Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Các biện pháp mở rộng thị trường kinh doanh bảo hiểm PVI duyên hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.74 KB, 91 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Được sự cho phép và giúp đỡ của Ban giám đốc của Công ty bảo hiểm
PVI Duyên Hải, tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn
đều được chỉ rõ nguồn gốc. Các số liệu chi tiết đều là những số liệu trung
thực, không sao chép, sửa chữa.
Hải Phòng, ngày 15 tháng 09 năm 2015
Tác giả

Vũ Đình Hải


ii
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy giáo TS.
Nguyễn Thái Sơn, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy cô giáo đã giảng dạy
tôi trong hai năm qua của hệ đào tạo sau đại học, chuyên ngành Quản trị kinh
doanh, những kiến thức mà tôi nhận từ các thầy cô là hành trang quý báu giúp
tôi hoàn thành khoá luận và trưởng thành hơn trong công việc cũng như trong
cuộc sống.
Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Đốc, các anh chị làm việc
tại Công ty bảo hiểm PVI Duyên Hải đã tạo điều kiện giúp đỡ và cho tôi
những lời khuyên bổ ích về chuyên môn cũng như thực tiễn trong quá trình
nghiên cứu.
Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả bạn bè, đồng nghiệp
nơi tôi công tác đã tạo điều kiện cho tôi có thời gian học tập, nghiên cứu.Và


đặc biệt là những người thân trong gia đình, những người luôn động viên và
giúp đỡ tôi vượt qua mọi khó khăn trong nghiên cứu, học tập.
Hải Phòng, ngày 15 tháng 09 năm 2015
Tác giả

Vũ Đình Hải


iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Giải thích

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

CP

Cổ phần


CSH

Chủ sở hữu

DN

Doanh nghiệp

DT

Doanh thu

DTP

Doanh thu phí

KD

Kinh doanh

LN

Lợi nhuận

NN

Nhà nước

XNK


Xuất nhập khẩu


iv
MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................iv
Doanh thu các kênh phân phối của Công ty bảo hiểm PVI Duyên Hải giai đoạn 2010 –
2014........................................................................................................................................v
Doanh thu phí bảo hiểm gốc của thị trường bảo hiểm..........................................................vi
phi nhân thọ năm 2014..........................................................................................................vi

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Dẫn đầu thị trường về doanh thu phí bảo hiểm gốc là PVI với doanh thu ước đạt 5.722 tỷ
đồng, tăng 12,24% so với cùng kỳ năm 2013, chiếm 20,89% thị phần...............................45
Hình 2.2: Doanh thu phí bảo hiểm gốc của thị trường bảo hiểm.........................................45
phi nhân thọ năm 2014.........................................................................................................45
Tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc của thị trường phi nhân thọ năm 2014 ước đạt 27.391 tỷ
đồng, tăng 12,45% so với cùng kỳ năm 2013......................................................................45


v
DANH MỤC CÁC BẢNG

Số bảng
2.1
2.2
2.3
2.4


Tên bảng
Trang
Một số kết quả chỉ tiêu kinh tế năm 2014 tại Hải Phòng
41
Quy mô vốn chủ sở hữu của Công ty bảo hiểm PVI Duyên
50
Hải giai đoạn 2010 – 2014
Cơ cấu lao động của Công ty bảo hiểm PVI Duyên Hải
giai đoạn 2010 – 2014
Doanh thu các kênh phân phối của Công ty bảo hiểm PVI
Duyên Hải giai đoạn 2010 – 2014

52
58

2.5

Doanh thu phí bảo hiểm theo phòng nghiệp vụ

63

2.6

Doanh thu phí bảo hiểm theo nhóm khách hàng

64

2.7

Doanh thu phí bảo hiểm theo nghiệp vụ bảo hiểm

Tỷ lệ bồi thường bảo hiểm của công ty giai đoạn 2010-

66

2.8
2.9
2.10

2014
Một số vụ bồi thường bảo hiểm của công ty
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty giai
đoạn 2010-2014

68
69
70

DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hình

Tên hình

Trang


vi
2.1

Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty bảo hiểm


37

2.2

PVI Duyên Hải
Doanh thu phí bảo hiểm gốc của thị trường bảo hiểm

45

2.3

phi nhân thọ năm 2014
Thị phần doanh thu phí bảo hiểm gốc thị trường bảo

46

2.4

hiểm phi nhân thọ năm 2014
Tỷ trọng doanh thu theo nghiệp vụ bảo hiểm năm 2014

47

2.5

Thị phần bảo hiểm phi nhân thọ tại Hải Phòng năm

47


2014
2.6

Quy mô vốn chủ sở hữu của Công ty bảo hiểm PVI

50

Duyên Hải
2.7

Cơ cấu lao động theo giới tính của Công ty

52

2.8

Cơ cấu lao động theo trình độ của Công ty

52

2.9

Doanh thu các kênh phân phối của Công ty
Tỷ trọng doanh thu các kênh phân phối của Công ty
năm 2014

58

2.10


58


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rủi ro luôn luôn thường trực trong cuộc sống của con người. Để phòng
ngừa và hạn chế những tác hại của những rủi ro đó đem lại đối với con người,
bảo hiểm phi nhân thọ đã ra đời. Mục đích của bảo hiểm phi nhân thọ là sự
đảm bảo cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp an tâm về tài chính và tinh thần
khi không may gặp rủi ro.
Sự ra đời của bảo hiểm phi nhân thọ đã đáp ứng nhu cầu và sự đòi hỏi
cấp thiết của nhiều đối tượng tham gia, cũng như nhiều đối tượng bảo hiểm,
đồng thời có tác dụng lớn trong việc phát triển thị trường bảo hiểm nói chung
và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng.
Ở Việt Nam, bảo hiểm phi nhân thọ đã bắt đầu hình thành từ năm 1965.
Từ 1965 đến 1994 là thời kỳ bảo hiểm phi nhân thọ hoàn toàn hoạt động độc
quyền với một doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước duy nhất. Do vậy, ảnh
hưởng của nó đến nền kinh tế rất hạn chế.
Bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngành bảo
hiểm Việt Nam được đánh dấu bằng Nghị định 100/NĐ-CP, ban hành ngày
18 tháng 12 năm 1993 về kinh doanh bảo hiểm. Theo đó, đã ra đời một số
công ty bảo hiểm và thị trường bảo hiểm Việt Nam mới bắt đầu hình thành,
hoạt động và bước đầu đáp ứng được một số nhu cầu của các tổ chức, cá nhân
trong xã hội. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ nói riêng còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục, đổi mới.
Từ cuối năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương
mại thế giới WTO. Điều này đã mở ra cho nước ta những cơ hội lớn để phát
triển song cũng đặt nước ta trước những thách thức và khó khăn không nhỏ.
Trong những cam kết đa phương và song phương với các nước trên thế giới

để gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm.
Điều đó đã đặt các doanh nghiệp dịch vụ bảo hiểm vào quá trình cạnh tranh


2
gay gắt không chỉ giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn với các doanh
nghiệp nước ngoài.
Khi thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường hội nhập quốc tế, thị
trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam đã phát triển vượt bậc cả về số lượng và
chất lượng, đánh dấu một bước chuyển căn bản từ một thị trường độc quyền
nhà nước sang một thị trường cạnh tranh với sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế hoạt động trong tất cả các lĩnh vực bảo hiểm.
Tuy nhiên, việc mở cửa lĩnh vực bảo hiểm cũng đặt ra những đòi hỏi mới
đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Đây chính là lý do tại sao các
doanh nghiệp trong nước dù vẫn đang giành thế áp đảo về doanh thu phí bảo
hiểm phi nhân thọ và duy trì vị trí đứng đầu về doanh thu phí bảo hiểm nhân
thọ nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, trong đó các doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ vẫn đang đứng trước những thách thức không nhỏ về
khả năng bị thu hẹp thị phần và mất đi thế cạnh tranh trên sân nhà.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, tác giả đã chọn chủ đề: “Các biện
pháp mở rộng thị trường kinh doanh bảo hiểm PVI Duyên Hải” làm đề tài
luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về bảo hiểm, thị trường bảo hiểm,
các tiêu chí đánh giá sự phát triển của thị trường bảo hiểm và các nhân tố ảnh
hưởng tới hoạt động của thị trường bảo hiểm.
- Đánh giá thực trạng thị trường kinh doanh bảo hiểm của Công ty bảo
hiểm PVI Duyên Hải.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm mở rộng thị trường kinh doanh bảo
hiểm PVI Duyên Hải.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu thị trường kinh
doanh bảo hiểm của Công ty bảo hiểm PVI Duyên Hải.


3
- Phạm vi nghiên cứu: Do thời gian có hạn nên bài viết chỉ tập trung
nghiên cứu thị trường kinh doanh bảo hiểm trong khoảng thời gian từ năm
2010 - 2014 của Công ty bảo hiểm PVI Duyên Hải.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật và duy vật lịch sử;
phương pháp trìu tượng hoá khoa học, kết hợp với các phương pháp cụ thể
như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, nghiên cứu tổng kết thực tiễn và kế thừa
có chọn lọc những thành quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn trước đây liên
quan đến đề tài.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn tốt nghiệp gồm 3 chương sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận chung về thị trường kinh doanh bảo hiểm
- Chương 2: Thực trạng thị trường kinh doanh bảo hiểm của Công ty bảo
hiểm PVI Duyên Hải
- Chương 3: Một số biện pháp mở rộng thị trường kinh doanh bảo hiểm
của Công ty bảo hiểm PVI Duyên Hải


4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
KINH DOANH BẢO HIỂM
1.1. Khái quát về bảo hiểm
1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm
Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình thành,

phân phối và sử dụng các quỹ tập trung - quỹ bảo hiểm - nhằm xử lý các rủi
ro, các biến cố. Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của
xã hội được diễn ra bình thường.
Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số một ít
người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng
cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ
chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng
không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra.
Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro, thuộc nhóm biện pháp
tài trợ rủi ro, được sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thường là
tổn thất về tài chính, nhân mạng,...
Bảo hiểm được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng
một cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bảo hiểm.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên
từng góc độ nghiên cứu xã hội, pháp lý, kinh tế, kĩ thuật, nghiệp vụ...)
- Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít
- Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm
cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho
mình hoặc để cho một người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận
được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người
bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù
các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.


5
- Bảo hiểm cũng có thể hiểu là một phương sách hạ giảm rủi ro bằng
cách kết hợp một số lượng đầy đủ các đơn vị đối tượng để biến tổn thất cá thể
thành tổn thất cộng đồng và có thể dự tính được.
Tóm lại: Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được
hưởng trợ cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3

trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức
này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các
phương pháp của thống kê.
1.1.2. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có
nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên
nhân, ví dụ như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, rét, hạn hán,
sương muối, dịch bệnh…
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học và kỹ thuật.
Khoa học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất và tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc sống của con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai
nạn bất ngờ như tai nạn ô tô, hàng không, tai nạn lao động…
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân gây ra rủi ro cho con người. Chẳng hạn, nếu xã hội tổ chức quản lý chặt
chẽ, mọi người sống và làm việc theo pháp luật thì sẽ không xảy ra hiện
tượng thất nghiệp, trộm cắp. Nếu làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe sẽ hạn
chế được ốm đau, bệnh tật. Nếu mọi người có ý thức hơn thì sẽ giảm được các
rủi ro không đáng có như hỏa hoạn, bạo lực…
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con
người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại
nhiều tài sản, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân… làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội nói chung.


6
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau
nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây ra. Hiện nay, theo
quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi

ro và hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro và
nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro.
- Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp tránh né
rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được
sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
+ Tránh né được rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong
cuộc sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những
biện pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức loại trừ cơ hội dẫn
đến tổn thất. Chẳng hạn, để tránh các tai nạn giao thông người ta hạn chế việc
đi lại, để tránh tai nạn lao động người ta chọn những nghề không nguy
hiểm… Tránh né rủi ro chỉ với những rủi ro có thể né tránh được. Nhưng
trong cuộc sống có rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể tránh né được.
+ Ngăn ngừa tổn thất: Các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành
động làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hai do tổn thất gây ra. Ví dụ, để
giảm thiểu các tai nạn lao động, người ta tổ chức các khóa học nâng cao trình
độ của người lao động hay nâng cao chất lượng các hoạt động đảm bảo an
toán lao động, đề phòng chống hỏa hoạn người ta thực hiện tốt việc phòng
cháy chữa cháy…
+ Giảm thiểu tổn thất: người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các
biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất xảy ra. Ví dụ, như khi có hỏa
hoạn, để giảm thiểu tổn thất người ta cố gắng cứu các tài sản còn dùng được,
hay trong một tai nạn giao thông, để giảm thiểu các thiệt hại về người và của
người ta đưa ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu và điều trị…
Mặc dù các biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn
chặn hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể
lường hết được hậu quả.


7
- Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi

ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với
mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có.
+ Chấp nhận rủi ro: Đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất tự chấp
nhận khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro là tự
bảo hiểm. Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro,
tuy nhiên có thể phân chia làm hai nhóm: Chấp nhận rủi ro thụ động và chấp
nhận rủi ro chủ động. Trong chấp nhận rủi ro thụ động, người gặp tổn thất
không có sự chuẩn bị trước và họ có thể vay mượn để khắc phục hậu quả tổn
thất. Đối với chấp nhận rủi ro chủ động, người ta lập ra quỹ dự trữ dự phòng
và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất do rủi ro gây ra. Tuy nhiên,
việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu hoặc
nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất…
+ Bảo hiểm: Đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý
rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý
rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm
xã hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do
việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất
khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro
gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của
cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm
Bảo hiểm nói chung hay BHXH, BHYT, BHTN hay bảo hiểm thương
mại nói riêng đều mang những lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực.
- Trước hết bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia
trước những tổn thất do rủi ro gây ra. Rủi ro dù do thiên tai hay tai nạn bất
ngờ đều gây ra thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống, sản
xuất kinh doanh của các cá nhân, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, chưa kể
có lúc gây thiệt hại về người. Tổn thất đó sẽ được bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi



8
thường về tài chính để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn
định đời sống, sản xuất kinh doanh. Từ đó, họ khôi phục và phát triển sản
xuất kinh doanh và các hoạt động khác một cách bình thường. Tác động này
phù hợp với mục tiêu kinh tế nên thu hút được số đông người tham gia.
- Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống
con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi các nhân,
mỗi doanh nghiệp. Khi đã tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm
sẽ cùng với người tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn
thất rủi ro đã xảy ra. Cơ quan, công ty bảo hiểm đóng góp tài chính một cách
tích cực để thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro như tuyên truyền, hướng
dẫn các biện pháp phòng tránh tai nạn, mua sắm thêm các dụng cụ phòng
cháy chữa cháy; cùng ngành giao thông làm các biển báo, các đường lánh
nạn…
- Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước. Với quỹ
bảo hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, cơ quan, công ty bảo hiểm sẽ
trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia
để họ khôi phục đời sống, sản xuất kinh doanh. Như vậy, ngân sách Nhà nước
không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi
ro, tất nhiên trừ trường hợp tổn thất có tính thảm họa, mang tính xã hội rộng
lớn.
Mặt khác, hoạt động bảo hiểm nhất là bảo hiểm thương mại có trách
nhiệm đóng góp vào ngân sách thông qua các loại thuế, tức tăng thu cho ngân
sách.
- Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế
- xã hội. Dưới hình thức phí bảo hiểm, ngành bảo hiểm đã huy động được một
số lượng vốn khá lớn từ các đối tượng tham gia. Số vốn đó ngoài chi trả trợ
cấp hay bồi thường thiệt hại còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội.



9
Đặc biệt đối với bảo hiểm nhân thọ, nguồn vốn huy động được tích lũy
thời gian dài mới sử dụng để chi trả. Do đó, các công ty bảo hiểm có thể sử
dụng để kinh doanh bất động sản, mua trái phiếu…nghĩa là dùng đầu tư và
hoạt động kinh tế để sinh lời. Và như vậy góp phần tăng nguồn vốn cho nền
kinh tế, làm cho hệ thống tài chính sôi động hơn…
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các
nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm nội địa và thị
trường bảo hiểm quốc tế có mối quan hệ qua lại, thúc đẩy nhau phát triển
thông qua hình thức phân tán rủi ro - hình thức tái bảo hiểm giữa các công ty
của các nước. Như vậy, bảo hiểm còn góp phần phát triển quan hệ kinh tế
giữa các nước, vừa góp phần ổn định thu, chi ngoại tệ cho ngân sách.
- Bảo hiểm thu hút một số lượng lao động nhất định của xã hội, góp phần
giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. Đồng thời hoạt động bảo hiểm góp
phần giải quyết đời sống cho bộ phận lao động làm việc trong ngành bảo
hiểm; góp phần tạo ra một bộ phận tổng sản phẩm trong nước (GDP) của
quốc gia.
- Cuối cùng, bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức
kinh tế - xã hội; giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Bởi vì, với một giá khiêm tốn (phí bảo hiểm), bảo
hiểm có thể giúp đỡ các gia đình, các tổ chức khắc phục hậu quả những hậu
quả khôn lường.
Chính vì vậy, ông Wiston Churchill - một chính khách đã nói: “Nếu có
thể, tôi sẽ viết từ “Bảo hiểm” trong mỗi nhà và trên trán mỗi người. Càng
ngày tôi càng tin chắc rằng, với một giá khiêm tốn bảo hiểm có thể giải phóng
các gia đình ra khỏi thảm họa không lường trước được”.
1.1.4. Đặc điểm của bảo hiểm
1.1.4.1. Đặc điểm chung
Bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng và bảo hiểm nói chung có đặc điểm là

ngành dịch vụ đặc biệt bởi:


10
* Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vô hình
Sản phẩm bảo hiểm, về bản chất là một dịch vụ, một lời hứa, một lời
cam kết mà công ty bảo hiểm đưa ra với khách hàng. Khách hàng đóng phí để
đổi lấy những cam kết bồi thường hoặc chi trả trong tương lai.
Khác với sản phẩm vật chất mà người mua có thể cảm nhận được qua
các giác quan, người mua sản phẩm bảo hiểm không thể chỉ ra màu sắc, hình
dáng, kích thước hay mùi vị của sản phẩm. Họ cũng không thể cảm nhận
được bằng các giác quan như cầm nắm, sờ mó, ngủi hoặc nếm thử…
Để khắc phục những khó khăn đó, cũng là để củng cố lòng tin của khách
hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm tìm cách tăng tính hữu hình của sản phẩm:
chú ý những lợi ích có liên quan đến dịch vụ; sử dụng những người nổi tiếng,
có uy tín tuyên truyền dịch vụ; phát triển hệ thống đại lý chuyên nghiệp; xây
dựng uy tín của công ty bảo hiểm; tăng cường vai trò quan trọng của hoạt
động marketing. Như vậy, lòng tin và chất lượng dịch vụ khách hàng chính là
chìa khóa để bán sản phẩm bảo hiểm.
* Bảo hiểm có chu trình kinh doanh ngược
Khác với chu trình sản xuất hàng hóa thông thường, khi giá cả được
quyết định sau khi đã biết được chi phí sản xuất ra hàng hóa đó. Như vậy, các
doanh nghiệp sản xuất hàng hóa hữu hình phải bỏ vốn ra trước, mua các máy
móc, nguyên vật liêu, thuê nhân công thì mới sản xuất ra sản phẩm và thực
hiện quy trình đưa sản phẩm đến người tiêu dùng, khi sản phẩm đó bán được
doanh nghiệp mới thu tiền về, trong khoản tiền này bao gồm cả vốn doanh
nghiệp bỏ ra và lãi doanh nghiệp nhận được. Còn doanh nghiệp bảo hiểm
không phải bỏ vốn trước, họ nhận phí bảo hiểm trước của người tham gia bảo
hiểm đóng góp và thực hiện nghĩa vụ sau với bên được bảo hiểm khi xảy ra sự
cố bảo hiểm. Do vậy, không thể tính được chính xác hiệu quả của một sản

phẩm bảo hiểm vào thời điểm bán sản phẩm.
Thông thường, hợp đồng bảo hiểm được coi là có hiệu lực ngay sau khi
có sự chấp nhận của người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đã đóng phí


11
bảo hiểm đầy đủ theo hợp đồng. Phí bảo hiểm mà khách hàng đóng khi ký
hợp đồng chính là giá bán một hợp đồng bảo hiểm.
Ví dụ, công ty bảo hiểm B bán bảo hiểm tai nạn con người. Người tham
gia bảo hiểm đóng phí để mua dịch vụ bảo hiểm vào ngày đầu năm. Công ty
bảo hiểm B có ngay doanh thu từ đầu năm. Các hợp đồng bảo hiểm này sẽ kết
thức vào ngày cuối năm, khi đó trách nhiệm của các công ty bảo hiểm B trước
các tổn thất - theo như thỏa thuận trong hợp đồng - sẽ chấm dứt. Đến ngày
cuối năm, công ty bảo hiểm B mới có thể tính được chi phí triển khai dịch vụ
bảo hiểm này. Tương tự như vậy là chi phí hoạt động của công ty. Chu trình
kinh doanh của bảo hiểm có đặc điểm là công ty bảo hiểm định giá bán dịch
vụ của mình trước khi tính toán được chi phí mình bỏ ra.
Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đưa loại sản phẩm nào
ra thị trường. Nếu một sản phẩm đưa ra được đông đảo người mua chấp nhận,
công ty bảo hiểm sẽ thu về một khoản tổng phí bảo hiểm rất lớn. Khi rủi ro
xảy ra cho một số khách hàng nào đó, công ty bảo hiểm có đủ khả năng chi
trả mà không bị bội chi. Ngược lại, nếu chỉ có một số ít khách hàng chấp
nhận, tổng phí thu được nhỏ bé. Công ty bảo hiểm sẽ dễ rơi vào tình trạng thu
không đủ chi nếu như nhóm khách hàng đó có tỷ lệ rủi ro quá cao trong
khoảng thời gian các hợp đồng bảo hiểm còn có hiệu lực.
Mặt khác, chu trình kinh doanh ngược còn có tác dụng chi phối trách
nhiệm đề phòng hạn chế tổn thất của người được bảo hiểm khi họ đã được
một hợp đồng bảo hiểm bảo vệ. Bởi lẽ nếu tổn thất xảy ra ít, giá bán của các
hợp đồng bảo hiểm năm sau đó sẽ được giảm đi hay nói cách khác, khách
hàng sẽ được giảm phí), ngược lại, nếu tỷ lệ tổn thất lớn, khách hàng sẽ phải

trả phí cao hơn vào những năm sau.
* Tâm lý người mua hàng không muốn tiêu dùng dịch vụ này
Người mua bảo hiểm không mong muốn có sự kiện rủi ro ra để được xảy
nhận quyền lợi bảo hiểm dù rằng quyền lợi đó có thể nhiều hơn gấp bội lần so
với số phí phải đóng.


12
Quá trình mua sản phẩm bảo hiểm chịu sự chi phối của các yếu tố tâm
lý. Do chi phối bởi những tập tục, quan niệm có thể mang nặng yếu tố tâm
linh nên nói chung người mua không muốn nói đến rủi ro, không muốn thấy
cụ thể những hậu quả của rủi ro có thể được bảo hiểm, điểm hình nhất trong
bảo hiểm tử vong hay thương tật.
Nhưng ngược lại, người mua coi việc mua một sản phẩm bảo hiểm như
một chiếc bùa hộ mệnh, giúp họ yên tâm hơn về mặt tinh thần đồng thời có sự
đảm bảo về mặt vật chất khi điều không may xảy ra. Người bán cũng dễ bị ý
nghĩ chiều lòng, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mà thiếu sự cân nhắc cần
thiết cho việc lực chọn và đánh giá những rủi ro có thể đảm nhận.
Trong khi tiến hành giao dịch chào bán dịch vụ, cán bộ bảo hiểm phải
chú ý tới đặc điểm này để thuyết phục khách hàng khi họ nói không quan tâm
đến rủi ro và không mong muốn rủi ro xảy ra đối với họ. Bởi lẽ, tất cả đều
không mong muốn những tai nạn, tổn thất xảy ra. Mặt khác, bảo hiểm là tấm
lá chắn cho những điều không mong muốn này. Thông qua thực tế tình hình
thiên tai, tai nạn, cũng như giải quyết bồi thường tổn thất tại địa phương, để
minh chứng về lợi ích của bảo hiểm và sự cần thiết tham gia bảo hiểm.
1.1.4.2. Đặc điểm riêng
Ngoài những đặc điểm chung của bảo hiểm đã đề cập ở trên, bảo hiểm
phi nhân thọ còn có những đặc điểm riêng cơ bản sau:
- Thứ nhất: Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ là một hợp đồng có thời
hạn bảo hiểm thường là một năm hoặc ngắn hơn (như bảo hiểm cho một

chuyến hoạt động từ A đến B hoặc một chuyến du lịch ngắn ngày…)
- Thứ hai: Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ chỉ bồi thường và chi trả tiền
bảo hiểm khi có rủi ro được bảo hiểm xảy ra trong thời gian hợp đồng còn
hiệu lực
- Thứ ba: Phí bảo hiểm phi nhân thọ được tính cho thời hạn bảo hiểm,
thông thường phí tính cho từng năm bảo hiểm hoặc từng chuyến. Phí bảo
hiểm cho những năm tiếp theo sẽ có sự thay đổi. Phí bảo hiểm phi nhân thọ


13
còn phụ thuộc mức độ rủi ro. Ví dụ với điều khoản bảo hiểm nếu người tham
gia bảo hiểm giới hạn phạm vi bảo hiểm một vài rủi ro không tham gia thì phí
bảo hiểm được xem xét giảm đi, ngược lại nếu mở rộng bảo hiểm thêm một
số rủi ro phụ khác thì phí bảo hiểm sẽ tăng lên. Hoặc cùng một thời gian đi du
lịch là 2 ngày nhưng nếu tới khu du lịch có mức độ rủi ro lớn hơn, như vùng
núi rừng nguy hiểm thì phí bảo hiểm cao hơn.
- Thứ tư: Trừ các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ, còn các
nghiệp vụ khác như tài sản, trách nhiệm dân sự giữa người bảo hiểm, người
được bảo hiểm và người thứ ba có liên quan tới rủi ro bảo hiểm đều có mối
quan hệ về quyền lợi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.2. Khái quát về thị trường kinh doanh bảo hiểm
1.2.1. Khái niệm về kinh doanh bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm
mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của bên
mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả
tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho bên mua bảo hiểm
khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Như vậy, khái niệm này thể hieenj rõ
những nội dung sau:
- Mục đích kinh tế của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là lợi nhuận, đây
là mục đích chính mà các doanh nghiệp bảo hiểm hướng tới. Chỉ có thu được

lợi nhuận doanh nghiệp bảo hiểm mới có thể tồn tại và phát triển được trong
điều kiện kinh tế thị trường. Lợi nhuận giúp doanh nghiệp trang trải cho các
cá nhân và tổ chức cung cấp vốn cho họ. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể
thu hút được nguồn vốn của các nhà đầu tư khác nếu tỷ suất lợi nhuận của
doanh nghiệp bằng hoặc cao hơn loại hình đầu tư của họ trên thị trường. Mức
lợi nhuận cao còn giúp doanh nghiệp duy trì được nguồn dự phòng đủ lớn,
hạn chế sự chuyển nhượng tái bảo hiểm và có điều kiện để nâng cao mức thu
nhập cho cán bộ nhân viên. Bên cạnh mục tiêu chính là lợi nhuận, kinh doanh
bảo hiểm còn phải đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng, giúp khách


14
hàng nhanh chóng ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh khi không may
tổn thất, thiệt hại xảy ra đối với họ, đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối
với Nhà nước. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng giống như các tổ chức khác trong
xã hội rất mong muốn tạo dưng một xã hội an toàn và ổn định góp phần làm
cho xã hội thịnh vượng và phồn vinh. Điều đó thể hiện ở mục đích và những
mong muốn giảm bớt và phòng tránh các tổn thất về người và tài sản cho xã
hội bằng những việc làm cụ thể như: Thực hiện các biện pháp đề phòng và
hạn chế tổn thất; dịch vụ giám định tổn thất và tư vấn, các khuyến nghị về
công tác quản lý rủi ro, bồi thường nhân đạo… Ngoài ra, doanh nghiệp bảo
hiểm còn đóng góp và quỹ do các tổ chức y tế, giáo dục, các tổ chức xã hội
khác và hình thành các chương trình phúc lợi cho các CBCNV của bản thân
doanh nghiệp.
- Thực chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo
hiểm chấp nhận rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ. Đồng
thời chấp nhận trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho bên tham gia khi có các
sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đổi lại doanh nghiệp sẽ thu được phí bảo hiểm để
hình thành quỹ dự trữ, bồi thường, trang trải các khoản chi khác có liên quan
và có lãi. Tuy nhiên, không phải mọi rủi ro mà bên tham gia chuyển giao,

doanh nghiệp bảo hiểm đều có thể chấp nhận bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm
phải có những đặc trưng như: rủi ro xảy ra trong tương lãi; rủi ro có tính chất
bấp bênh; rủi ro không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người được bảo
hiểm; các rủi ro không thuộc phạm vi cấm của pháp luật…
- Kinh doanh bảo hiểm thường gắn liền với hoạt động kinh doanh tái bảo
hiểm. Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm
mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản phí bảo
hiểm khác để cam kết bồi thường cho các trách nhiệm đã nhận bảo hiểm. Như
vậy, hai loại hình kinh doanh này đều tồn tại ngay trong một doanh nghiệp
bảo hiểm. Trong đó, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là chủ yếu nhưng kinh
doanh tái bảo hiểm cũng nhất thiết phải đặt ra. Ngoài mục đích sinh lời, kinh


15
doanh tái bảo hiểm còn giúp doanh nghiệp bảo hiểm mởi rộng quan hệ với
các bạn hàng, tranh thủ nguồn vốn, học hỏi kinh nghiệm, nắm thêm thông tin,
hỗ trợ đào tạo cán bộ. Hơn thế nữa, đến lượt mình các doanh nghiệp bảo hiểm
còn phải thực hiện tái bảo hiểm để đảm bảo ổn định kinh doanh, tránh phá sản
trong những trường hợp mà đối tượng tham gia có số tiền lớn, hoạt động ở địa
bàn quá xa, doanh nghiệp không đủ khả năng tài chính và khả năng kiểm soát
rủi ro. Trong thực tế, có những doanh nghiệp chỉ chuyên tổ chức hoạt động
kinh doanh tái bảo hiểm nhưng số này bao giờ cũng ít hơn các doanh nghiệp
bảo hiểm. Hoạt dộng kinh doanh bảo hiểm còn bao gồm cả hoạt động trung
gian bảo hiểm như các hoạt động đại lý và môi giới bảo hiểm.
1.2.2. Khái niệm về thị trường bảo hiểm
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hóa.
Có rất nhiều quan điểm về thị trường và cũng đã có nhiều tài liệu bàn về thị
trường. Có thể nói quan điểm chung nhất về thị trường là “thị trường bao gồm
toàn bộ các hoạt động trao đổi hàng hóa được diễn ra trong sự thống nhất hữu
cơ với các mối quan hệ do chúng phát sinh gắn liền với một không gian nhất

định”.
Hành vi cơ bản của thị trường là hành vi mua và bán. Thông qua hoạt
đọng mua và bán hàng hóa (sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ), người
mua tìm được cái đang cần và người bán bán được cái mình có với giá thỏa
thuận. Hành vi đó được diễn ra trong một thời gian nhất định và tạo ra những
mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế - quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng,
quan hệ giữa cung và cầu, quan hệ giữa đối tác và cạnh tranh…
Quan hệ cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa các đối thủ cạnh tranh giữa
người bán với người mua, cạnh tranh giữa người mua với người mua, cạnh
tranh giữa người bán với nhau về chất lượng sản phẩm, về mẫu mã sản phẩm,
về giá cả sản phẩm… Cuộc cạnh tranh này phức tạp, sôi động, hấp dẫn, mang
lại niềm vinh quang cho các đối thủ biết tận dụng mọi khả năng lợi thế của
mình và biết loại trừ rủi ro.


16
Theo đặc trưng của sản phẩm (sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ),
thị trường cũng hình thành: Thị trường hàng hóa, thị trường sức lao động, thị
trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, thị trường dịch vụ…
Theo thuật ngữ bảo hiểm, thị trường bảo hiểm là nơi mua và bán các sản
phẩm bảo hiểm. Sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm dịch vụ đặc biệt; là loại
sản phẩm vô hình không thể cảm nhận được hình dáng, kích thước, màu
sắc… Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không được bảo hộ bản quyền, là sản
phẩm mà người mua không mong đợi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với mình
để được bồi thường hay trả tiền bảo hiểm (trừ bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm
nhân thọ)…
Tham gia vào thị trường bảo hiểm có người mua, tức khách hàng, người
bán và các tổ chức trung gian.
- Người mua - khách hàng: là những cá nhân hay tổ chức có tài sản, trách
nhiệm dân sự trước pháp luật, tính mạng hoặc thân thể có thể gặp rủi ro cần

bảo hiểm thì mua các dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm hoặc trực tiếp hoặc thông
qua các tổ chức trung gian. Khách hàng bao gồm khách hàng hiện tại và
khách hàng tiềm năng của một loại sản phẩm. Khách hàng hiện tại là khách
hàng đang tham gia quá trình mua và sử dụng sản phẩm đó. Khách hàng tiềm
năng là khách hàng có thể tham gia vào quá trình mua và sử dụng sản phẩm
đó trong tương lai. Khách hàng tiềm năng phải thỏa mãn các điều kiện:
+ Có nhu cầu về sản phẩm
+ Có khả năng tài chính
+ Là đối tượng thỏa mãn các điều kiện của sản phẩm
+ Người có thể tiếp xúc trực tiếp hoặc gián triếp với họ.
Những người hội đủ các điều kiện trên mới có thể trở thành khách hàng
tiềm năng.
- Người bán: là các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo tính chất sở hữu,
doanh nghiệp bảo hiểm có thể chia ra doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp
cổ phần, doanh nghiệp liên doanh…; theo quy mô tổ chức có thể chi ra tổng


17
công ty, công ty… Các doanh nghiệp bảo hiểm bán các sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ hoặc phi nhân thọ trực tiếp cho khách hàng hoặc thông qua các tổ
chức trung gian.
- Tổ chức trung gian là cầu nối giữa người mua với người bán. Tổ chức
trung gian gồm các công ty hoặc hãng môi giới và đại lý bảo hiểm. Công ty
hoặc hãng môi giới và đại lý bảo hiểm có đặc trưng về tổ chức và chức năng
khác nhau.
1.2.3. Đặc điểm của thị trường bảo hiểm
1.2.3.1. Đặc điểm chung
Thị trường bảo hiểm cũng như các thị trường khác, đều có những đặc
điểm chung, đó là:
* Cung, cầu về các loại sản phẩm luôn biến động

Cung về bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện. Các doanh
nghiệp ngày một nhiều và luôn đưa ra thị trường những sản phẩm mới thích
ứng với thị trường. Sản phẩm bảo hiểm ngày một nhiều và luôn gắn liền với
sự phát triển của khoa học kỹ thuật của nền kinh tế, của quá trình hội nhập và
toàn cầu hóa... Điều đó chứng tỏ sản phẩm bảo hiểm không dừng lại ở số ban
đầu mà luôn được cải tiến, hoàn thiện và sáng chế, phát minh ra cái mới.
Cầu về bảo hiểm của dân cư, của các tổ chức xã hội, của doanh nghiệp...
cũng không ngừng tăng lên. Khi nền kinh tế phát triển thì các tổ chức kinh tế
xã hội cũng phát triển theo; đời sống vật chất và tinh thần của dân cư cũng
được cải thiện... do đó, nhu cầu đa dạng về dịch vụ bảo hiểm cũng tăng lên.
Cung cầu về sản phẩm bảo hiểm phát triển song hành. Cầu tăng thì cung
tăng và ngược lại. Ở đây, không có hiện tượng mất cân đối giữa cung và cầu;
không có hiện tượng khủng hoảng thừa.
* Giá cả của sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố
Giá cả của bảo hiểm thực chất là phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm là số tiền
mà người mua - khách hàng nộp cho doanh nghiệp bảo hiểm trên cơ sở thỏa
thuận giữa người mua và người bán về một dịch vụ bảo hiểm nào đó. Phí bảo


18
hiểm được thỏa thuận giữa người mua và người bán, cũng có thể xem đó là
giá chấp nhận của thị trường về dịch vụ (hay sản phẩm) bảo hiểm. Phí bảo
hiểm bao gồm phí thuần và phụ phí (hoặc phí hoạt động trong bảo hiểm nhân
thọ). Phí bảo hiểm được tính toán trên cơ sở số tiền bảo hiểm (số tiền người
mua chấp nhận với người bán - người bảo hiểm đưa ra) với tỷ lệ phí bảo hiểm
(R).
Phí bảo hiểm luôn thay đổi theo thời gian. Bởi vì, mỗi thời gian có xác
suất rủi ro khác nhau, mức độ thiệt hại khác nhau; điều kiện bảo hiểm cũng
thay đổi theo nhận thức của con người... Mặt khác, những chính sách quản lý
của Nhà nước như chính sách thuế, lãi suất, hợp tác và liên kết... cũng ảnh

hưởng đến chi phí quản lý, đến chính sách đầu tư của các doanh nghiệp bảo
hiểm...
Như vậy, phí bảo hiểm (giá bảo hiểm) phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ngoài
những yếu tố trên, phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào quy luật cung cầu của thị
trường; quy luật cạnh tranh.
* Cạnh tranh và liên kết diễn ra liên tục
Thị trường bảo hiểm cũng như các thị trường khác, sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp để tranh giành khách hàng, để thu nhiều lợi nhuận diễn ra
liên tục, gay go, quyết liệt. Cạnh tranh diễn ra trên nhiều khía cạnh, thủ thuật.
Do đặc điển của sản phẩm bảo hiểm là dễ bắt chước, không bảo hộ bản quyền
nên các doanh nghiệp bảo hiểm “đổ xô” vào những sản phẩm mà thị trường
chấp nhận (ngoài việc tung vào thị trường những sản phẩm mới) bằng cách
cải tiến để hoàn thiện sản phẩm đó hơn các doanh nghiệp khác; bằng cách
tuyên truyền quảng cáo sâu rộng, hấp dẫn để thu hút khách hàng và đặc biệt
giảm chi và tăng tỷ lệ hoa hồng để giành giật khách hàng, chiếm lĩnh thị
trường... Thực tế sôi động đó đã chứng minh khi thị trường bảo hiểm Việt
Nam có nhiều doanh nghiệp của các thành phần kinh tế tham gia.
Cùng với cạnh tranh là liên kết, cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng
phát triển. Liên kết thường diễn ra giữa các doanh nghiệp mới, còn yếu về


19
tiềm lực để tạo ra sức mạnh cạnh tranh; liên kết giữa các doanh nghiệp có thế
mạnh để hòa hoãn, cùng phát triển tránh gây thiệt hại cho nhau... Liên kết còn
diễn ra giữa các doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn để tăng sức mạnh
cho doanh nghiệp nhỏ, để đảm bảo an toàn trong cạnh tranh và cũng để tăng
thêm đồng minh cho doanh nghiệp lớn.
Liên kết còn là nhu cầu của thị trường bảo hiểm mới hình thành và phát
triển trong điều kiện thị trường thế giới đã ổn định, có tiềm lực. Liên kết cũng
là xu hướng của hội nhập và toàn cầu hóa.

Thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy mới hình thành và phát triển, nhưng
cạnh tranh cũng diễn ra gay gắt giữa các doanh nghiệp với đủ thủ thuật và
mánh khóe. Cạnh tranh cũng gây thiệt hại đáng kể cho một số doanh nghiệp,
nhưng cũng mang lại thành công cho các doanh nghiệp có lợi thế... Để đảm
bảo quyền lợi của các doanh nghiệp trước sự cạnh tranh gay gắt, các doanh
nghiệp liên kết lại trong tổ chức “Hiệp hội bảo hiểm” để điều hòa giữ thế cân
bằng trong kinh doanh trước hiện tượng giảm phí và tăng tỷ lệ hoa hồng tùy
tiện; đồng thời tiến hành liên kết dưới hình thức liên doanh với các doanh
nghiệp nước ngoài để tăng tiềm lực kinh tế, và kinh nghiệm kinh doanh để mở
rộng thị trường...
* Thị phần các doanh nghiệp luôn thay đổi
Thị phần bảo hiểm là tỷ lệ phần trăm (%) của mỗi doanh nghiệp bảo
hiểm chiếm trong thị trường bảo hiểm. Thị phần của doanh nghiệp bảo hiểm
thường được tính theo doanh thu phí bảo hiểm của doanh nghiệp so với tổng
phí bảo hiểm thu được của toàn thị trường. Thị phần càng lớn thì chứng tỏ vị
trí doanh nghiệp càng cao, kết quả kinh doanh càng phát triển.
Nói đến thị phần là nói đến thị trường phát triển không còn mang tính
độc quyền. Ở đây, các doanh nghiệp bảo hiểm có cơ hội như nhau. Song,
doanh nghiệp nào giành được thị phần nhiều hơn là do doanh nghiệp đó làm
tốt công tác quảng cáo, tiếp thị; do chất lượng dịch vụ tốt hơn, phí bảo hiểm
có thể không thấp hơn...


×