Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

PHÁT TRIỂN bền VỮNG NUÔI TRỒNG THỦY sản nước NGỌT của TỈNH hà TĨNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.93 KB, 81 trang )

Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

PHẦN MỞ ĐẦU
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam cùng với sự phát triển kinh tế xã
hội là sự thay đổi nhu cầu thực phẩm và sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng sản
phẩm thủy sản của con người. Ở Việt Nam việc đáp ứng nhu cầu thực phẩm
thủy sản từ nghề đánh bắt hải sản ngày càng hạn chế do khai thác quá mức trữ
lượng nguồn lợi cho phép. Để bù đắp vào sự thiếu hụt đó thì nuôi trồng thủy
sản phải được phát triển mạnh mẽ hơn nữa
Trải qua nhiều thập kỷ, nuôi trồng thủy sản cung cấp một khối lượng
lớn thực phẩm thủy sản và góp phần giảm bớt áp lực khai thác nguồn lợi thủy
sản tự nhiên, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, hạn chế suy thoái môi trường sinh
thái đồng thời giải quyết nhiều vấn đề cho xã hội như công ăn việc làm, xóa
đói giảm nghèo, hạn chế sự di cư từ nông thôn sang thành thị và đem lại cuộc
sống tốt đẹp cho con người. Cùng với nhiều nước trên thế giới, Việt Nam có
bề dày lịch sử lâu đời trong phát triển thủy sản song nghề nuôi trồng thủy sản
mới chỉ phát triển trong khoảng 20 năm trở lại đây nhưng góp phần quan
trọng trong việc cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến xuất khẩu thủy sản
Hà Tĩnh là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ đang xây dựng những
hướng đi mới trong nhiều lĩnh vực nhất là trong các lĩnh vực sản xuất hàng
hóa cả về công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt trong đó có sự phát
triển mạnh của ngành thủy sản nói chung và nuôi trồng thủy sản nói riêng.
Hà Tĩnh là tỉnh có tiềm năng đất và mặt nước có khả năng phát triển nuôi
trồng thủy sản rất lớn. Các hoạt động nuôi trồng thủy sản đóng góp khá lớn
vào tiêu dùng nội địa và chiếm tỷ trọng lớn trong kim nghạch xuất khẩu
Nhìn chung trong thời gian gần đây hoạt động nuôi trồng thủy sản của
tỉnh Hà Tĩnh có xu hướng gia tăng về diện tích, sản lượng và giá trị. Loại
hình mặt nước trong nuôi trồng thủy sản càng ngày càng đa dạng như nuôi

1



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

thâm canh ao hồ nhỏ, ruộng lúa thùng đấu và hồ chứa, sông ngòi. Đã hình
thành nhiều mô hình nuôi trồng đặc sản có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên
phương thức hiện nay chủ yếu là quảng canh cải tiến và một phần nhỏ nuôi
bán thâm canh .Các vùng nuôi tập trung bán thâm canh và thâm canh còn ít
quy mô nhỏ và manh mún chưa hình thành các khu nuôi tập trung với quy
mô lớn cho sản lượng cao. Đầu tư chưa tương xứng chưa đồng bộ cho nên
việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang nuôi trồng thủy sản chưa mạnh. Đối
tượng nuôi cá truyền thống vẫn là chủ đạo và một số đối tượng có giá trị kinh
tế mới nuôi ở quy mô nhỏ, tự phát chưa trở thành hàng hóa xuất khẩu
Trong những năm tới nhu cầu phát triển và mở rộng diện tích nuôi sẽ
ngày một nhiều, do đó đòi hỏi phải có một kế hoạch phát triển lâu dài và
mang tính bền vững. Do vậy em chọn đề tài “ Phát triển bền vững nuôi
trồng thủy sản nước ngọt của tỉnh Hà Tĩnh” làm chuyên đề tốt nghiệp
Mục đích chính của đề tài là phân tích đánh giá thực trạng hoạt động
nuôi trồng thủy sản của tỉnh để tìm ra vấn đề cần giải quyết và đưa ra một số
giải pháp nhằm phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản của tỉnh Hà Tĩnh
Trong đó phạm vi nghiên cứu của đề tài nằm ở 3 loại : các loài thủy sản
nước ngọt, nước mặn, nước lợ
Đề tài gồm 3 chương chính :
Chương I : Sự cần thiết phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản
Chương II : Thực trạng phát triển nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh
Chương III : Phương hướng và các giải pháp nhằm phát triển bền vững
nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh
Để hoàn thiện khóa luận này em đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của các
anh các chị của Sở Kế hoạch& Đầu Tư Hà Tĩnh đặc biệt là sự hướng dẫn
nhiệt tình của thầy Bùi Đức Tuân
Em xin chân thành cảm ơn !

CHƯƠNG I :

SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

2


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

I . Khái niệm, đặc điểm và vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế
1. Khái niệm về ngành thủy sản
Hoạt động của ngành thủy sản luôn gắn liền với quá trình phát triển lâu
dài của văn hóa, lịch sử con người Việt Nam với những hoạt động trên bến
dưới thuyền, quăng chài thả cá,... hoạt động thủy sản ở Việt Nam ngày càng
khẳng định vai trò quan trọng của mình không chỉ trong việc đáp ứng nhu cầu
lương thực thực phẩm của con người mà còn đóng góp một phần quan trọng
trong sự phát triển của đất nước. Ngành thủy sản được coi là ngành sản xuất
vật chất dựa trên những khả năng tiềm tàng về sinh vật trong môi trường nước
để tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu con người
Theo điều 2 của Luật thủy sản đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam khóa XI kỳ họp thứ 4 thông qua
‘Hoạt động thủy sản là việc tiến hành khai thác nuôi trồng vận chuyển
chế biến bảo quản chế biến mua bán xuất khẩu nhập khẩu thủy sản dịch vụ
trong hoạt động thủy sản’( trích Luật thủy sản nước CHXHCN Việt Nam )
2. Vị trí và vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
2.1 Vị trí của ngành thủy sản
Ngành thuỷ sản đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế
quốc dân. Ngành thuỷ sản ngày càng mở rộng và vai trò của Ngành cũng tăng
lên không ngừng trong nền kinh tế.

Là một ngành kinh tế đặc thù bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động mang
những tính chất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ, cơ cấu
thành một hệ thống thống nhất có liên quan chặt chẽ với nhau. Trong khi các
ngành khai thác, đóng sửa tàu thuyền cá, sản xuất ngư lưới cụ, các thiết bị chế
biến và bảo quản thuỷ sản trực thuộc công nghiệp nhóm A, ngành chế biến
thuỷ sản thuộc nhóm công nghiệp B, ngành thương mại và nhiều hoạt động
dịch vụ hậu cần như cung cấp vật tư và chuyên chở đặc dụng thuộc lĩnh vực

3


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

dịch vụ thì nuôi trồng thuỷ sản lại mang nhiều đặc tính của ngành nông
nghiệp.
Vì vai trò ngày càng quan trọng của ngành Thuỷ sản trong sản xuất
hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng thực phẩm trong nước và thu ngoại tệ, từ
những năm cuối của thập kỉ 90, Chính phủ đã có những chú ý trong qui hoạch
hệ thống thuỷ lợi để không những phục vụ tốt cho phát triển nông nghiệp mà
còn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển mạnh về nuôi trồng thuỷ sản, đặc
biệt đối với vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
Kể từ năm 2002, nuôi thuỷ sản đã chuyển mạnh từ phương thức nuôi
quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh. Nhiều mô
hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi công nghiệp đã được áp dụng, các
vùng nuôi tôm lớn mang tính chất sản xuất hàng hoá lớn được hình thành, sản
phẩm thủy sản đã mang lại giá trị xuất khẩu rất cao cho nền kinh tế quốc dân
và thu nhập đáng kể cho người lao động. Một bộ phận dân cư các vùng ven
biển đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo
nhờ nuôi trồng thuỷ hải sản.
Trên thế giới, ước tính có khoảng 150 triệu người sống phụ thuộc hoàn

toàn hay một phần vào ngành thuỷ sản. Ngành thuỷ sản được coi là ngành có
thể tạo ra nguồn ngoại tệ lớn cho nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam đã trở thành hoạt động có vị trí quan trọng hàng
nhất nhì trong nền kinh tế ngoại thương Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu vẫn
gia tăng hàng năm và năm 2007 đạt gần 3,8 tỷ USD tăng 12% so với năm
2006, đưa chế biến thuỷ sản trở thành một ngành công nghiệp hiện đại, đủ
năng lực hội nhập, cạnh tranh quốc tế và dành vị trí trong 10 nước xuất khẩu
thuỷ sản hàng đầu trên thế giới.
2.2 Vai trò của ngành thủy sản
2.2.1 Ngành thủy sản là một trong những ngành mũi nhọn của quốc gia

4


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở khắp
mọi miền đất nước cả về nuôi biển, nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt. Đến năm
2007, đã sử dụng 1,05 triệu ha để nuôi trồng thuỷ sản tăng khoảng 10.000 ha
so với cuối năm ngoái . Trong đó, đối tượng nuôi chủ lực là tôm
Bên cạnh những tiềm năng đã biết, Việt Nam còn có những tiềm năng
mới được xác định có thể sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản như sử dụng vật liệu
chống thấm để xây dựng công trình nuôi trên các vùng đất cát hoang hoá,
chuyển đổi mục đích sử dụng các diện tích trồng lúa, làm muối kém hiệu quả
sang nuôi trồng thuỷ sản… Hoạt động nuôi biển là một hướng mở mới cho
ngành Thuỷ sản, đã có bước khởi động ngoạn mục với các loài tôm hùm, cá
giò, cá mú, cá tráp, trai ngọc,… với các hình thức nuôi lồng, bè. Nuôi nước
ngọt đang có bước chuyển mạnh từ sản xuất nhỏ tự túc sang sản xuất hàng
hoá lớn, điển hình là việc phát triển nuôi cá tra, cá ba sa xuất khẩu đem lại giá
trị kinh tế cao, nuôi đặc sản được mở rộng. Sự xuất hiện hàng loạt các trang

trại nuôi chuyên canh hoặc canh tác tổng hợp nhưng lấy nuôi trồng thuỷ sản
làm hạt nhân chuyển đổi phương thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến
sang bán thâm canh và thâm canh đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Ngành Thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng rất nhanh so với các ngành kinh
tế khác. Tỷ trọng GDP của ngành Thuỷ sản trong tổng GDP toàn quốc liên
tục tăng, từ 3,4% (năm 2000) lên 3,93% vào năm 2003 và năm 2008 là 5.44
%
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản tương đương với các ngành
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Điều đó chứng tỏ ngành thuỷ sản đang dần
chuyển từ sản xuất mang nặng tính nông nghiệp sang sản xuất kinh doanh
theo hướng công nghiệp hoá.
2.2.2 Ngành thủy sản trong việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế

5


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Từ đầu những năm 1980, ngành thuỷ sản đã đi đầu trong cả nước về
mở rộng quan hệ thương mại sang những khu vực thị trường mới trên thế
giới. Năm 1996, ngành thuỷ sản mới chỉ có quan hệ thương mại với 30 nước
và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đến năm 2001, quan hệ này đã được mở rộng
ra 60 nước và vùng lãnh thổ, năm 2003 là 75 nước và vùng lãnh thổ, năm
2008 trên 150 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới
Đối với các nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại, ngành thuỷ
sản đã tạo dựng được uy tín lớn. Những nước công nghiệp phát triển như Mỹ,
Nhật và các nước trong khối EU đã chấp nhận làm bạn hàng lớn và thường
xuyên của ngành. Năm 2005, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào bốn thị
trường chính là Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung Quốc chiếm trên 75% tổng giá

trị kim ngạch, phần còn lại trải rộng ra gần 100 nước và vùng lãnh thổ.
Có thể thấy rằng sự mở rộng mối quan hệ thương mại quốc tế của
ngành thuỷ sản đã góp phần mở ra những còn đường mới và mang lại nhiều
bài học kinh nghiệm để nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng
hơn vào khu vực và thế giới
2.2. 3 Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia
Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực
phẩm, cung cấp các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp. Dưới giác độ ngành kinh tế
quốc dân, Ngành Thuỷ sản đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực thực
phẩm, đáp ứng được yêu cầu cụ thể là tăng nhiều đạm và vitamin cho thức ăn.
Có thể nói Ngành Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực
phẩm cho người dân, không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo cơ hội
công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt ở những vùng nông
thôn và vùng ven biển. Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2002 đến năm
2008, công tác khuyến ngư đã tập trung vào hoạt động trình diễn các mô hình
khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo làm ăn. Hiện tại, mô

6


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản công ăn việc
làm cho ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở các vùng,
nhất là lao động nông nhàn ở các tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ. Nghề khai thác
thuỷ sản ở sông Cửu Long được duy trì đã tạo công ăn việc làm cho 48.000
lao động ở 249 xã ven sông.
2.2.4 Góp phần tạo việc làm ,tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo
Ao hồ nhỏ là một thế mạnh của nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nông

thôn Việt Nam. Người nông dân sử dụng ao hồ nhỏ như một cách tận dụng
đất đai và lao động. Hầu như họ không phải chi phí nhiều tiền vốn vì phần lớn
là nuôi quảng canh. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều người nông dân tận dụng
các mặt nước ao hồ nhỏ trong nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt với các hệ thống
nuôi bán thâm canh và thâm canh có chọn lọc đối tượng cho năng suất cao
như mè, trắm, các loại cá chép, trôi Ấn Độ và các loài cá rô phi đơn tính.
Ngành Thuỷ sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng
việc phát triển các mô hình nuôi trồng thuỷ sản đến cả vùng sâu, vùng xa,
không những cung cấp nguồn dinh dưỡng, đảm bảo an ninh thực phẩm mà
còn góp phần xoá đói giảm nghèo. Tại các vùng duyên hải, từ năm 2005, nuôi
thuỷ sản nước lợ đã chuyển mạnh từ phương thức nuôi quảng canh sang
quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh, thậm chí nhiều nơi đã áp
dụng mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi công nghiệp. Các vùng
nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản xuất hàng hoá lớn đã hình
thành, một bộ phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất
nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản.
Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở các mặt nước lớn như nuôi cá hồ chứa
cũng đã phát triển, hoạt động này luôn được gắn kết với các chương trình phát
triển trung du miền núi, các chính sách xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa.

7


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

2.2.5 Tạo ra sự tăng trưởng mạnh mẽ và thúc đẩy quá trình CNH-HĐH
của đất nước,góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một nền
kinh tế biển. Nếu như trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn những ảnh hưởng
của biển để mở rộng đất đai canh tác là định hướng cho một nền kinh tế

nông nghiệp lúa nước thì hiện nay việc tiến ra biển, kéo biển lại gần sẽ là định
hướng khôn ngoan cho một nền kinh tế công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Trong những thập kỉ qua, nhiều công trình hồ thuỷ điện đã được xây
dựng, khiến nước mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào vùng cửa sông, ven
biển. Đối với nền canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm
hoạ, nhưng với nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ thì nước mặn được
nhận thức là một tiềm năng mới, vì hoạt động nuôi trồng thuỷ sản có thể cho
hiệu quả canh tác gấp hàng chục lần hoạt động canh tác lúa nước.
Một phần lớn diện tích canh tác nông nghiệp kém hiệu quả đã được
chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản. Nguyên nhân của hiện tượng này là do giá
thuỷ sản trên thị trường thế giới những năm gần đây tăng đột biến, trong khi
giá các loại nông sản xuất khẩu khác của Việt Nam lại bị giảm sút dẫn đến
nhu cầu chuyển đổi cơ cấu diện tích giữa nuôi trồng thủy sản và nông nghiệp
càng trở nên cấp bách. Chính phủ đã đưa ra nghị quyết 09 NQ/CP ngày
15/6/2000 về chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp và đó cũng là yếu tố giúp cho quá trình chuyển đổi diện
tích nuôi trồng thuỷ sản càng diễn ra nhanh, mạnh và rộng khắp hơn. Quá
trình chuyển đổi diện tích, chủ yếu từ lúa kém hiệu quả, sang nuôi trồng thuỷ
sản diễn ra mạnh mẽ nhất vào các năm 2000-2002: hơn 200.000 ha diện tích
được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản hoặc kết hợp nuôi trồng thủy sản,
tuy nhiên từ 2003 đến nay ở nhiều vùng vẫn tiếp tục chuyển đổi mạnh, năm
2003 đạt 49.000 ha và năm 2007 đạt 95.400 ha. Có thể nói nuôi trồng thủy sản
đã phát triển với tốc độ nhanh, thu được hiệu quả kinh tế - xã hội đáng kể, từng

8


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn, góp

phần xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nông dân.
Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng trũng phát triển
mạnh mẽ. Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được
đánh giá là một trong những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, góp
phần làm tăng thu nhập cho người lao động và xoá đói giảm nghèo ở nông
thôn. Tính đến nay, tổng diện tích ruộng trũng có thể đưa vào nuôi cá theo mô
hình cá - lúa là 446.151 ha.
3. Đặc điểm ngành thủy sản
Việt Nam có rất nhiều lợi thế để phát triển các hoạt động của ngành thuỷ
sản. Là một quốc gia ven biển với diện tích vùng biển rộng gấp ba lần diện
tích đất liền, chứa đựng nhiều tài nguyên và nguồn lợi phong phú, Việt Nam
có thể lợi dụng tiềm năng này để phát triển toàn diện kinh tế hải sản. Bên
cạnh đó, Việt Nam còn có tiềm năng về nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt. Sông
suối, ao hồ, kênh mương, ruộng trũng… đều là môi trường thích hợp để tiến
hành khai thác và nuôi, trồng nhiều loài động - thực vật thuỷ sinh có giá trị
kinh tế cao. Dưới đây là các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của ngành thuỷ sản:
3.1 Lĩnh vực nuôi, trồng các loài động, thực vật thủy sản
- Nuôi thuỷ sản nước ngọt
Là hoạt động kinh tế khai thác con giống trong vùng nước ngọt tự nhiên,
sản xuất giống nhân tạo và ương nuôi các loài thuỷ sản (mà nơi sinh trưởng
cuối cùng của chúng là trong nước ngọt) để chúng đạt tới kích cỡ thương phẩm.
Ở đây, nước ngọt được hiểu là môi trường nước có độ mặn thấp hơn 0,5‰.
- Nuôi thuỷ sản nước lợ
Là hoạt động kinh tế ương, nuôi các loài thuỷ sản trong vùng nước lợ cửa
sông, ven biển, môi trường có độ mặn dao động mạnh theo mùa. Đối tượng
nuôi chủ yếu các loài tôm: Tôm sú , tôm he , tôm bạc thẻ, tôm nương , tôm

9



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

rảo và một số loài cá như cá vược , cá mú , cá chình... Hình thức nuôi gồm
chuyên canh một đối tượng và xen canh, luân canh giữa nhiều đối tượng hoặc
nuôi trong rừng ngập mặn. Gần đây, mô hình nuôi hữu cơ bắt đầu được áp
dụng và mở rộng ở Đồng bằng sông Cửu Long.
- Nuôi trồng động, thực vật nước mặn
Là hoạt động kinh tế ương nuôi các loài thuỷ sản mà nơi sinh trưởng cuối
cùng của chúng là ở biển. Đối tượng nuôi chính là tôm, tôm hùm, cá mú, cá
giò, cá hồng, cá cam, nghêu, sò huyết, ốc hương, trai ngọc .... Hình thức nuôi
chủ yếu là lồng bè hoặc nuôi trên bãi triều. Những tỉnh trồng rong câu chủ
yếu ở Việt Nam là Hải Phòng, Thừa Thiên Huế và Bến Tre. Rong sụn là loài
mới được nhập và trồng có kết quả, đang được nhân rộng ở nhiều địa phương
ở miền Trung và Nam Bộ.
Nhìn chung, với những nỗ lực trong việc mở rộng diện tích nuôi trồng
thuỷ sản, ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất giống, chú trọng những
đối tượng nuôi thế mạnh của từng vùng, áp dụng phương thức nuôi tiên tiến,
đem lại hiệu quả cao, nhất là áp dụng công nghệ nuôi công nghiệp chu trình
khép kín, ít thay nước đối với đối tượng tôm sú, phát triển các khu nuôi trồng
thuỷ sản công nghệ cao, v.v… hoạt động nuôi, trồng các loài động, thực vật
thuỷ sinh đã thu được kết quả vượt bậc
3.2 Lĩnh vực khai thác thủy sản.
- Khai thác hải sản
Là việc khai thác nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên trên biển và vùng nước lợ. Nhìn
chung, nghề khai thác hải sản của nước ta là nghề cá nhỏ, hoạt động ven bờ là
chủ yếu. Do sự tăng trưởng quá lớn của việc khai thác nên trữ lượng nguồn
lợi ở vùng biển ven bờ đã có dấu hiệu bị đe doạ, một số loài hải sản có giá trị
kinh tế cao đã bị khai thác quá mức. Vì vậy ngành thuỷ sản Việt Nam chủ
trương cơ cấu lại nghề khai thác để giảm áp lực đối với nguồn lợi trong vùng


10


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

biển này, bằng cách phát triển khai thác các nguồn lợi còn chưa bị khai thác ở
vùng biển xa bờ, đồng thời chuyển một bộ phận ngư dân sang những lĩnh vực
hoạt động kinh tế khác như nuôi trồng, kinh doanh, cung ứng dịch vụ hậu cần
nghề cá, tham gia hoạt động phục vụ du lịch, giải trí, v.v...
- Khai thác thuỷ sản nội địa
Là hoạt động khai thác nguồn lợi thuỷ sản trong các sông, hồ, đầm phá và các
vùng nước ngọt tự nhiên khác.Tổng sản lượng thuỷ sản khai thác nội địa hằng
năm dao động từ 200 đến 250 nghìn tấn. Đây là nguồn cung cấp thực phẩm
tại chỗ quan trọng cho dân cư, đồng thời cũng có nhiều sản phẩm quý.
3.3 Lĩnh vực chế biến thủy sản
Chế biến thuỷ sản được hiểu là chế biến tất cả các loài thuỷ sản nước ngọt,
nước lợ và nước mặn thu hoạch từ hoạt động khai thác thuỷ sản và nuôi trồng
thuỷ sản. Chế biến thuỷ sản được phân thành hai nhóm sau:
- Chế biến phục vụ tiêu dùng nội địa
Là hoạt động chế biến thuỷ sản nhằm phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Những năm trước đây, do phải nhập dây chuyền đồng bộ từ nước ngoài nên
chi phí cho hoạt động chế biến nội địa tương đối cao, giá thành sản phẩm
không phù hợp với sức mua của người dân trong nước. Gần đây, ngành thuỷ
sản đã chủ động phát triển công nghiệp cơ điện lạnh phục vụ thiết bị cho chế
biến thuỷ sản nội địa nên tình trạng này đã được khắc phục. Mặt khác, do
mức thu nhập tăng nên nhu cầu tiêu thụ cũng tăng theo, nhiều sản phẩm thuỷ
sản chế biến đã không còn phân biệt ranh giới giữa tiêu dùng nội địa và xuất
khẩu.
- Chế biến sản phẩm xuất khẩu
Là hoạt động chế biến thuỷ sản nhằm mục tiêu xuất khẩu thu ngoại tệ.

Trước những nguy cơ và thách thức mới, các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản
xuất khẩu của Việt Nam đã không ngừng đổi mới phương thức quản lý và tác

11


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

phong làm việc, tích cực đầu tư máy móc và trang thiết bị hiện đại để tiến
hành qui trình tự động hoá sản xuất. Áp dụng các công nghệ tiên tiến trên thế
giới như công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ surimi, công nghệ ngủ
đông trong vận chuyển thuỷ sản tươi sống, công nghệ đông … Tập trung chế
biến các mặt hàng giá trị gia tăng như mặt hàng phi lê đông lạnh, sản phẩm
sẵn sàng để nấu hoặc sản phẩm ăn liền, nhờ đó tỷ trọng các mặt hàng này
trong tổng sản phẩm chế biến xuất khẩu đã tăng lên đáng kể
Nhờ việc tích cực áp dụng hệ thống quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm
nên số doanh nghiệp đạt các điều kiện an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn Việt
Nam ngày càng nhiều và đạt tiêu chuẩn tại các thị trường khó tính như Mỹ,
EU, Nhật Bản. Việt Nam tạo được thế đứng vững chắc trên thị trường thuỷ
sản thế giới.
3.4 Các lĩnh vực hoạt động khác
a. Hệ thống sản xuất giống
Đối với các loài cá nước ngọt truyền thống, hầu hết được sản xuất giống nhân
tạo, do đó nguồn giống tương đối ổn định, cơ bản đáp ứng được nhu cầu trong
nước. Hiện nay, cả nước đã có hơn 500 trại giống thủy sản nước ngọt, sản
xuất khoảng 12 tỷ con giống/năm (riêng ở miền Tây Nam Bộ có 145 trại, mỗi
năm cung cấp 4 tỷ con giống cá da trơn (cá tra, ba sa), hơn 5000 trại giống
tôm sú (sản xuất hơn 20 tỷ con giống/năm) và hàng nghìn trại giống sản xuất
giống các loài cá biển, giáp xác, động vật thân mềm, bò sát, lưỡng cư... cung
cấp con giống phục vụ nhu cầu phát triển nuôi trồng của nhân dân ở các vùng

sinh thái khác nhau. Công nghệ sản xuất những giống cá nước ngọt chủ lực đã
được phổ thông hóa, người dân và doanh nghiệp đã có thể tự sản xuất con
giống...
b. Sản xuất và cung ứng thức ăn

12


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Đến năm 2007 cả nước có hàng trăm cơ sở sản xuất thức ăn phục vụ nuôi
trồng thuỷ sản 40% nhu cầu tiêu thụ.
Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu tiêu thụ đang ngày một tăng lên nhanh
chóng cả về số lượng và chất lượng, thuỷ sản hiện nay còn là một trong những
loại sản phẩm xuất khẩu quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Giá trị kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản đã vượt quá 1 tỷ đô la Mỹ năm 2000 và đến năm
2003 đã đạt 2,2 tỷ đô la Mỹ ,năm 2007 lên đến 3,75 tỷ đô la tăng 12% so với
năm 2006
Thị trường xuất khẩu được mở rộng ra nhiều nước và vùng lãnh thổ ở cả 5
châu lục, trong đó Nhật Bản và Mỹ là hai thị trường dẫn đầu xuất khẩu, hàng
thủy sản xuất sang Nhật Bản đạt kim ngạch cao nhất, đạt 77.916.481 USD
(chiếm 17,54% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước tiếp đến thị
trường Hoa Kỳ đạt 66.684.088 triệu USD (chiếm 15,01 %), sau đó là các thị
trường Hàn Quốc, Đức, Tây Ban Nha, Trung Quốc …Trong lĩnh vực thương
mại thuỷ sản, Việt Nam chủ yếu tiến hành xuất khẩu, gần đây mới bắt đầu
nhập khẩu nhưng khối lượng còn hạn chế.
Tại thị trường trong nước, thuỷ sản tiêu thụ nội địa bao gồm phần lớn thuỷ
sản nước ngọt và một phần thuỷ sản nước mặn, đa số là sản phẩm giá thấp và
trung bình, chủ yếu là hàng tươi sống. Tuy nhiên, xu thế tiêu thụ sản phẩm giá
trị cao và sản phẩm chế biến đang tăng lên, đặc biệt là ở các thành phố, khu

du lịch. Người dân đã bắt đầu đòi hỏi hàng thuỷ sản có chất lượng cao, bao bì
đóng gói thuận tiện, các mặt hàng thuỷ đặc sản tươi sống, đông lạnh và đồ
hộp đang có sức tiêu thụ mạnh lên.
II. Đặc điểm của ngành nuôi trồng thủy sản
1. Khái niệm nuôi trồng thủy sản

13


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Ngành nuôi trồng thủy sản là một bộ phận của ngành thủy sản. Nuôi trồng
thủy sản nhằm mục đích cung cấp sản phẩm cho tiêu dùng của dân cư và cung
cấp nguyên liệu cho hoạt động chế biến thủy sản xuất khẩu
Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản góp phần vào giải quyết việc làm cho thanh
niên, lao động nông thôn, tạo được những mô hình kinh tế thuỷ sản ở các tỉnh
đem lại hiệu quả kinh tế cao… Bên cạnh đó hoạt động nuôi trồng thủy sản là
một bộ phận sản xuất có tính nông nghiệp nhằm duy trì bổ sung, tái tạo và
phát triển nguồn lợi thủy sản
2. Vai trò của nuôi trồng thủy sản
2.1 Thúc đẩy tăng trưởng
Đóng góp của nuôi trồng thủy sản trong sự tăng trưởng của nền kinh tế việt
nam là không thể phủ nhận. Sản phẩm thủy sản xuất khẩu ngày càng có giá tri
cao trên thị trường thế giới. Việc tiêu thụ những sản phẩm nảy trong nội địa
hay xuất khẩu đều giúp cho nhà nước thu được lợi nhuận góp phần không nhỏ
vào sự tăng trưởng của toàn ngành kinh tế. Bên cạnh đó nuôi trồng thủy sản
góp phần vào tạo việc làm tăng thu nhập hạn chế các tệ nạn xã hội. Nhìn
chung ngành thủy sản phát triển mở ra một cơ hội mới cho nền kinh tế của đất
nước
2.2 Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thủy sản

Các sản phẩm thủy sản ngoài phục vụ nhu cầu tiêu thụ trực tiếp của dân cư
thì môt phần lớn được cung cấp cho ác nhà mày chế biến làm nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến. Là một nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất khu
vực và thế giới, nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến của nước ta
hiện nay là rất lớn. Nguồn nguyên liệu được cung cấp từ hai phía : khai
thác và nuôi trồng thủy sản. Trong giai đoạn hiện nay thì hạn chế về khai
thác thủy sản do vấn đề về môi trồng thì nuôi trồng thủy sản đóng vai trò
chủ đạo trong việc cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Như vậy

14


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

nuôi trồng thủy sản đã đáp ứng được một cơ cấu mặt hàng đa dạng hơn góp
phần phát triển thương mại thủy sản
2.3 Cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu cầu cho xã hội
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cung cấp các sản phẩm thiết yếu
cho nhu cầu con người đó là lương thực và thực phẩm đây cũng là loại sản
phẩm có vai trò quyết định mọi hoạt động của con người. Nuôi trồng thủy
sản là ngành cung cấp sản phẩm dinh dưỡng cho con người như tôm cá, cua,
ghẹ ... Xã hội ngày càng phát triển đời sống của con người ngày càng được
nâng cao thì nhu cầu con người cũng càng lớn dần người ta sẽ hướng tới
những loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao bổ dưỡng và thủy sản là một
trong những sản phẩm như thế
2.4 Giải quyết việc làm và tăng thu nhập ,xóa đói giảm nghèo
Cùng với việc khai thác thủy sản thì nghề nuôi trồng thủy sản hàng năm
thu hút một lực lượng lao động đông đảo tham gia. Nuôi trồng thủy sản là
nghề được phát triển ở hầu hết các địa phương trong cả nước giải quyết một
lượng lớn lao động nông nghiệp hàng năm. Bên cạnh đó do hiệu quả của nuôi

trồng thủy sản cao hơn so với nhiều lĩnh vực khác trong nông nghiệp nên
cùng với vệc chuyển đổi sản xuất chuyển đổi từ diện tích trồng lúa, muối kém
hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản đã tạo ra nguồn thu nhập lớn góp phần nâng
cao mức sống dân cư
2. 5 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong xu thế đất nước đang chuyển mình hòa nhịp vào nền kinh tế quốc tế
nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng có sự phát triển trong thấy. Phát triển
nuôi trồng thủy sản là một trong những biện pháp nhằm thực hiện chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn .Bên cạnh đó phát triển nuôi trồng thủy
sản cũng đã thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế tham gia như
doanh nhiệp Nhà Nước, doanh nghiệp tư nhân ... đặc biệt sự tham gia của các

15


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

hộ gia đình nông thôn thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân. Nuôi trồng thủy
sản phát triển bền vững cũng kéo theo sự phát triển ngành dịch vụ và công
nghiệp. Như vậy phát triển nuôi trồng thủy sản đã góp phần đưa nền kinh tế
việt nam tiến tới một cơ cấu bền vững và tiến bộ hơn .
3. Đặc điểm của hoạt động nuôi trồng thủy sản
3.1

Nuôi trồng thủy sản mang tính thời vụ

Do thủy sản có quy luật sinh trưởng và sinh trưởng riêng nên dẫn tới trong
hoạt động nuôi trồng mang tính mùa vụ rõ rệt. Theo Lenin thì tính thời vụ thể
hiện ở chỗ thời gian lao động không ăn khớp với thời gian sản xuất vậy nên
người lao động luôn phải tuân theo quy luật riêng đó. Tính thời vụ trong nuôi

trồng thủy sản đã dẫn đến tình trạng người lao động có lúc rất bận rộn có
những lúc lại nhàn rỗi. Đặc điểm này đòi hỏi trong nuôi trồng thủy sản một
mặt phải tôn trọng tính thời vụ, mặt khác phải giảm bớt tính thời vụ bằng cách
cần tập trung nghiên cứu các giống loài thủy sản có thời gian sinh trưởng
ngắn để có sản xuất nhiều mùa vụ
3.2 Nuôi trồng thủy sản mang tính vùng rõ rệt
Nuôi trồng thủy sản phát triển rộng khắp cả nước và tương đối là phức tạp so
với các ngành sản xuất khác, ở đâu có nước là ở đó có hoạt động thủy sản.
Vậy nên nuôi trồng thủy sản phát triển rộng khắp tại mọi vùng địa lý từ miền
núi xuống miền biển. Thủy sản rất đa dạng về giống loài mang tính địa lý có
quy luật của từng vùng từng nơi. Mỗi vùng mỗi quốc đều có những điều kiện
khí hậu, đất đai, nguồn nước khác nhau nên đặc điểm nuôi trồng thủy sản
cũng khác nhau.

3 .3 Đối tượng hoạt động nuôi trồng thủy sản là các sinh vật thủy sinh

16


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Cũng giống như sản xuất nông nghiệp đối tượng của nuôi trồng thủy
sản là các cơ thể sống. Chúng phát triển theo những quy luật nhất định của tự
nhiên nên cũng chịu ảnh hưởng của các điều kiện bên ngoài như gió, mưa,
bão lụt, hạn hán đều ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của chúng.
Chúng rất nhạy cảm với những biến động nhỏ của môi trường sống. Do vậy
nên cần tập trung chú ý điều kiện thời tiết thay đổi để có những biện pháp
nuôi dưỡng hợp lý tránh tình trạng thủy sản bị bệnh và lây lan toàn vùng ảnh
hưởng tới năng suất nuôi trồng
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản

4.1 Nhân tố tự nhiên
Mỗi sinh vật sinh sống trên trái đất này đều phụ thuộc vào những yếu tố tự
nhiên nhất định, các loài thủy sản cũng không phải là ngoại lệ. Nhân tố này
quyết định đến khả năng nuôi trồng các loài thủy sản trên từng vùng, từng
lãnh thổ, và ảnh hưởng lớn đến năng suất và sản lượng nuôi trồng thủy sản.
Các nhân tố tự nhiên như đất đai, khí hậu, thời tiết, gió, nhiệt độ, mưa ... đã
ảnh hưởng đến điều kiện sống, khả năng sinh sản và di trú của loài thủy sản.
Nhiệt đô đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng của sinh vật nói
chung và các loài nuôi trồng thủy sản nói riêng. Khả năng chống chịu của
chúng nằm trong khoảng giới hạn nhất định. Sự thay đổi nhiệt độ là điều kiện
phát sinh của nhiều loài dịch bệnh xảy ra cho các loài nuôi. Nhiệt độ tăng cao
ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng và phát triển của thủy sản. Tác động của
thời tiết cũng ảnh hưởng mạnh đến môi trường ao nuôi . Đối với nghề nuôi
thủy sản nuôi mặn lợ thì độ mặn là yếu tố ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng và
phát triển của loài nuôi. Khi mưa lớn độ mặn trong các ao nuôi giảm đi đột
ngột vượt ra khỏi khả năng chịu đựng làm cho tôm, cá bị sốc và chết hoặc
chậm lớn.

17


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Bên cạnh nhiệt độ, đất đai thì nguồn nước là yếu tố đặc biệt quan trọng đối
với các loài thủy sản bởi vì mỗi loài đều có những đặc điểm sinh lý, sinh thái
khác nhau như cá thì có cá nước ngọt, cá nước mặn và lợ dẫn tới mỗi loài đều
có những phương pháp khác nhau. Chính vì vậy để nuôi trồng thủy sản đạt
hiệu quả cao và phát triển bền vững phải chú ý giải pháp về môi trường, giải
pháp về quản lý, giải pháp về kỹ thuật nuôi trồng ... làm cơ sở để hạn chế sự ô
nhiễm nguồn nước mặt trên diện rộng, bảo vệ chất lượng môi trường nước

4.2 Nhân tố kinh tế xã hội và khoa học, kỹ thuật
Nuôi trồng thủy sản là ngành sản xuất vật chất với sản phẩm tạo ra là các
sản phẩm về thủy sản, quá trình từ tạo ra sản phẩm đến tiêu thụ sản phẩm đều
chịu ảnh hưởng từ các nhân tố xã hội, kỹ thuật như thị trường, công nghệ chế
biến, công nghệ nuôi, vấn đề về lao động dân cư... Nói đến vấn đề xã hôi thì
có thể nói rằng dân cư và lao động vừa là lực lượng sản xuất vừa là lực lượng
tiêu thụ các nông sản. Lực lượng sản xuất này là các cá nhân, hộ gia đình làm
việc trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó thì nhân tố khoa học kỹ
thuật đóng góp vai trò quan trọng trong sản xuất giống thủy sản mới, chất
lượng cao, sinh trưởng nhanh và khả năng chống chịu với các điều kiện ngoại
cảnh của thủy sản. Ngoài ra nhờ áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mà
người ta có thể kiểm soát và phòng trừ dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản,
phát triển và mở rộng ứng dụng các kỹ thuật hiện đại chẩn đoán và xử lý kịp
thời các bệnh nguy hiểm ở giống loài thủy sản
III. Tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản của Hà Tĩnh
1. Tiềm năng về diện tích nuôi trồng
Hà Tĩnh không những có nhiều lợi thế phát triển về cho các ngành kinh
tế mà còn là tỉnh có tiềm năng lớn về phát triển thủy sản đặc biệt trong nuôi
trồng thủy sản với tiềm năng về diện tích nuôi trồng lớn. Diện tích tiềm năng
nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh năm 2007 là 50.352 ha trong đó nuôi trồng thủy

18


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

sản nước ngọt là 40.120 và diện tích nuôi trồng thủy sản mặn lợ khoảng
10.232ha.
Đối với tiềm năng diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt tập trung ở các
huyện thuộc địa phận phía Tây của tỉnh ( chạy dọc theo dãy Trường Sơn) như

các huyện Cẩm Xuyên (4.620ha), Hương Khê trong đó tập trung ở hồ Kẻ Gỗ
nên khả năng đưa vào nuôi trồng là rất lớn đặc biệt trong kế hoạch nuôi quảng
canh cải tiến và nuôi lồng. Tiếp đến là huyện Can Lộc chủ yếu tại hai đập Cù
Lây, Kẻ Thờ Trại Tiểu ... nhưng loại hình chỉ hợp cho khai thác đánh bắt tự
nhiên
Bảng 1.1 : Diện tích tiềm năng NTTS nước ngọt của tỉnh Hà Tĩnh
STT

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Địa phương

Hương Sơn
Vũ Quang
Hương Khê
Đức Thọ
Nghi Xuân
TX Hồng Lĩnh
Can Lộc
Thạch Hà

Cẩm Xuyên
Thành phố Hà

Tổng

Ao hồ

Hồ

Mặt nước

Ruộng

Thùng

cộng

nhỏ

đập

lớn

trũng

đấu

1.230
410
1.110

1.740
1.640
250
4.300
1.960
5.660
360

310
90
180
260
480
80
380
190
250
60

230
80
200
110
70
20
150
240
160
60


340
190
500
140
260
10
620
510
4.620
90

310
50
200
1.200
830
140
2.700
970
340
90

20
0
10
20
0
0
0
50

280
30

Tĩnh
Kỳ Anh
1.460
130
190
630
460
Tổng cộng
20120 2410
1510
7910
7290
Nguồn : Phòng KHPT ngành – Sở kế hoạch và đầu tư Hà Tĩnh

0
410

Bên cạnh các loại hình nuôi ao hồ thì còn có loại hình nuôi ruộng trũng
khá phát triển với tổng diện tích tiềm năng 7.290 ha. Hiện nay loại hình tiềm

19


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

năng này đang phát triển rất mạnh nhất là các huyện vùng bán sơn địa đồng
bằng và vùng ven sông. Điển hình nhất là các huyện Can Lộc, Đức Thọ ...

Hình thức này chủ yếu phát triển cá lúa kết hợp và một phần nhỏ diện tích đã
chuyển đổi sang ao nuôi chuyên canh ở mức thâm canh cao.
Các loại hình tiềm năng khác như sông cụt ven sông. Tổng diện tích
tiềm năng đạt 590 ha tập trung chủ yếu ở các huyện Can Lộc đặc biệt các
vùng hạ lưu sông Nghèn sau khi được ngọt hóa diện tích đất ven sông này dẽ
phát triển nuôi là rất lớn và đầy triển vọng
Với lợi thế có chiều dài 137 km chiều dài đường biển vùng nội địa có
hệ thống sông ngòi dày đặc đổ ra 4 cửa sông lớn: cửa Hội cửa Sót cửa
Nhượng và cửa Khẩu tạo nên các vùng sinh thái có khả năng phát triển nuôi
trồng thủy sản mặn lợ. Tiềm năng diện tích được phân bố tại các huyện như
huyện Nghi Xuân 1357 ha, Can Lộc 666 ha, Thạch Hà 1900 ha, Thành phố
Hà Tĩnh 140 ha, Cẩm Xuyên 624 ha, Kỳ Anh 2545 ha
Diện tích đất cát 1300 ha ven biển chủ yếu đang trồng phi lao để phát
triển được tiềm năng diện tích này đưa vào NTTS thì đòi hỏi vốn đầu tư và kỹ
thuật cao do vậy những năm tới để phát triển mở rộng diện tích NTTS mặn lợ
thì Hà Tĩnh chủ yếu chuyển đổi cơ cấu diện tích sản xuất lúa một vụ năng
suất thấp sang nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra dọc theo bờ biển 5 huyện thị ven
biển từ Nghi Xuân đến Kỳ Anh từ bờ ra khoảng 5 km là diện tích vùng biển
nông eo biển có độ sâu khoảng 2m - 20m nước, vùng biển nông có diện tích
247 km2. Nếu có điều kiện về khoa học công nghệ và vốn đầu tư thì sẽ khai
thác được vùng tiềm năng to lớn này để đưa vào nuôi cá biển lồng bè, nhuyễn
thể
Nhìn chung với điều kiện về tiềm năng địa hình và diện tích mặt nước
lớn tạo điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản của tỉnh. Trong thời gian

20


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục


tới nếu có sự đầu tư mạnh mẽ thì nuôi trồng thủy sản của tỉnh có sự phát triển
vượt bậc
2. Tiềm năng về giống loài thủy sản
Cùng với lợi thế về diện tích nuôi trồng thì Hà Tĩnh còn rất phong phú
về giống loài thủy sản với nguồn lợi loài cá nước ngọt khoảng trên 300 loài,
nguồn lợi từ cá nước mặn khoảng 100 loài, ngoài ra còn có khoảng 10 loài
tôm và rất nhiều họ nhuyễn thể như trai, hầu, nghêu, sò... Nguồn lợi giống
loài đa dạng về cả số lượng lẫn giống loài trong đó có nhiều loài có giá trị
kinh tế cao như tôm sú, tôm he, cua biển, mè, trắm cỏ ...Bên cạnh đó thành
phần giống loài sinh vật phù du, loài sinh vật đáy làm thức ăn cũng phong phú
và đa dạng như giáp xác, ấu trùng...
Bảng 1.2 : Nguồn lợi thủy sản ở Hà Tĩnh
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14


Cá song

Cá mú
Cá chim trắng
Cá rô phi
Cá thu
Cá trê
Cá trôi
Cá chép
Cá mè
Cá nhụ
Cá hồng
Cá tráp vàng
Cá quả
Cá trắm

Nhuyễn thể
Ngao
Trai
Hầu biển
Nghêu
Sò huyết
Ốc màu
Ốc nhảy
Ốc hương
Ốc đá
Vẹm xanh
Sò lông
Hải sâm
Hầu cửa sông

Tôm

Tôm chân trắng
Tôm sú
Tôm rảo
Tôm he
Tôm càng xanh
Cua
Ghẹ
Baba
ếch

Nguồn : Phòng kế hoạch phát triển kinh tế ngành
Từ bảng thống kê các loài trên thấy được rằng đối tượng nuôi trồng của
ngành thủy sản Hà Tĩnh cũng rất phong phú và đa dạng tạo điều kiện cho phát
triển nuôi trồng rộng khắp các huyện, thị xã trong tỉnh
3. Tiềm năng về lao động

21


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Theo số liệu thống kê dân số trung bình tỉnh đến năm 2007 là 1.290.000
người phân bố trong 10 huyện và 1 thành phố, 1 thị xã với tổng diện tích
6.026km2. Xét theo ngành kinh tế lao động trong các ngành nông –lâm – ngư
493.496 người chiếm 80.6% số lao động toàn tỉnh. Nguồn lao động làm việc
trong ngành thuỷ sản Hà Tĩnh khá lớn, 23.565 người, chiếm 3,8 % số lao
động toàn tỉnh, lực lượng lao động này chịu khó, cần cù, thông minh, có khả
năng tiếp thu tốt khoa học công nghệ mới. Trong thời gian tới nếu được đầu
tư lớn về khoa học kỹ thuật và đào tạo về nguồn nhân lực thì lao động Hà
Tĩnh trở thành nguồn lao động chủ yếu để phát triển tỉnh nói riêng và cả nước

nói chung.
IV. Sự cần thiết phải phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững
1.Khái niệm về phát triển bền vững
Phát triển bền vững xuất hiện trong Chiến lược bảo tồn Thế giới với
nội dung: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển
kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động
đến môi trường sinh thái học".
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo
Brundtland của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới: Phát triển bền
vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không
ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương
lai.... Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế
hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được
điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức
xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực
chính: kinh tế - xã hội - môi trường.

22


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Tuy nhiên trong nhiều thập kỷ trở lại đây mục đích cao nhất của con
người đó chính là sự phát triển vì vậy nên mỗi quốc gia đã không ngần ngại
làm ô nhiễm môi trường, khai thác triệt để mọi người tài nguyên của môi
trường để tìm lợi nhuận dẫn tới hàng loạt các vấn đề nghiêm trọng về môi
trường cần giải quyết trong thế kỷ này như ô nhiễm môi trường nước và
không khí, lũ lụt, hiệu ứng nhà kính …Trước tình hình đó đặt ra một yêu cầu
bức xức là tăng trưởng kinh tế và vấn đề môi trường, xã hội phải được giải
quyết một cách đồng bộ. Các quốc gia cần có những chiến lược phát triển

kinh tế hài hòa với mục tiêu bảo vệ môi trường lẫn phát triển xã hội. Phát
triển bền vững đòi hỏi con người phải làm ra nhiều hơn và tiêu dùng ít hơn,
thải ra ít hơn sử dụng tài nguyên hơn, thải ít khí thải hơn
2. Quan niệm phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản
Theo tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO)
năm 1992 đã khẳng định “ Phát triển bền vững Nông nghiệp là sự quản lý và
bảo tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm đảm bảo thõa mãn nhu cầu
ngày càng phát triển của con người cả cho hiện tại và mai sau. Sự phát triển
như vây của nền Nông nghiệp sẽ đảm bảo không làm tổn hại đến môi trường,
không làm giảm cấp tài nguyên, sẽ phù hợp về kỹ thuật và công nghệ, có hiệu
quả về kinh tế và được chấp nhận về phương diện xã hội ”
Ở nước ta, phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phát triển bền vững cũng đã được
đề cập tới như một yêu cầu cấp thiết trong hoạch định và tổ chức thực hiện
các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tất cả các
cấp, các ngành và các lĩnh vực. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước ta quan điểm phát triển đầu tiên được Đảng ta xác định là: Phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ thị 36/CT-TW ngày 25 tháng 6 năm
1998 của Bộ Chính trị: “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời

23


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” cũng đã yêu cầu các cấp, các
ngành, địa phương nắm vững và quán triệt quan điểm phát triển bền vững
trong các quyết sách và hành động của mình. Chỉ thị nêu rõ: Tăng trưởng kinh
tế phải đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải

thiện môi trường.
Như vậy cùng với quan điểm của thế giới về phát triển bền vững thì nước
ta đã có những chính sách và quyết định nhằm phát triển tất cả các ngành
nghề theo hướng bền vững cả về kinh tế xã hội và môi trường trong đó có
nuôi trồng thủy sản. Đảng ta đã đưa ra nhiều quan điểm mới về phát triển bền
vững của ngành thủy sản. Sự phát triển bền vững đó được đánh giá ở các mặt
đó là mặt kinh tế, xã hội, môi trường
Thể hiện về mặt kinh tế đó là sự ổn định trong tăng trưởng kinh tế
ngành trên cơ sở cân đối ngành với việc sử dụng các điều kiện nguồn lực hợp
lý đặc biệt trong sử dụng công nghệ sạch, cơ cấu GDP lành mạnh nhằm đảm
bảo cho tăng trưởng GDP ổn định lâu dài. Tỷ lệ đóng góp của ngành cao hơn,
ổn định hơn
Bên cạnh đó cần có sự ổn định trong cơ cấu của ngành thủy sản như
chuyển biến về cơ cấu nuôi trồng thủy sản cần tích cực hơn, chuyển dần từ
nuôi trồng những mặt hàng sơ chế có giá trị thấp sang những mặt hàng có giá
trị gia tăng cao hơn. Tỷ trọng của nuôi trồng thủy sản trong toàn ngành thủy
sản cần đạt tốc độ cao hơn và ổn định hơn góp phần thúc đẩy sự phát triển
chung của toàn ngành. Mặt khác sự bền vững về kinh tế của nuôi trồng thủy
sản còn thể hiện ở sự phát triển và ổn định thị trường đầu ra, một mặt giữ
vững và khai thác thị trường một mặt đổi mới công nghệ đáp ứng nhu cầu
ngày càng khắt khe của thị trường, nâng cao sức cạnh tranh của thủy sản Việt
Nam

24


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Bền vững trong ngành còn phải thể hiện ở mặt xã hội, sự phát triển của
nuôi trồng thủy sản cần đặt mục tiêu phát triển vì con người lên hàng đầu như

hạn chế khoảng cách giàu nghèo, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, đảm
bảo nguồn dinh dưỡng cho dân cư … Trong công cuộc xóa đói giảm nghèo
một mục tiêu hàng đầu phát triển bền vững về mặt xã hội, ngành thủy sản
trong giai đoạn vừa qua với định hướng đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản đã
được Đảng và Nhà Nước khẳng định là biện pháp hữu hiệu. Tác động của
nuôi trồng thủy sản đến chuyển đổi cơ cấu sản xuất tới xóa đói giảm nghèo
trong những năm qua là không thể phủ nhận, nhiều hộ gia đình thực hiện
chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp như trồng lúa, làm muối sang phát triển
ao hồ đầm để nuôi trồng thủy sản. Không chỉ làm tăng thu nhập cho những hộ
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất mà còn tạo công ăn việc làm cho các
hộ làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ cho nuôi trồng thủy sản như
thức ăn, con giống, buôn bán, chế biến …
Đi cùng với phát triển kinh tế xã hội đó là vấn đề về môi trường. Có thể nói
rằng môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tác
động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất: Môi trường tự nhiên (bao gồm cả
tài nguyên thiên nhiên) cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất xã
hội. Sự giàu nghèo của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều vào nguồn tài nguyên:
Rất nhiều quốc gia phát triển chỉ trên cơ sở khai thác tài nguyên để xuất khẩu
đổi lấy ngoại tệ, thiết bị công nghệ hiện đại,... Có thể nói, tài nguyên nói riêng
và môi trường tự nhiên nói chung có vai trò quyết định đối với sự phát triển
bền vững về kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương
Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân. Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong
đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các

25


×