

53,8

+3,1

Nhà tầng

11,5

19.3

+7,8


Biệt thự

0

1,0

+1,0

Tổng

100,0

100,0

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy loại nhà tranh và nhà mái ngói giảm từ
2003 đến này, tỷ lệ nhà tranh của các hộ gia đình giảm xuống còn 1,1%; nhà
mái ngói giảm xuống còn 10,1 %. Số liệu này cho ta thấy mức sống của các
hộ gia đình ở đây đã thay đổi rất nhiều, đời sống người dân ngày càng được
cải thiện và ngày càng được hoàn thiện về nhu cầu ăn và ở. Cùng với đó thì
loại nhà mái bằng, nhà tầng và nhà biệt thự ngày càng tăng lên. Nhà mái
bằng tỷ lệ tăng lên là 3,1%; nhà tầng tăng lên 7,8%; nhà biệt thự tăng 1,0%.
Một thực tế cho ta thấy khi đời sống được nâng lên thì con người thường cố
gắng đáp ứng những nhu cầu tối thiếu của mình về ăn, mặc, ở, đi lại. chính vì
vậy mà loại nhà tiện nghi hơn đã tăng lên nhanh chóng “ làm lụng vất vả bao
nhiêu năm trời cũng cố gắng giành giụm được tiền để xây cất nhà tử tế chứ,
ngày trước gia đình bác ở nhà mái ngói mùa hè thì nóng lằm, còn mùa đông


thì lạnh, bây giờ xây được nhà tầng ở cũng sướng thích hơn” ( Nữ - 50 tuổi,

buôn bán nhỏ) Từ đó, ta cũng có thể thấy rằng thu nhập của người dân ở đây
đã tăng lên mà lý do chủ yếu là do cơ cấu nghề nghiệp ở đây đã và đang được
mở rộng và ngày càng đa dạng hơn.
2.2.2 Về tiện nghi sinh hoạt.
Thu nhập của người dân ngày càng được nâng lên, theo đó tiện nghi
sinh hoạt của các hộ gia đình ngày càng được trang bị đầy đủ hơn so với
trước, điều đó cho thấy mức sống hiện nay của người dân trong xã đã cao.
Bảng 4: Tiện nghi sinh hoạt có trước và sau 2003
Stt

Tiện nghi

Trước2003
Sau 2003
% chênh lệch
sinh hoạt
1
Xe đạp
90,6
86,3
- 4,3
2
Xe máy
47,2
71,0
23,8
3
Tivi
77,2
87,6

10,4
4
Đầu đĩa
43,0
65,1
22,1
5
Loa đài
36,0
50,8
14,8
6
Điện thoại
21,7
41,9
20,2
7
Tủ lạnh
21,1
36,5
15,4
8
Máy vi tính
2,9
9,5
6,6
9
Bếp gas
20.4
40,6

20,2
10
Khác..
2,4
3,6
1,2
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy tiện nghi sinh hoạt của người dân nơi

đây được trang bị tương đối đầy đủ,hầu hết các tiện nghi tối thiểu trong một
gia đình đều có, còn những tiện nghi đắt tiền thì còn chiếm một tỷ lệ khiên
tốn như máy vi tính chỉ tăng lên có 6,6%, phương tiện sinh hoạt khác cũng
tăng có 1,2%,…mà theo sự điều tra và qua các cuộc phỏng vấn sâu của
chúng tôi những tiện nghi sinh hoạt khác ở đây là: Lò vi sóng, máy giặt, máy
điều hoà,..vì đây là những tiện nghi sinh hoạt mà theo như người dân ở đây
cho biết “ mua thì cũng được thôi nhưng mua những thứ đó ở nông thôn
không quen sử dụng” ( Nữ - 42 tuổi , NN), hơn thế nữa đây là những tiện
nghi sinh hoạt đắt tiền không phải gia đình nào cũng dễ dàng mua được để
trang bị cho gia đình mình.


Cuộc phỏng vấn sâu của chúng tôi đối với 5 hộ gia đình thì nhận được
những câu trả lời không khác nhau khi những người dân đều cho rằng: khi
kinh tế gia đình khá giả hơn thì chắc chắn sẽ mua những tiện nghi tốt hơn
phục vụ cuộc sống hàng ngày… đó cũng là tâm lý chung của người dân vì
cuộc sống vất vả khi có điều kiện họ sẽ cố gắng chu cất cho cuộc sống của
mình tốt đẹp hơn trước.
2.2.4 Về điều kiện nhà vệ sinh
Mức sống của người dân được thể hiện ở rất nhiều khía cạch vật chất cũng
như về tinh thần. Trong đề tài này tôi chỉ xét ở khía cạch vật chất của người
dân, để từ đó xem xét sự đầu cho điều kiện sinh hoạt của người dân ở nơi đây

thế nào?
Bảng 5: Quan hệ giữa thu nhập và loại nhà vệ sinh của người dân.
Tự

Loại nhà vệ sinh
Hai
Một
Hố xí

hoại
20,0
37,1
46,5
58.4
66,3
68,8

ngăn
45,3
33,0
28,5
26,4
20,6
19,3

Tổng thu của hộ

Dưới 10 triệu
Từ 10- 20triệu
Từ 20 - 30 triệu

Từ 30 - 40 triệu
Từ 40 - 50 triệu
Trên 50 triệu

ngăn
28,6
20,8
19,2
13,6
17,6
9,7

tạm
5,3
9,1
5,8
1,6
1,5
2,3

Tổng
Không

1,3
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0


100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0

Do mức thu nhập ở đây còn thấp nên việc đầu tư cho điều kiện sinh hoạt của các
gia đình nơi đây chưa đồng nhất nên việc chi cho xây dựng những thứ mà ở
nông thôn cho rằng là “ không cần thiết” như xây nhà tắm; nhà vệ sinh… lại
không được chú trọng. Ở những gia đình có thu nhập khá thì họ xây dựng cho
gia đình mình những công trình phụ đẹp đẽ, vệ sinh, thoáng mát,…
Đối với những gia đình có thu nhập dưới 10 triệu/ năm thì loại nhà vệ sinh đang
sử dụng là tự hoại chiếm một con số không cao chỉ là 20,0%, còn loại hố xí 2
ngăn chiếm một tỷ lệ khá cao là 45,3%, một ngăn là 28,6%,…đó cũng là điều
hoàn toàn phù hợp đối với những gia đình có thu nhập thì chủ yếu họ thuộc vào


những gia đình làm nghề nông nghiệp nên thu nhập thấp và trong suy nghĩ của
họ “xây loại hố xí tự hoại thì không có phân để bón ruộng” (Nữ - 45 tuổi, NN).
Chính vì vậy mà thu nhập của người dân được càng cao thì mức đầu tư cho điều
kiện sinh hoạt trong gia đình mình càng đầy đủ và tiện nghi, loại hố xí tự hoại
cũng tỷ lệ thuận với thu nhập của người dân và những loại nhà vệ sinh không
đảm bảo vệ sinh thì giảm đi. Với nhóm thu nhập từ 50 triệu trở lên thì loại nhà
vệ sinh tự hoại chiếm một tỷ lệ cao là 68,8%.
Nhìn vào bảng số liệu cho ta thấy tuy rằng điều kiện nhà vệ sinh của ngưòi dân
đang tăng lên nhưng từ bảng số liệu cũng cho ta thấy tỷ lệ hộ gia đình có nhà vệ
sinh hai ngăn, một ngăn hay hố xí tạm vẫn chiếm một tỷ lệ cao ngay cả đối với
những gia đình có thu nhập khá giả, điều đó cho ta thấy con người nơi đây chỉ
chú ý đến một mức nhất định cho điều kiện sinh hoạt của gia đìnhh.

3. Tìm hiểu sự đầu tư cho điều kiện sinh hoạt của những hộ gia đình có
thu nhập khác nhau.
3.1.

Mối quan hệ giữa nhà ở và thu nhập.

Với chiến lược đẩy mạnh CNH - H ĐH đất nước trong công cuộc đổi mới
đất bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đó là sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế, xã Ái Quốc cũng đang chuyển mình theo xu thế chung của đất
nước.
Bảng 6 : Quan hệ giữa thu nhập và loại nhà ở của người dân
Loại nhà

Nhà mái

Nhà mái

Nhà tầng Biệt thự
ngói
bằng
100
20,5
6,6
1,3
0
0
28,4
25,9
14,3
0

0
20,9
23,0
16,2
0
0
12,6
14,8
20,1
100
0
7,4
7,7
11,7
0
0
10,2
22,0
36,4
0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Nhìn vào bảng số liệu cho ta thấy tương ứng với những nhóm thu nhập cao

Thu nhập
Dưới 10 triệu
Từ 10 - 20 triệu

Từ 20 - 30 triệu
Từ 30 - 40 triệu
Từ 40 - 50 triệu
Trên 50 triệu

Nhà tranh

thì loại nhà ở của nhóm đó cũng tiện nghi và đẹp đẽ hơn, những nhóm có thu
nhập thấp thì loại nhà họ ở cũng khiêm tốn hơn những nhóm có thu nhập cao


nhưng ở đây thì loại nhà ở lại dường như không tương ứng với nhóm thu nhập,
bởi vì nhóm thu nhập cao thì loại nhà họ ở cũng như nhóm có thu nhập thập và
ngược lại, nhưng nó lại hoàn toàn phù hợp trong nếp sống và suy nghĩ của người
dân vùng nông thôn.
Với nhóm thu nhập dưới 10 triệu thì loại nhà mái ngói họ ở chiếm con số
tuyệt đối 100 % đây cũng là điều hợp lý khi thu nhập không cao thì khả năng xây
dựng một căn nhà to và đẹp là rất khó khăn “ tiền ăn và học cho các cháu ở trong
nhà còn khó khăn nữa lấy tiền đâu mà xây nhà hả cháu” ( Nữ - 45 tuổi , Buôn
bán nhỏ) nhưng đối với nhóm thu nhập từ 20 - 30 triệu thì loại nhà mái ngói họ ở
cũng chiếm đến 20,9% đây là con số ngạc nhiên khi chúng tôi đi điều tra và quan
sát thấy, theo như các cuộc phỏng vấn sâu mà chúng tôi thực hiện thì “ tiền thì
gia đình bác cũng đủ để xây một căn nhà và cũng tươm tất hơn nhưng tiền đấy
còn cần vào nhiều thứ khác vì bây giờ dùng để xây nhà thì khoảng tiền tiết kiện
đấy cũng hết” ( Nữ - 43 tuổi , Buôn bán). Với những gia đình có thu nhập dưới
10 triệu thì loại nhà ở
của họ chủ yếu là nhà tranh và nhà mái ngói điều này cũng hoàn toàn phù
hợp với quy luật khi thu nhập thấp thì việc đầu tư cho xây dựng một ngôi nhà to
đẹp là rất khó khăn.
Đối với những gia đình có thu nhập thuộc loại giàu có trên 40 triệu/năm ở

vùng nông thôn thì loại nhà họ ở cũng đẹp đẽ và tiện nghi hơn, số nhà mái bằng
và nhà ngói đối với nhóm thu nhập này đang giảm dần và số nhà tầng và nhà
biệt thự đang tăng lên, gia đình có thu nhập cao thì loại nhà họ ở cũng khang
trang và đẹp đẽ hơn vì vậy mà nhà tầng và nhà mái bằng ở nhóm hộ gia đình có
thu nhập từ 30 - 50 triệu cao hơn rất nhiều đối với nhóm hộ có thu nhập từ 10
triệu trở xuống.
Những cũng suy nghĩ cho chúng tôi biết tâm lý của người dân nông thôn “
cũng phải cố gắng giành giụm tiền để xây nhà chứ cháu, chứ làm sao cứ ở căn
nhà này được, thoải mái thật đấy nhưng cũng phải xây nhà khác to và đẹp hơn
để ở chứ”.


( Nam - 42 tuổi – nông nghiệp, buôn bán nhỏ)
Số nhà biệt thự được xây dựng rất ít chiếm có 1% đây cũng là tâm lý chung
của người dân nơi vùng quê khi họ cho rằng: “ mình có tiền thật đấy nhưng
không nhất thiết phải đem khoe với mọi người hay làm một việc gì khác người
như xây nhà to và quá sang trọng, xây thế bà con lại ngại sang nhà mình chơi vì
sang chơi lại sợ làm bẩn nhà mình” ( Nam - 50 tuổi, kinh doanh) nên hộ gia
đình có tiền thì họ cũng chỉ xây nhà tầng và mua sắm những tiện nghi sinh hoạt
trong gia đình đế cuộc sống của gia đình ngày càng đầy đủ và thoải mái hơn,
chính vì vậy mà số lượng nhà tầng chiếm một tỷ lệ khá cao ở đây( 36,4%) ở
nhóm có thu nhập trên 50 triệu/ năm.

Biểu đồ 1: Thu nhập so với loại nhà ở
Những thay đổi về mức sống của các hộ gia đình điều phụ thuộc rất nhiều
vào nguồn thu nhập, phần lớn những người được hỏi đều trả lời “ nguồn thu
nhập cao và ổn định nữa thì chắc chắn cuộc sống sẽ ngày càng tốt đẹp hơn”
( Nữ - 33 tuổi , buôn bán). Chúng tôi cũng tiến hành phỏng vấn đối với những
hộ có thay đổi nghề nghiệp: trước làm nông nghiệp nay đã chuyển sang làm
công nhân trong các nhà máy được xây dựng tại địa phương hay giờ chuyển

sang kinh doanh, buôn bán nhỏ thì hầu hết họ cho rằng “ nông nghiệp chỉ đủ ăn
thôi làm gì có tiền mà xây nhà cửa”( Nam - 39 tuổi - CN), họ cho rằng làm nông
nghiệp thì mức sống đâu được cao như những gia đình làm kinh doanh, buôn
bán hay CNVCNN... Đây chỉ là mức so sánh mang tính tương đối nhưng nhìn


một cách chung nhất, khách quan nhất thì mức sống của các hộ gia đình thuần
nông không cao.
Qua việc trò chuyện với những người dân trong xã, đa số họ đều mong
muốn rằng: “Ở nông thôn, ai chẳng muốn có căn nhà tươm tất. Những gia đình
có thu nhập thấp thì cũng muốn có căn nhà để trời mưa không bị dột mà nắng
thì không rọi vào đầu họ khi họ đang đứng chính trong ngôi nhà của mình, còn
những gia đình có thu nhập khá giả hơn thì họ muốn xây dựng căn nhà của
mình to và đẹp đẽ”
( Nữ, 44 – nông nghiệp)
Bảng 7 : Quan hệ giữa nghề nghiệp và loại nhà ở.
Nghề nghiệp
Nhà
Thuần nông
Hỗn hợp
Tiểu thủ

công

nghiệp
Dịch vụ, buôn bán

Loại nhà ở
Nhà mái Nhà mái


Tổng
Nhà

Biệt

tranh
0
0

ngói
50,5
45,0

bằng
35,6
32,8

tầng
14,9
15,2

thự
0
6,0

100,0
100,0

0


47,1

38,6

12,3

0

100,0

29,1

23,5

0

100,0

0
39,4
nhỏ
Công nhân viên
0
42,0
Khác
2,0
52,6
Qua bảng số liệu cho ta thấy loại nhà

37,9

14,1
0
100,0
31,3
10,1
0
100,0
ở mà các hộ gia đình đang sống chủ

yếu là nhà mái ngói và nhà mái bằng nhưng đối với từng nghề nghiệp khác nhau
thì loại nhà họ sinh sống cũng khác nhau.
Đối với những hộ thuần nông thì nhà ở mái ngói chiếm 50,5% và nhà ở mái
bằng chiếm 35,6%, đây cũng là một thực tế vì nguồn thu nhập của họ chỉ từ sản
xuất nông nghiệp nên thu nhập họ kém nên việc đầu tư cho xây dựng nhà cửa là
một việc làm tương đối khó khăn.
Với gia đình có nghề nghiệp hỗn hợp và dịch vụ, buôn bán nhỏ thì nguồn
thu của họ đa dạng hơn nhiều nên việc đầu tư cho việc xây dựng một ngôi nhà to


×