Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích bản chất và quá trình tiến hóa khái niệm quyền sở hữu”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.65 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Cùng với sự ra đời của Nhà nước La Mã cổ đại, hệ thống pháp luật La Mã cũng
được hình thành và phát triển. Đây là hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhất của Nhà
nước chiếm hữu nô lệ. Góp phần làm cho bộ luật La Mã hoàn chỉnh, phát triển như
vậy phải kể tới phần luật dân sự. Trong bộ luật, phần luật dân sự có những bước
tiến đáng kể so với tổng thể chung. Phát triển nhất là chế định về sở hữu và chế
định hợp đồng. Chế định quyền sở hữu là chế định duy nhất mà các luật gia La Mã
chưa đưa ra được khái niệm chính xác về quyền sở hữu cũng như nội dung quyền
sở hữu, nhưng họ đã chỉ ra được những quyền năng cơ bản của chủ sở hữu tài
sản.Như vậy, em xin chọn đề tài: “Phân tích bản chất và quá trình tiến hóa khái
niệm quyền sở hữu”.
NỘI DUNG
1. Bản chất của khái niệm quyền sở hữu.
Luật La Mã ra đời rất sớm vào khoảng thế kỉ VI – IV TCN khi Nhà nước La Mã
hình thành. Tuy nhiên, thời kì cộng hòa trở đi là giai đoạn phát triển hưng thịnh
nhất của luật La Mã. Vào thời kì này, lãnh thổ đế quóc La Mã được mở rộng nhất
và nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh. Luật La Mã lúc này có những phát triển
vượt bậc như: đưa ra nhiều khái niệm chuẩn xác, có tính giá trị pháp lí cao, kĩ thuật
lập pháp chuẩn xác, từ ngữ rõ ràng, trong sáng. Thêm đó, bộ luật điều chỉnh hầu
hết các quan hệ xã hội quan trọng, phổ biến, đặc biệt là quan hệ trọng lĩnh vực dân
sự về quyền sở hữu và hợp đồng.
Khái niệm quyền sở hữu là một khái niệm cốt lõi, cơ bản nhất của luật dân sự.
Nếu ta hình dung luật dân sự như một ngôi nhà thì chế định tài sản và quyền sở


hữu được coi là những viên gạch xây nên ngôi nhà đó. Trong các tài liệu pháp lý
hiện nay, khái niệm quyền sở hữu được đề cập đến theo ba góc độ khác nhau.
Thứ nhất, quyền sở hữu được tiếp cận dưới góc độ là một quan hệ pháp luật –
quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu. Nếu xuất phất từ góc độ này thì quyền sở hữu
được phân tích với đầy đủ các bộ phận cấu thành của bất cứ một quan hệ pháp luật
nói chung như chủ thể, khách thể, đối tượng, nội dung, căn cứ xác lập, căn cứ


chấm dứt …
Thứ hai, khái niệm quyền sở hữu có thể được tiếp cận dưới góc độ là tập hợp các
quy định pháp luật về sở hữu (nghĩa khách quan). Dưới góc độ này thì việc tiếp cận
với vấn đề quyền sở hữu sẽ được thực hiện thông qua việc hệ thống hoá các văn
bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ sở hữu.
Các quy phạm này chứa đựng trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến
pháp, Bộ luật dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Thứ ba, khái niệm quyền sở hữu được hiểu dưới góc độ là mức độ xử sự (quyền
năng) mà pháp luật cho phép chủ sở hữu được thực hiện các hành vi nhất định (như
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) lên tài sản theo ý chí của mình (nghĩa chủ quan).
Dưới góc độ này, quyền sở hữu được coi là một trong những quyền năng cơ bản
nhất mà một chủ thể có thể có được đối với tài sản (bên cạnh các quyền khác đối
với tài sản như quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề, quyền dụng ích cá
nhân, …). Các phân tích tiếp sau đây của bài viết chỉ đề cập đến khái niệm quyền
sở hữu theo khía cạnh thứ ba này.
Theo quan điểm kinh tế học, sở hữu được coi là việc chiếm giữ những của cải vật
chất của con người trong đời sống xã hội. Theo quan điểm này, sở hữu là một
phạm trù kinh tế mang yếu tố khách quan, xuất hiện cùng với sự tồn tại của xã hội
loài người.


Quá trình tồn tại của xã hội loài người luôn gắn liền với sự phân hóa tài sản trong
việc chiếm giữ những của cải vật chất. Cùng với đó là sự phân chia giai cấp, và
những người có quyền thế trong xã hội thấy rằng, chỉ điều hành xã hội bằng phong
tục tập quán sẽ không có lợi cho mình nên cần phải có một bộ máy bạo lực với
pháp luật là công cụ để bảo vệ sự chiếm hữu của cải vật chất cho mình và cho giai
cấp mình.
Trên cơ sở kinh tế để bảo đảm cho sự thống trị về chính trị và tư tưởng chính là
các quan hệ sở hữu có lợi cho giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị phải dùng tới
một bộ phận của pháp luật về sở hữu để thể hiện ý chí của giai cấp mình. Là một

hình thái của thượng tầng kiến trúc, pháp luật về sở hữu ghi nhận và củng cố địa vị,
ghi nhận lợi ích của giai cấp thống trị đối với việc đoạt giữ các của cải vật chất
trước các giai cấp khác trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông. Do đó, trong
bất kỳ nhà nước nào, luật pháp về sở hữu cũng được sử dụng với ý nghĩa là một
công cụ có hiệu quả của giai cấp nắm chính quyền để bảo vệ cơ sở kinh tế của giai
cấp đó.
Trong khoa học pháp lý, quyền sở hữu được hiểu là một phạm trù pháp lý phản
ánh các quan hệ sở hữu trong một chế độ sở hữu nhất định, bao gồm tổng hợp các
quy phạm pháp luật về sở hữu nhằm điều chỉnh các quan hệ sở hữu trong đời sống
xã hội. Các quy phạm pháp luật về sở hữu là cơ sở để xác nhận, quy định và bảo vệ
các quyền lợi của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Quyền sở hữu với tư cách là một chế định của pháp luật dân sự, một bộ phận
thuộc thượng tầng kiến trúc, quyền sở hữu chỉ xuất hiện khi xã hội đã có sự phân
chia giai cấp và có Nhà nước. Pháp luật về sở hữu chính là sản phẩm của xã hội có
giai cấp nhằm bảo vệ lợi ích trước hết là của giai cấp thống trị, giai cấp nắm quyền
lãnh đạo trong xã hội. Pháp luật về sở hữu dù được ghi nhận và quy định dưới bất
kỳ góc độ nào cũng luôn mang tính giai cấp và phản ánh những phương thức chiếm


giữ của cải vật chất trong xã hội. “Vì vậy, pháp luật về sở hữu bao giờ cũng nhằm
mục đích:
- Xác nhận và bảo vệ bằng pháp luật việc chiếm giữ những tư liệu sản xuất chủ
yếu của giai cấp thống trị.
- Bảo vệ những quan hệ sở hữu phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
Tạo Điều kiện pháp lý cần thiết bảo đảm cho giai cấp thống trị khai thác được
nhiều nhất những tư liệu sản xuất đang chiếm hữu để phục vụ cho sự thống trị;
đồng thời xác định mức độ xử sự và các ranh giới hạn chế cho các chủ sở hữu
trong phạm vi các quyền năng: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.
Với cách hiểu này, khái niệm quyền sở hữu có thể hiểu theo hai nghĩa sau:
- Theo nghĩa khách quan (còn được gọi là nghĩa rộng), quyền sở hữu là luật pháp

về sở hữu trong một hệ thống pháp luật nhất định. Do đó, quyền sở hữu là tổng hợp
một hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu
sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những của cải vật chất trong đời sống xã hội.
- Theo nghĩa chủ quan (còn được gọi là nghĩa hẹp), quyền sở hữu là mức độ xử sự
mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt trong những điều kiện nhất định.Với cách hiểu này thì quyền sở
hữu chính là những quyền năng dân sự chủ quan của từng loại chủ sở hữu nhất
định đối với một tài sản cụ thể, được quy định trong các quy phạm pháp luật về sở
hữu cụ thể.
Trên phương diện khoa học luật dân sự, quyền sở hữu được hiểu là một quan hệ
pháp luật dân sự - quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu. Bởi, bản thân nó chính là hệ
quả của sự tác động của một bộ phận pháp luật vào các quan hệ xã hội (các quan
hệ sở hữu). Theo cách hiểu này, quyền sở hữu bao gồm đầy đủ ba yếu tố của quan


hệ pháp luật dân sự: chủ thể, khách thể và nội dung như một quan hệ pháp luật dân
sự bất kỳ.
Từ những phân tích ở trên ta thấy, khái niệm quyền sở hữu sử dụng trong luật dân
sự được hiểu theo ba phương diện khác nhau: khoa học pháp lý, chế định luật dân
sự và khoa học luật dân sự. Chỉ khi nào hiểu quyền sở hữu trên cả ba tư cách này
thì mới có thể hiểu hết nghĩa của khái niệm quyền sở hữu.
Vì vậy, quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý phản ánh các quan hệ sở hữu
trong một chế độ sở hữu nhất định, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật
nhằm điều chỉnh những quan hệ về sở hữu trong xã hội. Các quy phạm pháp luật
về sở hữu xác nhận, quy định và bảo vệ các quyền lợi của các chủ sở hữu trong
việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Với tư cách là một chế định pháp luật, quyền sở hữu chỉ Ịậ đời khi xã hôi có sự
phân chia giai cấp và có Nhà nước. Pháp luật về sở hữu và Nhà nước có cùng một
nguồn gốc và không thể tồn tại tách rời nhau, do đó nó sẽ mất đi khi không có Nhà

nước.
Pháp luật về sở hữu luôn luôn mang tính chất giai cấp rõ rệt. Trong tuyên ngôn
của Đảng cộng sản, C. Mác đã chỉ ra rằng: "Nhưng thử hỏi lao động làm thuê, lao
động của người ụậ mn ọó tạo ra sở hữu cho người vô sản không? Tuyệt đối không?
Nó tạo ra tư bản, tức là cái sở hữu bóc lột lao động”.
2. Sự tiến hóa hay sự phát triển của khái niệm quyền sở hữu.
Có thể khái quát hoá quá trình phát triển của khái niệm quyền sở hữu thông qua
bốn thế hệ cơ bản, thể hiện bốn cách hiểu khác nhau về quyền sở hữu.
Thế hệ thứ nhất – Tài sản thể hiện tư cách nhân thân của chủ sở hữu. Đây là
giai đoạn sơ khai trong lịch sử phát triển chế định sở hữu. Khái niệm quyền sở hữu
ban đầu được hiểu khác xa rất nhiều so với cách hiểu của chúng ta ngày nay. Trong


giai đoạn sơ khai này mới chỉ có khái niệm chủ sở hữu chứ chưa có khái niệm
quyền sở hữu. Tài sản khi đó được hiểu như là sự tiếp nối tư cách cá nhân của chủ
sở hữu. Ai xâm phạm đến tài sản của một người (lấy mất con thú săn được, hoa trái
thu lượm được) là xúc phạm tới cá nhân người đó. Thời La mã cổ đại có quan niệm
rằng: Một người kiện kẻ trộm không phải vì mình có quyền sở hữu, mà vì người ăn
trộm đã xúc phạm đến danh dự của mình thông qua hành vi ăn trộm đó. Kẻ trộm
khi đó bị coi là kẻ xúc phạm (bị kiện theo phương thức kiện hành vi trộm cắp –
actio furti), chứ chưa được coi là người chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người
khác (chưa áp dụng các phương thức kiện bảo vệ quyền sở hữu như kiện đòi lại tài
sản thuộc sở hữu của mình – actio rei vindicatio, hay phương thức kiện đòi lại tài
sản bị trộm – condictio furtiva). Quan niệm đó dẫn đến một loạt các hệ quả pháp lý
quan trọng sau đây:
– Theo quan niệm đó mà pháp luật La mã giai đoạn cổ đại đã quy định cho phép
chủ sở hữu không những được lấy lại tài sản bị trộm mà còn được trả thù lại sự xúc
phạm đó đối với kẻ trộm: chặt tay, giam giữ, giết, bán làm nô lệ, phạt gấp nhiều lần
tài sản trộm, …(1). Cần lưu ý rằng trộm cắp thời đó được coi là vi phạm tư pháp và
được điều chỉnh bởi hệ thống luật tư, chứ không phải bởi luật công như ngày nay.

– Nếu tài sản rời khỏi chủ sở hữu mà không có sự xúc phạm đến nhân thân của chủ
sở hữu (Ví dụ như: chủ sở hữu cho người khác mượn tài sản, sau đó người mượn
lại đem bán tài sản đó đi), thì chủ sở hữu không được quyền đòi lại(2).
– Cũng theo quan niệm đó mà Luật La mã thời kỳ cổ đại đã từng quy định rằng,
nếu như có nhiều kẻ trộm cùng ăn trộm một tài sản, thì hành vi của mỗi kẻ trộm
được coi là những sự xúc phạm riêng biệt đối với chủ sở hữu. Khi đó mỗi kẻ trộm
phải trả cho người bị trộm toàn bộ tài sản đã ăn trộm (có bao nhiêu kẻ trộm cùng
thực hiện việc trộm cắp thì chủ sở hữu được hưởng ngần ấy lần tài sản của mình)
(3). Ví dụ như hai kẻ trộm cùng ăn trộm một con ngựa, thì khi bị bắt mỗi kẻ trộm
phải nộp cho người bị trộm một con ngựa.


– Do tài sản là sự tiếp nối tư cách nhân thân của chủ sở hữu, do đó khi chủ sở hữu
chết thì tư cách nhân thân chấm dứt, tài sản trở thành vô chủ. Một số tài liệu khảo
cổ cho thấy thời xa xưa tại nhiều dân tộc có tồn tại tập quán rằng sau khi một
người chết đi thì tài sản của người đó (tiền bạc, đồ dùng quý giá, thậm chí cả nô lệ)
cũng được chôn theo. Cùng với đó một nguyên tắc pháp lý được hình thành dưới
thời La mã cổ đại có nội dung như sau: “Việc lấy đi tài sản của người chết
không được coi là ăn trộm” – “Rei hereditariae furtum non fit”(4). Trong giai đoạn
này chế định thừa kế chưa được hình thành rõ nét, chưa có quy định cụ thể cho
việc dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho những người còn sống.
Thế hệ thứ hai – Quyền sở hữu vật là quyền của chủ thể được chi phối
tuyệt đối vàtheo ý chí của mình đối với vật. Với sự phát triển của giao lưu dân sự,
thì khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ hai dần được hình thành và được hiểu là
“quyền thống trịtuyệt đối của một chủ thể lên vật”. Quyền sở hữu là một loại vật
quyền quan trọng nhất thể hiện sự phụ thuộc tuyệt đối và vô hạn của vật đối với
chủ sở hữu. Chủ sở hữu có mọi quyền năng đối với vật. Việc xác lập quyền sở hữu
đối với vật trả lời cho câu hỏi: Vật này của ai?
Đối với một vật cụ thể thì không thể có bất kỳ chủ thể nào có nhiều quyền năng
hơn chính chủ sở hữu vật đó. Mọi hành vi tác động lên vật hoàn toàn phụ thuộc

vào ý chí của chính chủ sở hữu đó. Các đặc điểm cơ bản của quyền sở hữu được
khái quát hoá là: 1) Tính chất tuyệt đối, 2) Tính độc nhất, 3) Mọi xử sự, 4) Theo ý
chí của chủ sở hữu, 5) Vô thời hạn, 6) Việc thực hiện quyền sở hữu không dẫn tới
chấm dứt quyền sở hữu đó. Cũng từ khi có cách hiểu này mà chủ sở hữu mới được
bảo vệ bằng những phương thực kiện vật quyền. Ví dụ như kiện đòi lại tài sản
thuộc sở hữu của mình (rei vindicatio).
Cũng trong giai đoạn này mới hình thành nên nguyên tắc: “Một người không
thểchuyển giao cho người khác nhiều hơn những gì mình có” (Tiếng La-tinh:
“Nemo ad alium plus juris transferre potest, quam ipse habet”). Và hệ quả trực tiếp


của nguyên tắc này là: nếu như tài sản đã được chuyển giao từ người chiếm hữu
bất hợp pháp sang cho người thứ ba thông qua giao dịch dân sự thì chủ sở hữu vẫn
được đòi lại tài sản từ người thứ ba đó. Ví dụ như một người mua phải tài sản do
trộm cắp có được thì phải trả lại cho chủ sở hữu khi chủ sở hữu đòi lại. Bởi lẽ bản
thân kẻ trộm không có quyền sở hữu đối với vật trộm được, do đó không thể
chuyển giao quyền sở hữu sang cho người mua (không thể chuyển giao cái mà
chình mình không có), khi đó người mua phải tài sản trộm cắp sẽ không thể trở
thành chủ sở hữu tài sản mua được.
Tại đây phát sinh một vấn đề: Khi đó một người khi mua tài sản nào đó thường
sẽ rất băn khoăn rằng: Không biết người bán cho mình có đích thực là chủ sở hữu
tài sản không. Nếu người bán mà không phải chủ sở hữu tài sản thì đến một lúc
nào đó sau khi mua chủ sở hữu sẽ đến đòi lại, bên mua khi đó bị buộc phải trả lại
cho chủ sở hữu tài sản mình đã mua. Nhằm khắc phục tận gốc vấn đề đó mà pháp
luật các nước mới bắt đầu hình thành cơ chế đăng ký tài sản. Phương thức đăng ký
tài sản đó ban đầu được áp dụng đối với bất động sản, sau đó áp dụng dần cho các
loại tài sản khác là động sản.
Cách hiểu này đã cho phép chủ sở hữu có mọi quyền năng đối với tài sản, do đó
ở thế hệ thứ hai này ta không thấy có sự liệt kê các quyền năng cơ bản của chủ sở
hữu.

Thế hệ thứ ba – Quyền sở hữu vật được hiểu thông qua việc liệt kê cụ thể các
quyền năng cấu thành của chủ sở hữu đối với vật của mình.
Trên thực tế thì trong một xã hội công dân, mọi hành vi của mỗi thành viên, trong
đó kể cả hành vi đối với tài sản của chính mình, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi
cho phép sao cho không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể khác, cũng như lợi ích của toàn xã hội, của cộng đồng nói chung.


Chính vì lý do đó quyền năng của chủ sở hữu mới luôn bị hạn chế trong một giới
hạn luật định. Quyền năng vô hạn của chủ sở hữu đối với vật “của mình” chỉ được
thể hiện với ý nghĩa lớn hơn so với bất kỳ một chủ thể nào khác, chứ không bao
giờ có thể nhiều hơn những gì pháp luật quy định. Nói cách khác, quyền sở hữu khi
đó được hiểu là tập hợp một số quyền năng cụ thể của chủ sở hữu mà pháp luật quy
định. Bắt đầu hình thành khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ ba – liệt kê cụ thể các
quyền năng cấu thành của quyền sở hữu vật. Cách hiểu này được sử dụng rộng rãi
trong pháp luật nhiều quốc gia những thế kỷ vừa qua.
Dưới thời cộng hoà La mã thì quyền sở hữu được hiểu bao gồm năm quyền năng
là: 1) Quyền chiếm hữu, 2) Quyền sử dụng, 3) Quyền hưởng dụng lợi ích từ việc
sử dụng vật, 4) Quyền định đoạt số phận vật, 5) Quyền kiện đòi lại vật từ người
chiếm hữu bất hợp pháp.
Điều 544 Bộ luật dân sự Cộng hoà Pháp quy định rằng chủ sở hữu tài sản có hai
quyền năng là “hưởng thụ và định đoạt vật một cách tuyệt đối, miễn là không
sử dụng tài sản vào những việc mà pháp luật cấm”. Theo quy định tại Điều 903 Bộ
luật dân sự Liên bang Đức thì chủ sở hữu vật có hai quyền năng “định đoạt vật
theo ý chí của mình và được bảo vệ khỏi mọi sự tác động của người khác lên vật”.
Pháp luật các nước thuộc hệ thống pháp luật Anh- Mỹ thì lại liệt kê cụ thể hơn
nữa các quyền năng của chủ sở hữu vật (thậm chí có thể có đến 10 –12 quyền
năng). Điểm đặc biệt ở chỗ các quyền năng này lại có thể được hình thành theo các
nhóm không giống nhau tại nhiều chủ thể khác nhau.
Trong các tài liệu nghiên cứu của các luật gia trên thế giới cũng có thể hiện rất

nhiều các quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề liệt kê các quyền năng của chủ
sở hữu vật. Luật gia Italia Pugliatti cho rằng quyền sở hữu bao gồm hai quyền năng
cơ bản là quyền sử dụng và quyền định đoạt. Luật gia người Đức Haas T. bên cạnh


ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt lại muốn bổ sung thêm quyền năng
thứ tư là quyền quản lý
Một số luật gia muốn đưa ra hàng loạt các quyền năng cụ thể mà chủ sở hữu có thể
có được để ghép chúng vào với nhau theo từng ngữ cảnh cụ thể. Ví dụ như: luật gia
Honore A. nêu ra danh mục mười một các quyền năng và yếu tố khác nhau của
quyền sở hữu:
“1) Quyền chiếm hữu (hiểu theo nghĩa hẹp như nắm giữ cơ học)
2) Quyền sử dụng (trực tiếp tác động để khai thác công dụng hữu ích của vật)
3) Quyền quản lý (Quyết định việc cho ai sử dụng và sử dụng như thế nào)
4) Quyền thu lợi tức (thu nhận các lợi ích vật chất từ hai quyền trên)
5) Quyền tiêu huỷ, tiêu dùng, thay đổi vật theo ý muốn của mình.
6) Quyền bảo quản giữ gìn, không cho người khác tước đoạt.
7) Quyền chuyển giao vật;
8 ) Tính chất vô thời hạn;
9) Không được sử dụng vật với mục đích gây hại cho người khác;
10) Có thể mang đi bảo đảm trả nợ, bị xử lý cho việc trả nợ
11) Quyền khôi phục lại các quyền năng nêu trên khi chúng bị xâm phạm”
Một số luật gia khác (như luật gia Mỹ Becker) hưởng ứng theo quan điểm này và
còn bổ sung thêm rằng trong mỗi ngữ cảnh khác nhau thì nội dung quyền sở hữu
có thể khác nhau, chỉ cần trong đó có ít nhất một trong 5 quyền năng đầu tiên là
được. Hệ quả từ đó, quan điểm này cho phép tồn tại nhiều loại quyền sở hữu cùng
tồn tại song song đối với một vật.


Thế hệ thứ tư – Mở rộng hơn khái niệm quyền sở hữu vật (thuộc

thế hệ thứ ba) sang liệt kê các quyền năng cụ thể của chủ sở hữu tài sản nói chung
(bao gồm vật, tiền và cả các tài sản vô hình).
Khái niệm quyền sở hữu của Luật dân sự Việt nam, cũng như của Liên bang Nga
và của một số nước Đông Âu khác, đang ở vào thế hệ thứ tư này. Theo đó quyền
sở hữu vật được mở rộng thành quyền sở hữu tài sản nói chung (cho cả vật, tiền,
giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản) và được hiểu thông qua ba
quyền năng cấu thành là chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Khoản 1 Điều 209 Bộ luật
dân sự Liên bang Nga quy định rằng: “Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt tài sảncủa mình”(9).
Khái niệm quyền sở hữu trong pháp luật dân sự Việt nam hiện nay thuộc thế hệ
thứ tư này. Điều 173 Bộ luật dân sự quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định
của pháp luật”.
Trong BLDS có chứa các quy định về quyền sở hữu các tài sản vô hình (quyền sở
hữu đối với quyền tài sản). Ví dụ như tại Điều 422 BLDS về đối tượng của hợp
đồng mua bán có quy định rằng “3- Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng mua
bán là quyền tài sản, thì phải có giấy tờ hoặc các bằng chứng khác chứng
minh quyền đó thuộc sởhữu của bên bán”.
Vấn đề thứ nhất liên quan đến hai loại tài sản là tiền, giấy tờ trị giá được bằng
tiền. Hai loại tài sản này có điểm đặc biệt là chúng chỉ có chức năng trao đổi, chứ
không thể khai thác công dụng hữu ích từ chính đồng tiền hay từ chính tờ giấy tiền,
tờ giấy trị giá được bằng tiền. Hai loại tài sản này chỉ mang lại lợi ích cho chủ sở
hữu khi nó được chủ sở hữu chuyển giao sang cho chủ thể khác kèm theo đó
chuyển giao luôn quyền sở hữu (tức thực hiện quyền định đoạt, chứ không phải là
quyền sử dụng). Đó cũng là sự khác biệt cơ bản giữa chúng đối với vật. Từ đó


nhận thấy rằng quyền sử dụng khó có thể được coi là một quyền năng của chủ sở
hữu tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền.
Vấn đề thứ hai liên quan đến quyền sở hữu đối với quyền tài sản. Quyền tài sản

được coi là tài sản vô hình, không nắm giữ được. Vậy chủ sở hữu sẽ thực hiện
quyền chiếm hữu như thế nào đối với loại tài sản vô hình đó. Việc chiếm hữu tài
sản vô hình là không thể thực hiện được. Chủ sở hữu chỉ có thể chiếm hữu được
một số giấy tờ minh chứng cho quyền tài sản của mình mà thôi.
Vấn đề tiếp theo cũng rất quan trọng được đặt ra khi nghiên cứu quyền sở hữu tài
sản thông qua ba quyền năng là: Trong nhiều trường hợp một người không phải là
chủ sở hữu nhưng lại có cả ba quyền năng đó. Điều 180 BLDS quy định rằng:
“Người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản không thuộc quyền sở hữu của mình theo thoả thuận với chủ sở hữu tài sản đó
hoặc theo quy định của pháp luật”. Ví dụ như: Pháp luật quy định hầu như cho
phép các doanh nghiệp nhà nước có cả ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao cho doanh nghiệp đó quản lý. Ngược
lại, có những trường hợp một người là chủ sở hữu tài sản nhưng lại không được
thực hiện cả ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Ví dụ
như trường hợp tài sản đang trong thời gian cầm cố được giao cho bên nhận cầm
cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Các vấn đề bất cập nêu trên nói lên thực trạng rằng cơ chế ba quyền năng (chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt) không thể thể hiện hết được bản chất pháp lý của quyền
sở hữu tài sản. Câu hỏi được đặt ra cho các nhà nghiên cứu luật là: Ngoài ba quyền
năng đó ra thì còn phải bổ sung thêm nội dung gì nữa thì mới thể hiện hết được bản
chất của quyền sở hữu?
Điều dễ nhận thấy rằng nếu bổ sung thêm một vài quyền năng nữa cho khái niệm
quyền sở hữu tài sản thì cũng không thể giải quyết được triệt để các vấn đề nêu


trên. Khái niệm tài sản thế hệ thứ năm (thuộc về tương lai) đòi hỏi không chỉ bổ
sung thêm một vài quyền năng nữa, mà cần thiết phải có một bước thay đổi cơ bản
về cách hiểu khái niệm quyền sở hữu. Vậy đâu là phương hướng mà pháp luật
trong tương lai sẽ lựa chọn? Khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ năm sẽ như thế
nào? Câu hỏi đó chắc chắn sẽ trở thành mối quan tâm của các nhà nghiên cứu luật

dân sự. Tại đây tôi chỉ xin tạm thời nêu một chút cảm nhận ban đầu như sau để
chúng ta cùng thảo luận (vì chỉ là cảm nhận nên có thể sẽ không trở thành hiện
thực): Khái niệm quyền sở hữu trong tương lai có thể sẽ không liệt kê các quyền
năng, mà chỉ liệt kê các hạn chế của chủ sở hữu. Nói cách khác, chủ sở hữu sẽ có
mọi quyền năng, ngoại trừ một số hạn chế cụ thể mà pháp luật quy định không cho
phép chủ sở hữu được thực hiện. Kèm theo đó pháp luật có thể cụ thể hoá hơn nữa
các nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Phương hướng đó sẽ phù
hợp với nguyên tắc chung thực hiện quyền sở hữu được quy định tại Điều 178
BLDS: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài
sản, nhưng không được làm thiệt hại và ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi
ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.

KẾT LUẬN
Mặc dù chưa đưa ra được khái niệm chung nhất về quyền sở hữu tài sản song
nhưng nhà làm luật La Mã đã xây dựng tương đối đầy đủ nhưng quyền năng của
chủ sở hữu hợp pháp, đặc biệt là những quy định về quyền chiếm hữu tài sản đã trở
thành căn cứ pháp lí quan trọng để chủ sở hữu tài sản khi có tài sản bị xâm hại có
cơ sở để bảo vệ quyền tài sản của mình và người xét xử có cơ sở pháp lí để bảo vệ
quyền của chủ sở hữu tài sản hợp pháp. Chế định về quyền sở hữu tài sản đã thể
hiện kỹ thuật lập pháp tiến bộ của nhà nước La Mã cổ đại, làm cơ sở xây dựng,
hoàn thiện khái niệm, nội dung quyền sở hữu - vấn đề có ý nghĩa quan trọng của
pháp luật dân sự trong hệ thống pháp luật đương đại.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật La Mã.
2. />

3. TS. Bùi Đăng Hiếu, Đại học luật hà nội, Quá trình phát triển của khái niệm
quyền sở hữu. />4. Khái niệm quyền sở hữu, Luật Dương Gia.

5. />6. />7. />


×