Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 144 trang )

--6--

Trong mô hình nghiên cứu thực nghiệm được xây dựng, bên cạnh các biến độc lập
khác độ trễ bậc 1 của biến phụ thuộc FDI được xem là biến độc lập, nên về mặt lý
thuyết đây là mô hình hồi quy dữ liệu bảng động (Dynamic panel data models) có tồn
tại vi phạm tự tương quan, biến nội sinh. Ngoài ra, kết quả kiểm định đối với phương
pháp ước lượng OLS cho thấy trong mô hình còn tồn tại vi phạm phương sai thay đổi,
hiệu ứng tác động cố định hàm chứa trong sai số của mô hình. Do đó, phương pháp
ước lượng GMM sai phân được sử dụng nhằm khắc phục các vi phạm trên từ đó đạt
được kết quả ước lượng hiệu quả và tin cậy nhất, đồng thời phương pháp ước lượng
GMM sai phân còn phù hợp với dữ liệu bảng sử dụng cho nghiên cứu có đặc điểm thời
gian ngắn (T nhỏ) và mảng không gian lớn (N lớn). Kết quả kiểm định tính phù hợp
hồi quy theo phương pháp ước lượng GMM được thể hiện ở kết quả kiểm định Sargan
(hay còn được biết đến là kiểm định Hansen hoặc kiểm định J) và Arellano-Bond.
Quá trình phân tích áp dụng đối với hai loại dữ liệu hiện tại và quá khứ của các
biến độc lập trong mô hình. Từ kết quả kiểm định theo phương pháp ước lượng GMM
sai phân xác định mô hình đặc trưng cho Việt Nam và kiểm định các giả thuyết đặt ra
đối với các yếu tố ảnh hưởng thu hút FDI vào Việt Nam.
Hình 1 mô phỏng về trình tự thực hiện phương pháp nghiên cứu đối với mô hình
các yếu tố ảnh hưởng thu hút FDI vào Việt Nam.


--7--

Hình 1: Trình tự thực hiện phương pháp nghiên cứu đối với mô hình các yếu tố
ảnh hưởng thu hút FDI vào Việt Nam
(Nguồn: Tác giả tự mô phỏng)

- Cuối cùng, lập luận như đối với trường hợp Việt Nam nói chung mô hình nghiên
cứu thực nghiệm các yếu tố ảnh hưởng phân bố không gian vốn FDI giữa các địa
phương tại Việt Nam cũng được xác định là mô hình hồi quy dữ liệu bảng động. Do


đó, phương pháp nghiên cứu để ước lượng và kiểm định các giả thuyết đưa ra liên
quan đến các yếu tố ảnh hưởng phân bố không gian vốn FDI giữa các địa phương tại
Việt Nam sẽ được thực hiện tương tự.

6. Tính mới và đóng góp của luận án
Trên cơ sở tổng quan các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về yếu tố ảnh hưởng thu
hút dòng vốn FDI vào Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng phân bố không gian vốn FDI


--8--

giữa các địa phương tại Việt Nam, đây không phải là vấn đề mới và đã được một số
tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy vậy, hầu hết các nghiên cứu chưa tiến hành kiểm
định các vi phạm liên quan đến hiện tượng phương sai thay đổi, tự tương quan và biến
nội sinh, chủ yếu chỉ dừng lại ở phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS)
nên kết quả ước lượng chưa đáng tin cậy. Đặc biệt, chưa có mô hình nghiên cứu nào
sử dụng biến trễ FDI để nghiên cứu tác động lên dòng vốn FDI. Trong khi đó kết quả
nghiên cứu của Campos and Kinoshita (2003), Carstensen and Toubal (2004), Bellak
et al. (2008) và Anyanwu (2012) đã cho thấy đây là một biến quan trọng nên đưa vào
mô hình nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng thu hút FDI. Đối với các yếu tố ảnh hưởng phân
bố không gian vốn FDI giữa các địa phương tại Việt Nam, kết quả tổng quan cho thấy
chỉ có 3 nghiên cứu có liên quan của Meyer and Nguyen (2005); Nguyen and Nguyen
(2008) và Dinh (2009). Khác với các tác giả này sử dụng dữ liệu từ nhiều nguồn khác
nhau và không đồng nhất về mặt thời gian, trong luận án chỉ sử dụng dữ liệu thứ cấp
liên quan đến các biến từ một nguồn duy nhất là Tổng cục Thống kê trong giai đoạn
2005 – 2013 nên đảm bảo tính đồng nhất và đáng tin cậy, đồng thời sự cập nhật về dữ
liệu giúp kết quả ước lượng hứa hẹn sẽ có độ tin cậy cao hơn. Ngoài ra, theo kết quả
tổng quan cho thấy chưa có nghiên cứu nào quan tâm đến thông tin quá khứ có thể ảnh
hưởng đến việc phân bố vốn FDI giữa các địa phương tại Việt Nam. Kết quả kiểm
định ở chương 4 chứng tỏ đây lại là đặc trưng trong quyết định của các nhà đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam.
Trong nghiên cứu này, tác giả đã có những đóng góp mới về lý thuyết và thực tiễn
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam như sau:
 Về lý thuyết:
- Đối với trường hợp của Việt Nam, xác định không tồn tại tác động của biến trễ
bậc 1 FDI (FDI_1) lên biến phụ thuộc FDI.
- Trong phân bố không gian vốn FDI giữa các địa phương tại Việt Nam xác định
có tồn tại tác động của thông tin quá khứ các biến độc lập lên biến phụ thuộc FDI.


--9--

- Sử dụng biến tương tác nhằm nghiên cứu sự khác biệt về hệ số độ dốc các yếu tố
ảnh hưởng đối với FDI của Việt Nam trong so sánh tương đồng với các nước ASIA
24.
 Về thực tiễn:
- Cung cấp bằng chứng thực tế về đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài đối với
môi trường đầu tư Việt Nam hiện nay.
- Xác định mô hình đặc trưng đối với các yếu tố ảnh hưởng thu hút dòng vốn FDI
vào Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng phân bố không gian vốn FDI giữa các địa
phương tại Việt Nam. Kết quả cho thấy quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam không những bị chi phối bởi thông tin hiện tại mà còn bị chi phối bởi thông
tin quá khứ của các yếu tố ảnh hưởng.
- Dựa trên kết quả kiểm định theo phương pháp ước lượng GMM sai phân, có 3
trong 6 giả thuyết đưa ra liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng thu hút FDI vào Việt
Nam có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 10%. Theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài
đến Việt Nam là vì tác động khung chính sách, động cơ tìm kiếm thị trường và động
cơ tìm kiếm tài nguyên.
- Đối với các yếu tố ảnh hưởng phân bố không gian vốn FDI giữa các địa phương

tại Việt Nam, kết quả kiểm định theo phương pháp ước lượng GMM sai phân đối với
dữ liệu hiện tại và quá khứ đã không đủ cơ sở bác bỏ 4 trong 5 giả thuyết đưa ra, liên
quan đến chất lượng điều hành kinh tế của chính quyền địa phương, động cơ tìm kiếm
thị trường, động cơ tìm kiếm hiệu quả, và hiệu ứng tích tụ FDI. Các biến được kiểm
định có ý nghĩa thống kê bao gồm tỷ lệ lạm phát, dân cư thành thị, lực lượng lao động,
số học sinh trung cấp chuyên nghiệp và các biến giả phản ánh hiệu ứng tích tụ đối với
thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
- Từ kết quả đạt được trong quá trình phân tích một số gợi ý chính sách nhằm cải
thiện môi trường đầu tư cũng như tăng cường thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở cấp độ quốc gia và địa phương đã được đề xuất.
- Cuối cùng, việc dựa trên dữ liệu bảng của các nước ASIA 24 để phân tích các
yếu tố ảnh hưởng thu hút vốn FDI vào Việt Nam nên kết quả nghiên cứu không những


--10--

có thể cho thấy được động cơ của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam mà còn có thể
so sánh tương đồng với các quốc gia khác trong khu vực. Vì vậy kết quả nghiên cứu
hy vọng sẽ cung cấp một tầm nhìn “rộng hơn” cho các nhà hoạch định chính sách.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, hàm ý chính sách kết cấu luận án gồm các
chương sau:
Chương 1: Các yếu tố ảnh hưởng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: Lý
thuyết và nghiên cứu thực nghiệm
Nội dung chính của chương là nghiên cứu tổng quan về đầu tư trực tiếp nước
ngoài, các khung lý thuyết được xây dựng nhằm giải thích hoạt động đầu tư ra nước
ngoài của các công ty đa quốc gia và lý thuyết liên quan đến các yếu tố quyết định vị
trí đầu tư của các công ty này. Trên cơ sở khung lý thuyết được tóm tắt, tác giả đã tiến
hành tổng kết các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về yếu tố ảnh hưởng thu hút dòng

vốn FDI vào một nhóm nước, khu vực hay tại một quốc gia cụ thể. Đây chính là cơ sở
để xây dựng mô hình nghiên cứu, biến, dữ liệu và phương pháp nghiên cứu cho nội
dung phân tích các yếu tố ảnh hưởng thu hút FDI và các yếu tố ảnh hưởng phân bố
không gian vốn FDI giữa các địa phương tại Việt Nam trong chương 3 và chương 4.
Cuối cùng, từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng thu
hút FDI vào Việt Nam nói chung và các yếu tố ảnh hưởng phân bố không gian vốn
FDI giữa các địa phương tại Việt Nam nói riêng sẽ cho phép tác giả tìm ra khoảng
trống trong nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Nội dung chính của chương phản ánh thực trạng xu hướng, kết cấu dòng chảy FDI
vào Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2013 cũng như so sánh dòng vốn FDI vào Việt
Nam với các nước trong khu vực. Ngoài ra, trên cơ sở dữ liệu được thu thập từ cuộc
điều tra khảo sát trong 2 năm 2012 và 2013, kết quả phân tích đã phản ánh đánh giá
của các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam hiện nay.


--11--

Chương 3: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam
Trong chương này luận án đã đưa ra các giả thuyết cần kiểm định nhằm xác định
các yếu tố ảnh hưởng thu hút dòng vốn FDI vào Việt Nam. Trên cơ sở đó, xây dựng
mô hình lý thuyết cũng như mô hình nghiên cứu thực nghiệm kết hợp với các phương
pháp hồi quy khác nhau nhằm đưa ra kết quả kiểm định đáng tin cậy và hiệu quả nhất.
Vì hạn chế về dữ liệu của Việt Nam nên dữ liệu của các nước ASIA 24 (Việt Nam và
23 quốc gia đang phát triển thuộc khu vực Châu Á khác) đã được sử dụng cho mục
tiêu nghiên cứu này.
Chương 4: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng phân bố không gian vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Kế thừa kết quả phân tích trong chương 3, để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng

phân bố không gian vốn FDI giữa các địa phương tại Việt Nam luận án đã đưa ra 5 giả
thuyết cần kiểm định. Nhìn chung, kết quả kiểm định theo phương pháp ước lượng sai
phân GMM đã ủng hộ 4 trong 5 giả thuyết đưa ra liên quan đến chất lượng điều hành
kinh tế của chính quyền địa phương, động cơ tìm kiếm thị trường, động cơ tìm kiếm
hiệu quả và hiệu ứng tích tụ FDI. Liên quan giả thuyết 5, biến FDI_1 được kiểm định
không có ý nghĩa thống kê trong tác động lên biến phụ thuộc FDI ngay tại mức ý nghĩa
10%.
Chương 5: Hàm ý chính sách
Từ kết quả đạt được trong quá trình phân tích chương 2, 3 và 4, trong chương 5
một số gợi ý chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư cũng như tăng cường thu
hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở cấp độ quốc gia và địa phương đã được đề
xuất.


--12--

CHƯƠNG 1:

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI: LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
1.1. Giới thiệu
Trên nền tảng lý thuyết về yếu tố quyết định vị trí FDI tác giả đã tiến hành thống
kê các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về yếu tố ảnh hưởng thu hút dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại nhóm nước, khu vực hay tại một quốc gia. Cụ thể, tác giả tập
trung các nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng thu hút dòng vốn FDI vào nhóm nước đang
phát triển và chuyển đổi, trong khi đó ở cấp độ khu vực tập trung khu vực Châu Á và
Châu Phi. Trung Quốc và Ấn Độ với thành tựu nổi bật về tăng trưởng kinh tế và thu
hút dòng vốn FDI đã được tác giả lựa chọn nghiên cứu ở cấp độ quốc gia. Ngoài ra,
luận án có điểm qua một số nghiên cứu nổi bật về yếu tố ảnh hưởng thu hút FDI vào
Việt Nam nói chung và phân bố giữa các địa phương nói riêng. Cuối cùng, trên cơ sở

tổng quan nền tảng lý thuyết và kết quả các nghiên cứu thực nghiệm, tác giả tìm ra
khoảng trống từ đó định hướng vấn đề nghiên cứu.

1.2. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã (đang)
ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới. Theo đó đã có nhiều quan điểm được đưa ra
nhằm định nghĩa cho hành vi này:
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF, 1993): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là
hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với
một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước
chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp”.
Đối với quyền quản lý doanh nghiệp FDI, theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD, 1996) có thể thực hiện bằng các cách như: thành lập hoặc mở rộng một doanh
nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; mua lại toàn bộ
doanh nghiệp đã có; tham gia vào một doanh nghiệp mới; cấp tín dụng dài hạn (> 5
năm). Để có quyền kiểm soát nhà đầu tư cần nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền
biểu quyết trở lên.


--13--

Dunning (1970) sử dụng một định nghĩa ngắn cho các công ty đa quốc gia (MNEs)
là: "bất cứ công ty thực hiện hoạt động sản xuất tại nhiều hơn một quốc gia". Những
người khác, chẳng hạn như Vernon (1971) đã nhấn mạnh thêm vấn đề quy mô và cơ
cấu tổ chức của các MNEs. Cụ thể, “Các tập đoàn đa quốc gia là các công ty lớn tổ
chức các hoạt động của họ ở nước ngoài thông qua một bộ phận tổ chức tích hợp, được
lan truyền quốc tế và việc đầu tư của họ được dựa trên các sản phẩm và thị trường tiêu
thụ”.
Lý thuyết đã chỉ ra rằng FDI thường được hình thành và sinh ra từ sự tương tác
giữa lực lượng của nước chủ đầu tư và nước thu hút (ví dụ, Dunning, 1981, 1988;

UNCTAD, 2006). Dòng vốn FDI sẽ chảy từ nước này sang nước khác và FDI xảy ra
có thể chung qui là do ảnh hưởng của các yếu tố đẩy từ nước chủ đầu tư và yếu tố kéo
của nước thu hút. Một số yếu tố trong nước chủ đầu tư có xu hướng tạo động lực thúc
đẩy hành vi đầu tư ra bên ngoài của FDI nhằm tìm kiếm một thị trường tiềm năng hơn
hay tăng hiệu quả kinh doanh với chi phí sản xuất thấp hơn… ở nước thu hút. Sau đây
là bảng mô tả các yếu tố “đẩy” và “kéo” dẫn đến xu hướng đầu tư của FDI.
Bảng 1.1: Yếu tố điều kiện “Đẩy – Kéo” của FDI
Yếu tố “Đẩy” - Nước chủ đầu tư
1. Thị trường

Thị trường nước chủ đầu tư hạn

và Thương mại chế buộc công ty phải tìm kiếm một

Yếu tố “Kéo” - Nước thu hút
Thị trường lớn và phát triển là điều
kiện tốt để thu hút các nhà đầu tư.

thị trường mới.
2. Chi phí
sản xuất

Sự khan hiếm các yếu tố đầu vào

Nguồn lực tài nguyên sẵn có, chi

như nguồn tài nguyên, chi phí lao

phí lao động thấp giúp giảm chi phí


động cao gây ra xu hướng đầu tư ra

sản xuất nên sẽ hấp dẫn các nhà đầu

nước ngoài.

tư.

Xu hướng toàn cầu hóa và áp lực

Những Hiệp ước thương mại, Đầu

nghiệp địa

cạnh tranh từ các doanh nghiệp địa

tư song phương, đa phương tạo điều

phương

phương là động lực tác động công ty kiện thuận lợi cho vốn đầu tư nước

3. Doanh

tìm kiếm thị trường nước ngoài.

ngoài.


--14--


4. Thể chế

Chính sách hỗ trợ như cắt giảm

Chính sách ưu đãi thu hút đầu tư

chi phí, nâng cao các khả năng hoạt

như chính sách tự do hóa và tư nhân

động doanh nghiệp.

hóa, ổn định chính trị, quản trị minh
bạch, đầu tư cơ sở hạ tầng, quyền sở
hữu, v.v…

(Nguồn: UNCTAD, 2006)

Như vậy, FDI có thể xảy ra theo xu hướng tác động của cả hai nhóm yếu tố: yếu tố
“đẩy” của nước chủ đầu tư và yếu tố “kéo” của nước thu hút cùng với sự quan tâm từ
cả hai phía chính phủ của các quốc gia này. Các chính sách ưu đãi vốn đầu tư nước
ngoài được đưa ra bởi nước sở tại để thu hút vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu chỉ dựa
trên các yếu tố có lợi thế cạnh tranh cao, chẳng hạn như sự sẵn có của nguồn tài
nguyên thiên nhiên hoặc hứa hẹn lợi nhuận đầu tư cao hơn từ chi phí sản xuất thấp
hơn. Tuy nhiên, những chính sách khuyến khích đơn giản như vậy thường không đủ và
ít có tác động tốt trong việc thúc đẩy thu hút hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài. Nước
chủ đầu tư, tốt hơn hết, nên mở rộng sự hiểu biết của mình với một danh sách mở rộng
hơn các yếu tố thúc đẩy hoặc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, trong
khi đó nước thu hút cần tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, hiệu quả. Cuối

cùng tác động hỗ trợ từ cả hai phía hình thành những đặc điểm tiềm năng của dòng
vốn FDI trong tương lai. Một chính sách khuyến khích phải được xây dựng với sự cân
nhắc và nghiên cứu đầy đủ nhằm thu hút tối ưu hóa số lượng và chất lượng FDI.
Theo Điều 3 Luật đầu tư năm 2005 mà Quốc hội khoá XI Việt Nam đã thông qua
ngày 29-2-1987 có các khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài”,
“đầu tư ra nước ngoài” nhưng không có khái niệm “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy
nhiên, có thể “gộp” các khái niệm trên lại và có thể hiểu: “FDI là hình thức đầu tư do
nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt
Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở
nước ngoài theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan”.


--15--

1.3. Tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế
Trong quá khứ đã có rất nhiều nghiên cứu điều tra mối quan hệ giữa FDI và tăng
trưởng kinh tế. Kết quả cho thấy mối quan hệ giữa dòng vốn FDI và tăng trưởng kinh
tế là khá phổ biến. FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hai hướng: trực tiếp và gián
tiếp, trong đó tác động gián tiếp của FDI đến tăng trưởng kinh tế còn gọi là tác động
lan tỏa. Các nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp và cách tiếp cận vấn đề khác
nhau. Một số nghiên cứu đề cập việc đo lường tác động của FDI đến tăng trưởng kinh
tế nói chung theo cách tác động trực tiếp, trong khi những nghiên cứu khác lại tập
trung nghiên cứu tác động của FDI đối với hoạt động sản xuất, thương mại quốc tế,
đầu tư địa phương theo hướng tác động lan tỏa.
1.3.1. Tác động của FDI đối với hoạt động sản xuất
FDI sẽ tác động vào hoạt động sản xuất từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Điều này xuất phát từ lập luận cho rằng các công ty đa quốc gia sở hữu công nghệ sản
xuất tiên tiến nên sẽ “kích thích” nâng cao trình độ kỹ thuật – công nghệ trong nước.
Thật vậy, quá trình cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi

mới mình, nâng cao trình độ sản xuất để có thể tồn tại trên thương trường, nhất là khi
họ muốn đối đầu với những công ty đa quốc gia. Ngoài ra, các công ty đa quốc gia
thường sử dụng kỹ thuật quản lý hiện đại để tối đa hóa trong sử dụng các nguồn lực,
giảm chi phí sản xuất, do đó thu hút các công ty đa quốc gia sẽ tăng cường hiệu quả sử
dụng các nguồn lực bằng cách nâng cao năng suất, thúc đẩy khả năng cạnh tranh. Hơn
nữa, FDI góp phần cải thiện kỹ năng lực lượng lao động địa phương, hỗ trợ sử dụng
các phương tiện sản xuất hiện đại.
Theo Hong (1997), trong nghiên cứu điều tra (giai đoạn 1970-1990) tại Hàn Quốc
về vai trò của vốn đầu tư nước ngoài và vay thương mại trong thúc đẩy tăng năng suất
đã cho thấy hiệu ứng dòng chảy của vốn đầu tư nước ngoài tốt đối với năng suất hơn
so với vay thương mại. Hơn nữa, nghiên cứu nhấn mạnh rằng khu vực tư nhân ở Hàn
Quốc đã thành công trong việc thu hút vốn nước ngoài, đặc biệt là trong các lĩnh vực
như thăm dò dầu khí, điện tử và ngành công nghiệp nặng.


--16--

Blomström and Kokko (1996) đã đề cập đến vai trò tốt các công ty đa quốc gia
trong việc tăng năng suất sản xuất ở Kenya, đặc biệt là đóng góp của họ trong thúc đẩy
công nghệ tiên tiến đối với các công ty địa phương. Các kết quả tương tự cũng đã đạt
được trong các nghiên cứu tại Cameroon (Ghura, 1997) và tại Cộng hòa Séc (Djankov
and Hoekman, 2000).
Tuy nhiên, bên cạnh những nghiên cứu cho thấy tác động tốt của FDI đến năng
suất một số nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng FDI đã tác động không rõ ràng trong tất cả
các lĩnh vực kinh tế, ví dụ như nghiên cứu của Blomström and Kokko (1996); Kokko
et al. (1996); Hansen and Rand (2006); Blalock and Gertler (2008).
1.3.2. Tác động của FDI đối với thương mại quốc tế
Nhiều công ty đa quốc gia đạt được hiệu quả kinh doanh thông qua việc quảng
cáo, tiếp thị và bán các sản phẩm sử dụng thương hiệu uy tín. Nó tạo điều kiện thuận
lợi cho việc gia nhập của các công ty này vào thị trường nước ngoài. Ngày nay, sản

phẩm sản xuất ra phải đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế mới theo quy định của WTO,
tuy nhiên hầu hết các sản phẩm từ các nước đang phát triển không đáp ứng các tiêu
chuẩn này. Vai trò của FDI rất quan trọng trong việc giúp đỡ các nước đang phát triển
đạt được các tiêu chuẩn quốc tế cần thiết để cạnh tranh trong thị trường toàn cầu và
cũng để nâng cao chất lượng sản xuất trong nước.
Một số nghiên cứu đã điều tra mối quan hệ giữa FDI và thương mại quốc tế. Chen
and Chang (1995) tìm thấy mối quan hệ tốt giữa vốn FDI vào Trung Quốc và xuất
khẩu của Trung Quốc. Aitken et al. (1997) nhấn mạnh tác động tốt của các công ty đa
quốc gia đến các công ty địa phương thông qua lợi ích nhận được từ quá trình cung
cấp các dịch vụ cho các công ty đa quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông
tin và phân phối. Đối với Thái Lan, quốc gia này đã đạt được tăng trưởng bình quân
hàng năm 12,6% từ năm 1989 đến năm 1992, thành tựu này không thể không nói đến
sự đóng góp của các công ty đa quốc gia trong việc thúc đẩy xuất khẩu, đặc biệt là
trong các sản phẩm điện tử (Hoekman et al., 1996). Lutz et al. (2003) kiểm tra hiệu
ứng lan tỏa của FDI lên xuất khẩu và kết quả nghiên cứu đã không tìm thấy bất kỳ
bằng chứng nào về tác động lan tỏa xuất khẩu từ FDI. Đối với Việt Nam, trong nghiên


--17--

cứu của Anwara and Nguyen (2011) từ dữ liệu bảng của 19 đối tác thương mại lớn của
Việt Nam trong giai đoạn 1990-2007 cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa xuất khẩu,
nhập khẩu và dòng vốn FDI. Theo đó, dòng vốn FDI vào Việt Nam đã góp phần gia
tăng đáng kể cho cả hoạt động xuất khẩu lẫn nhập khẩu.
Những nghiên cứu khác đã tập trung vào nghiên cứu tác động của FDI vào tăng
trưởng kinh tế bằng cách nghiên cứu chiến lược phát triển ở nước đó là chiến lược
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hay hạn chế, thay thế nhập khẩu. Nghiên cứu của
Balasubramanyam et al. (1996) xem xét tác động của FDI vào tăng trưởng kinh tế ở
nước sở tại liên quan đến sự thay đổi trong chiến lược sản xuất. Ông thừa nhận rằng
đầu tư nước ngoài có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nước sở tại tùy theo loại

hình chiến lược sản xuất và ông kết luận rằng chính sách đẩy mạnh xuất khẩu sẽ thu
hút dòng vốn FDI, từ đó gia tăng xuất khẩu góp phần tăng trưởng kinh tế. Kết quả
phân tích của Alvarez and Lo'pez (2008) cũng cho thấy xúc tiến xuất khẩu là một
chiến lược đặc biệt hữu ích vì nó góp phần tác động lan tỏa năng suất. Tuy nhiên, ảnh
hưởng thực lên năng suất sẽ tốt khi và chỉ khi các chi phí chìm liên quan đến xuất khẩu
nhỏ hơn đáng kể so với hiệu ứng lan toả tốt.
1.3.3. Tác động của FDI đối với đầu tư địa phương
Khi nghiên cứu về tác động của FDI đến tăng trưởng, bên cạnh nghiên cứu tác
động của FDI đến sản xuất, thương mại quốc tế, một vấn đề quan trọng không kém là
nghiên cứu tác động của FDI đến đầu tư trong nước theo xu hướng FDI và đầu tư
trong nước hỗ trợ hay thay thế nhau. Một số nghiên cứu đã điều tra mối quan hệ này
với kết quả thu được là khác nhau. Trong một nghiên cứu ở Nhật Bản, Bayoumi and
Lipworth (1997) thấy rằng vốn đầu tư nước ngoài hỗ trợ vốn đầu tư địa phương chứ
không phải là thay thế nó. Năm 2003, Kim and Seo đã nghiên cứu mối quan hệ giữa
FDI, đầu tư trong nước và tăng trưởng kinh tế ở Hàn Quốc bằng cách sử dụng dữ liệu
quý giai đoạn 1985–1999, và áp dụng một số kỹ thuật chuỗi thời gian (mô hình VAR).
Phát hiện của họ đã không hỗ trợ việc FDI lấn át đầu tư trong nước tại Hàn Quốc.
Ngược lại, Fedderke and Romm (2006), với dữ liệu chuỗi thời gian (1960-2003) ở
Nam Phi, cho thấy rằng FDI tác động hỗ trợ đầu tư trong nước trong dài hạn, nhưng


--18--

trong ngắn hạn thì không. Gần đây, Tang et al. (2008) bằng cách sử dụng dữ liệu chuỗi
thời gian quý giai đoạn 1988-2003 đã phát hiện FDI có hiệu ứng bổ sung cho đầu tư
trong nước của Trung Quốc thông qua phổ biến công nghệ.
Tóm lại, các nghiên cứu trên cho thấy có nhiều kết luận khác nhau về tác động của
FDI đến tăng trưởng kinh tế. Vai trò của FDI thể hiện khác nhau giữa các quốc gia, có
thể là tốt, xấu, hoặc không đáng kể. Tác động này tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, thể
chế và công nghệ trong nền kinh tế của nước chủ nhà. Ngay cả trong một quốc gia, kết

luận vẫn chưa rõ ràng đối với các khoảng thời gian khác nhau trong quá trình quan sát
và phạm vi nghiên cứu. Tuy nhiên, nhìn chung dòng vốn FDI luôn được xem là một
yếu tố quan trọng có tác dụng hỗ trợ nguồn lực về vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý,
xuất khẩu… đặc biệt, tác động lan tỏa đã góp phần rất lớn trong tăng trưởng và phát
triển kinh tế các quốc gia đang phát triển.

1.4. Lý thuyết về yếu tố quyết định vị trí của FDI
1.4.1. Ở cấp độ quốc gia
Các lý thuyết về đầu tư nước ngoài được đề xuất chủ yếu thông qua việc quan sát
quá trình đầu tư nước ngoài của các công ty Hoa Kỳ, các công ty Nhật Bản và các
công ty đa quốc gia từ các nước phát triển khác kể từ cuối Thế chiến thứ II, và sự xuất
hiện của các công ty đa quốc gia ở các nước đang phát triển trong những năm gần đây.
Về bản chất, các lý thuyết đưa ra nhằm cố gắng trả lời các câu hỏi sau đây: Thứ nhất,
tại sao doanh nghiệp lựa chọn chuyển hoạt động của mình đến một nước khác? Thứ
hai, tại sao họ chọn làm điều này thay vì xuất khẩu hoặc cấp giấy phép? Cuối cùng, tại
sao họ chọn một vị trí trong một khu vực cụ thể? Sự phát triển theo trình tự thời gian
của các lý thuyết được thảo luận trong các nội dung ở phần sau.
1.4.1.1. Lý thuyết thương mại quốc tế (International Trade Theory)
Mô hình lý thuyết đầu tiên giải thích hoạt động đầu tư nước ngoài dựa trên lý
thuyết thương mại quốc tế là mô hình Heckscher-Ohlin do Heckscher (1919) và Bertil
Ohlin (1933) xây dựng. Theo Lancaster (1957, p 19) "lần đầu tiên mô hình HeckscherOhlin đã cung cấp một phân tích phù hợp các yếu tố thị trường vào lý thuyết thương
mại quốc tế". Đây là mô hình cân bằng tổng thể nhằm xác định lợi thế so sánh của một


--19--

quốc gia. Mô hình dùng để dự báo xem quốc gia nào sẽ sản xuất mặt hàng gì trên cơ
sở những yếu tố sản xuất sẵn có của quốc gia, đồng thời mô hình đưa ra kết luận sau:
Quốc gia có nhiều yếu tố đầu vào tốt hơn nên xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng yếu
tố đầu vào đó và nhập khẩu các sản phẩm thâm dụng yếu tố đầu vào kia, kết luận này

được gọi là Định lý Heckscher-Ohlin. Điều này cung cấp một lời giải thích ban đầu về
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.4.1.2. Lý thuyết về lợi thế độc quyền (The Theory of Firm-Specific Ownership
Advantages)
Lý thuyết này được khởi xướng bởi Hymer (năm 1960), đây là nỗ lực đầu tiên xây
dựng một lý thuyết độc lập nhằm giải thích xu hướng đầu tư nước ngoài. Hymer đưa ra
quan điểm của mình xuất phát từ các nền kinh tế công nghiệp và khẳng định rằng một
công ty muốn vượt qua các rào cản quốc tế, tham gia vào quá trình sản xuất khi công
ty phải có lợi thế độc quyền. Khi đầu tư ra nước ngoài, chủ đầu tư có một số bất lợi
như: khoảng cách địa lý làm tăng chi phí vận chuyển các nguồn lực, thiếu hiểu biết về
môi trường mới làm tăng chi phí thông tin, thiết lập mối quan hệ khách hàng mới và hệ
thống cung cấp mới cũng mất nhiều chi phí so với các công ty bản địa. Tuy vậy, họ
vẫn nên tiến hành đầu tư ra nước ngoài khi có những lợi thế độc quyền vì dựa vào
những lợi thế này họ có thể giảm được chi phí kinh doanh và tăng doanh thu so với các
công ty bản địa. Các lợi thế độc quyền có thể là công nghệ hay nhãn hiệu. Như vậy,
Hymer quan sát thấy rằng FDI xảy ra khi một công ty sở hữu lợi thế độc quyền hơn
các đối thủ cạnh tranh trong một ngành công nghiệp, cho phép các công ty gia nhập thị
trường ở các nước khác.
1.4.1.3. Lý thuyết vòng đời của sản phẩm (Product Life Cycle Theories)
Lý thuyết này được Hirsch đưa ra trước tiên năm 1965 và sau đó được Vernon
phát triển một cách có hệ thống từ năm 1966. Lý thuyết này lý giải cả đầu tư quốc tế
lẫn thương mại quốc tế, coi đầu tư quốc tế là một giai đoạn tự nhiên trong vòng đời
sản phẩm. Lý thuyết này cho thấy vai trò của các phát minh, sáng chế trong thương
mại và đầu tư quốc tế bằng cách phân tích quá trình quốc tế hoá sản xuất theo các giai
đoạn nối tiếp nhau. Ưu điểm của lý thuyết này là đưa vào được nhiều yếu tố cho phép


--20--

lý giải sự thay đổi theo ngành hoặc việc dịch chuyển dần các hoạt động công nghiệp

của các nước tiên phong về công nghệ, trước tiên là đến các nước "bắt chước sớm" sau
đó đến các nước "bắt chước muộn".
Theo lý thuyết này, ban đầu phần lớn các sản phẩm mới được sản xuất tại nước
phát minh ra nó và được xuất khẩu đi các nước khác. Nhưng khi sản phẩm mới đã
được chấp nhận rộng rãi trên thị trường thế giới thì sản phẩm bắt đầu được sản xuất ở
các nước khác. Kết quả rất có thể là sản phẩm sau đó sẽ được xuất khẩu trở lại nước
phát minh ra nó. Trên cơ sở nền tảng lý thuyết được đưa ra ta có thể mô phỏng lý

Quốc gia có
nhiều lợi thế

Sản lượng

thuyết vòng đời sản phẩm theo mô hình sau:
Sản xuất

Tiêu dùng
Sản phẩm mới

Sản phẩm chín muồi

Sản phẩm đạt tiêu chuẩn

Tiêu dùng
Sản lượng

Quốc gia có ít lợi
thế

Nhập khẩu


Xuất khẩu

Nhập khẩu
Sản phẩm mới

Sản phẩm chín muồi

Sản xuất

Xuất khẩu

Sản phẩm đạt tiêu chuẩn

Hình 1.1: Mô hình mô phỏng lý thuyết vòng đời của sản phẩm
(Nguồn: Tác giả tự mô phỏng)

1.4.1.4. Lý thuyết nội bộ hoá (Internalization Theory)
Lý thuyết nội bộ hoá do Buckley và Casson đưa ra năm 1976, lý thuyết này dựa
trên lý thuyết công ty của Coase (1937). Theo lý thuyết này, giao dịch bên trong công
ty (Internal Transaction-IT) tốt hơn giao dịch bên ngoài công ty (Market TransactionMT). IT tốt hơn MT khi thị trường không hoàn hảo: không hoàn hảo tự nhiên (khoảng
cách giữa các quốc gia làm tăng chi phí vận tải), không hoàn hảo mang tính cơ cấu
(rào cản thương mại như các tiêu chuẩn về sản phẩm, về môi trường; các yêu cầu liên
quan đến quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ). Khi thị trường không hoàn hảo như vậy,
công ty phải tự tạo ra thị trường bằng cách tạo ra Internal Market, sử dụng tài sản
trong nội bộ công ty mẹ – con, con – con. Lợi ích của việc nội bộ hoá là tránh được độ


--21--


trễ về thời gian, việc mặc cả khi mua bán và tình trạng thiếu thốn người mua. Nội bộ
hoá phải có những lợi ích lớn hơn chi phí phát sinh khi thành lập mạng lưới công ty
mẹ – con thì mới được sử dụng. Tuy nhiên lý thuyết này không giải thích lợi ích của
nội bộ hoá là gì (là lợi thế độc quyền), nó rất chung chung, không đưa ra được các
bằng chứng cụ thể và rất khó kiểm chứng.
1.4.1.5. Lý thuyết Eclectic Paradigm (OLI)
Đây là một mô hình được xây dựng khá công phu của Dunning (1977, 1979, 1981,
1988, 1996, 1998, 2000, 2001). Mô hình này đã tổng hợp các yếu tố chính của nhiều
công trình nghiên cứu trước đó nhằm lý giải về FDI. Theo Dunning, một công ty tiến
hành đầu tư nước ngoài khi có các lợi thế OLI - bao gồm Ownership Advantage (lợi
thế sở hữu), Location Advantage (lợi thế về vị trí), và Internalization Incentives (lợi
thế nội bộ hóa). Cụ thể, Dunning cho rằng các công ty có lợi thế sở hữu (O), (như
được thảo luận bởi Hymer) về các yếu tố cạnh tranh trong quá trình sản xuất so với các
đối thủ nước ngoài, chẳng hạn như bằng sáng chế, công nghệ mới, thương hiệu hoặc
khả năng quản lý nên duy trì lợi thế cho lợi ích riêng của họ thay vì bán hoặc cấp giấy
phép sử dụng lợi thế đó cho các công ty khác. Những công ty có lợi thế nội bộ hóa (I)
(như được thảo luận bởi Buckley và Casson) nếu ký kết hợp đồng với các công ty ở thị
trường nước ngoài là một lựa chọn nguy hiểm. Nó có thể dẫn đến tiết lộ lợi thế sở hữu
cụ thể cho các công ty ở thị trường nước ngoài, và do đó các công ty liên doanh hiện
tại có thể là đối thủ cạnh tranh tiềm năng trong tương lai. Bổ sung lợi thế về quyền sở
hữu và lợi thế nội bộ hóa, Dunning đưa thêm vào mô hình lợi thế về vị trí cụ thể (L).
Lợi thế vị trí cụ thể hàm ý rằng các công ty cần phải thu được lợi ích từ việc đầu tư tại
một vị trí ở nước ngoài, nếu không họ sẽ không cần phải thực hiện đầu tư ra nước
ngoài.
Tóm lại, mô hình OLI nhấn mạnh rằng một công ty nên đầu tư ra nước ngoài khi
có lợi thế sở hữu, cần phải nội bộ hóa trong công ty và thu được lợi ích từ vị trí ở nước
ngoài, cụ thể được thể hiện trong bảng 1.2.


--22-Bảng 1.2: Mô hình OLI đối với đầu tư quốc tế

Khuôn khổ Mô hình OLI

1. Lợi thế quyền sở hữu (O)
- Vốn
- Công nghệ
- Khả năng quản lý và tổ chức
- Khả năng tiếp thị
- Hiệp đồng các nền kinh tế
2. Yếu tố quyết định Lợi thế vị trí (L)
- Ổn định chính trị
- Chính sách của chính phủ về ưu đãi và khuyến khích đầu tư
- Cơ sở hạ tầng
- Khuôn khổ thể chế (thương mại, pháp lý, quan liêu)
- Lao động giá rẻ và có tay nghề cao
- Quy mô thị trường và khả năng tăng trưởng
- Điều kiện kinh tế vĩ mô
- Tài nguyên thiên nhiên
3. Lợi thế nội bộ hóa (I)
- Để giảm chi phí giao dịch
- Để tránh hoặc khai thác sự can thiệp của Chính phủ (hạn ngạch, kiểm
soát giá cả, chênh lệch thuế, v.v.)
- Để đạt được các hiệp đồng kinh tế
- Để kiểm soát nguồn cung cấp đầu vào
- Để kiểm soát các cửa hàng thị trường
(Nguồn: Dunning 1993, p 81)

Theo đó, “Mô hình OLI của Dunning đã cung cấp một khuôn khổ so sánh giữa các
lý thuyết bằng cách thiết lập mặt bằng chung, các điểm tiếp xúc giữa chúng, làm rõ
mối quan hệ giữa các cấp độ khác nhau trong phân tích và các câu hỏi của các nhà
kinh tế khác nhau đã được quan tâm để giải quyết" (Cantwell and Narula, 2001 p156).

Ngoài ra theo Galán and Benito (2001) mô hình OLI của Dunning đã cung cấp một
khuôn khổ toàn diện nhất để giải thích FDI, trong đó tập trung giải quyết thỏa đáng 3
câu hỏi đặt ra đối với hoạt động đầu tư nước ngoài của các công ty đa quốc gia: “Tại
sao phải đầu tư ra nước ngoài – Why?”; “Tại sao các công ty lại lựa chọn FDI thay vì
những hình thức khác – How?” và “Hoạt động đầu tư được đặt tại đâu – Where?”.


--23--

Hình 1.2: Mô hình các yếu tố ảnh hưởng quyết định đầu tư quốc tế

Theo Rugman and Verbeke (2001), mô hình OLI của Dunning được xem là khuôn
khổ khái niệm hàng đầu trong phân tích các yếu tố quyết định vị trí FDI thông qua hai
đóng góp quan trọng. Một là, lợi thế cạnh tranh về vị trí của các nước là khác nhau.
Đóng góp thứ hai của mô hình OLI cho phép xác định ba động cơ khác nhau của FDI:
tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên, tìm kiếm thị trường, và tìm kiếm hiệu quả. (1) Tìm
kiếm tài nguyên: đầu tư nước ngoài xảy ra khi các công ty xác định vị trí quốc gia có
nguồn tài nguyên thiên nhiên hấp dẫn, ví dụ như khoáng sản, các sản phẩm nông
nghiệp… (2) Tìm kiếm thị trường: các công ty đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm thị
trường tiêu thụ, nó có tác dụng thay thế nhập khẩu và hỗ trợ hoạt động thương mại
trong nước. (3) Tìm kiếm hiệu quả: đầu tư nước ngoài được thực hiện để thúc đẩy
chuyên môn hóa nguồn lực hiện có bao gồm lao động, tài sản ở trong nước và nước
ngoài của các công ty đa quốc gia hiệu quả hơn. Đây là loại hình đầu tư nhằm hợp lý
hóa hoạt động các công ty đa quốc gia và xu hướng chuyên môn hóa các chi nhánh
trong mạng lưới nội bộ của các công ty này (Dunning, 2000; Rugman and Verbeke,
2001).
Trên thực tế mô hình OLI của Dunning đã được sử dụng rộng rãi như là một
khuôn khổ lý thuyết toàn diện trong các nghiên cứu thực nghiệm nhằm xác định yếu tố
quyết định vị trí FDI cũng như giải thích các hoạt động của các công ty bên ngoài ranh
giới quốc gia. Nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên nhằm hỗ trợ khuôn khổ lý thuyết OLI

được thực hiện bởi Dunning and Queen (1981). Mẫu nghiên cứu bao gồm 81 công ty
đa quốc gia từ 22 quốc gia và 1.025 khách sạn nước ngoài. Kết quả nghiên cứu đã


--24--

cung cấp thông tin hữu ích trong giải thích lý do tham gia của các công ty nước ngoài
trong ngành công nghiệp, trong đó lợi thế sở hữu được xác định có ảnh hưởng lớn đến
các quyết định của họ. Năm 2001, cũng trên khuôn khổ mô hình lý thuyết OLI, Galán
and Benito cũng đạt được kết quả nghiên cứu tương tự về lợi thế sở hữu như Dunning
and Queen khi kiểm tra mẫu 103 công ty đa quốc gia Tây Ban Nha. Dựa trên cơ sở mô
hình lý thuyết OLI, Driffield (2002) đã phân tích những yếu tố ảnh hưởng thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào Vương quốc Anh. Kết quả nghiên cứu cho thấy bên cạnh lợi thế
sở hữu lợi thế vị trí cũng ảnh hưởng đến quyết định của các công ty nước ngoài. Gần
đây, Pheng and Hongbin (2006) đã nghiên cứu quyết định đầu tư của 31 công ty đa
quốc gia ngành xây dựng tại Trung Quốc trong năm 2001 nhằm hỗ trợ mô hình lý
thuyết OLI của Dunning. Những lợi thế sở hữu đã ảnh hưởng đến quyết định đầu tư
nước ngoài của các công ty Trung Quốc. Đối với lợi thế vị trí, kết quả nghiên cứu cho
thấy một nhóm lớn các công ty đa quốc gia Trung Quốc ở nước sở tại ảnh hưởng đến
quyết định của các công ty đa quốc gia Trung Quốc khác.
Đặc biệt, trên cơ sở khung lý thuyết OLI của Dunning, tổ chức UNCTAD (1998)
đã đưa ra ba nhóm yếu tố ảnh hưởng môi trường đầu tư của nước sở tại, trong đó bao
gồm nhóm yếu tố khung chính sách cho đầu tư nước ngoài; nhóm yếu tố kinh tế và
nhóm yếu tố thứ ba là tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi được thể hiện cụ thể trong
hình 1.3. Căn cứ vào ba nhóm yếu tố này tổ chức UNCTAD đã có các cuộc điều tra
thường niên từ năm 1998 cho đến nay nhằm đánh giá, xếp điểm cạnh tranh giữa các
quốc gia trong thu hút FDI. Đây là cơ sở rất quan trọng được các nhà khoa học cũng
như chính phủ các nước đánh giá cao trong việc sử dụng để đánh giá hiệu quả về cải
thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút FDI ở cấp độ quốc gia.



--25-Yếu tố ảnh hưởng của Nước sở tại

Các hình thức FDI dựa
trên động cơ

I. Yếu tố khung chính sách đối với FDI
• Chính sách kinh tế, ổn định chính trị và xã hội;
• Các quy định về nhập cảnh và hoạt động;
• Tiêu chuẩn về các chi nhánh nước ngoài;
• Chính sách về chức năng và cấu trúc của thị trường
(đặc biệt là cạnh tranh và chính sách M & A);
• Thỏa thuận quốc tế về FDI;
• Chính sách tư nhân;
• Chính sách thương mại (thuế quan và các NTBs)
và sự gắn kết của FDI với chính sách thương mại;
• Chính sách thuế.

A.Tìm kiếm
thị trường

B. Tìm kiếm
tài nguyên/tài sản

II. Yếu tố kinh tế
III. Yếu tố kinh doanh thuận lợi
• Xúc tiến đầu tư (bao gồm cả hoạt động xúc tiến và
các dịch vụ hỗ trợ đầu tư);
• Ưu đãi đầu tư;
• Chi phí phức tạp (liên quan đến tham nhũng, hiệu

quả hành chính, vv);
• Tiện nghi xã hội (trường học song ngữ, chất lượng
cuộc sống, vv.);
• Dịch vụ sau khi đầu tư.

C. Tìm kiếm
hiệu quả

.

Hình 1.3: Yếu tố ảnh hưởng môi trường đầu tư theo quan điểm của Tổ chức UNCTAD
(Nguồn: World Invesment Report 1998: Trends and Determinants, table IV.1, p. 91.)

Yếu tố kinh tế
của nước sở tại
• Qui mô thị trường và thu nhập
bình quân đầu người;
• Tăng trưởng thị trường;
• Gia nhập vào thị trường khu vực
và toàn cầu;
• Ưu đãi người tiêu dùng;
• Cấu trúc của thị trường.
• Nguồn nguyên liệu;
• Chi phí lao động thấp;
• Lao động lành nghề;
• Công nghệ;
• Cơ sở hạ tầng.
• Chi phí các nguồn lực và tài sản
được liệt kê theo B, điều chỉnh
cho năng suất lao động;

• Chi phí đầu vào khác (chi phí vận
chuyển, truyền thông, sản phẩm
trung gian);
• Thỏa thuận hiệp ước hội nhập khu
vực thuận lợi cho việc thành lập
mạng lưới khu vực của MNEs.


--26--

Hình 1.4: Tóm tắt các lý thuyết đánh giá yếu tố quyết định vị trí FDI
(Nguồn: Tác giả tự mô phỏng)


--27--

Tóm lại, mô hình OLI của Dunning cũng như những nghiên cứu thực nghiệm hỗ
trợ mô hình lý thuyết này đã cho thấy ảnh hưởng của lợi thế sở hữu (O), lợi thế vị trí
(L) và lợi thế nội bộ hóa (I) đến quyết định đầu tư ra nước ngoài của các công ty đa
quốc gia. Trong đó, lợi thế sở hữu (O) và lợi thế nội bộ hóa (I) phản ánh lợi thế thuộc
về các công ty đa quốc gia, nó nằm ngoài sự kiểm soát của nước thu hút đầu tư, ngược
lại lợi thế vị trí (L) lại là nền tảng cho sự can thiệp của chính phủ trong quá trình cải
thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, cụ thể theo UNCTAD có 3 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến môi trường đầu tư tại
một quốc gia bao gồm nhóm yếu tố về chính sách, nhóm yếu tố về kinh tế và nhóm
yếu tố về tạo điều kiện kinh doanh.
Trên cơ sở tổng quan, lý thuyết OLI về các yếu tố quyết định vị trí FDI sẽ được
lựa chọn làm nền tảng xây dựng mô hình nghiên cứu lý thuyết về các yếu tố ảnh
hưởng thu hút FDI vào Việt Nam trong chương 3 của luận án.
1.4.2. Ở cấp độ phân bố không gian vốn FDI giữa các địa phương trong quốc gia

Lý thuyết nền tảng đầu tiên liên quan đến các yếu tố phân bố không gian của FDI
giữa các vùng trong một quốc gia là lý thuyết Hiệu ứng tích tụ rất phổ biến của
Krugman (1991). Sự tích tụ đề cập đến sự tập trung về vị trí của các hoạt động kinh tế
làm phát sinh nền kinh tế quy mô và ngoại tác tích cực. Krugman lập luận rằng các
công ty sẽ được hưởng lợi từ các doanh nghiệp khác trong cùng ngành nằm ở những vị
trí vùng, khu vực lân cận bởi sự kết hợp quy mô sản xuất và chi phí vận chuyển, nó sẽ
khuyến khích người tiêu dùng và nhà cung cấp đầu vào trung gian co cụm gần nhau
hơn. Tích tụ sẽ giúp làm giảm tổng chi phí vận chuyển và hình thành các trung tâm sản
xuất lớn cũng như các nhà cung cấp đa dạng hơn. Điều này sẽ khuyến khích các doanh
nghiệp trong cùng một ngành công nghiệp tập trung tại một khu vực địa điểm. Tác
động tích tụ theo đó sẽ ảnh hưởng đến FDI thông qua một số cách: (1) đầu tư FDI tại
nơi các công ty khác trong cùng ngành tồn tại. (2) đầu tư FDI mới nằm gần các doanh
nghiệp FDI hiện có. (3) đầu tư FDI mới nằm gần các doanh nghiệp FDI có cùng quốc
gia xuất xứ.


--28--

Nền tảng lý thuyết thứ hai được tìm thấy liên quan các yếu tố lợi thế kinh tế
truyền thống, bao gồm các yếu tố như quy mô thị trường, chất lượng nguồn nhân lực,
cơ sở hạ tầng… có thể ảnh hưởng đến động cơ và hiệu quả đầu tư của các tập đoàn đa
quốc gia. Trong mô hình lý thuyết OLI của mình Dunning (1993) đã đề cập đến các
yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn vị trí của các doanh nghiệp FDI. Hầu như các yếu
tố kinh tế thường được tìm thấy có tác động ảnh hưởng thu hút FDI ở cấp độ địa
phương, chẳng hạn trong các nghiên cứu tại Hoa Kỳ của Coughlin et al. (1991) và
Head et al. (1995). Đối với Trung Quốc điển hình là các nghiên cứu của Chenga and
Kwan (2000); Sun et al. (2002) và Chen, 2009 cũng có kết quả tương tự.
Lý thuyết cuối cùng liên quan đến các yếu tố thể chế. Cũng giống như ở cấp độ
quốc gia, sự phân bố không gian dòng vốn FDI tại từng khu vực cụ thể trong phạm vi
quốc gia còn có thể bị ảnh hưởng bởi yếu tố này. Vai trò của yếu tố thể chế có thể tác

động làm giảm chi phí giao dịch và chi phí thông tin thông qua việc giảm sự bất ổn và
thiết lập sự ổn định, tạo điều kiện hợp tác (Hoskisson et al., 2000). Các quy định pháp
lý chính phủ cũng như chất lượng điều hành kinh tế của chính quyền địa phương được
xem là một nền tảng kinh tế ảnh hưởng đến chiến lược của công ty (Oliver, 1997) và
do đó ảnh hưởng đến hoạt động và hiệu suất kinh doanh của họ. Đối với nhà đầu tư
nước ngoài, các hạn chế và ưu đãi được tạo ra bởi các quy định của chính phủ hay chất
lượng điều hành kinh tế của chính quyền địa phương có thể có lợi cho một số giao dịch
nhưng cũng có thể đem lại bất lợi cho họ. Điều này buộc các công ty khi đầu tư cần
xác định chiến lược và làm thế nào để tránh những bất lợi cũng như hưởng các lợi ích
từ quy định của pháp luật. Bên cạnh nghiên cứu ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến
việc quyết định vị trí vốn đầu tư nước ngoài ở cấp quốc gia, các nhà nghiên cứu cho
rằng việc thực thi pháp luật hay điều hành kinh tế của chính quyền địa phương cũng có
thể ảnh hưởng đến phân bố không gian của FDI giữa các vùng trong một quốc gia.
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cải cách ban đầu liên quan chủ yếu ở cấp trung
ương, sau đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các cải cách ở cấp độ địa phương. Tuy nhiên,
việc thực thi hệ thống pháp luật ở cấp địa phương có thể thay đổi tùy theo các khía
cạnh nhận thức của chính quyền địa phương.


--29--

Tóm lại, trên cơ sở tổng quan các lý thuyết cho thấy có 3 nhóm yếu tố có thể ảnh
hưởng đến phân bố không gian vốn FDI giữa các địa phương trong quốc gia, bao gồm
nhóm yếu tố phản ánh hiệu ứng tích tụ, nhóm yếu tố lợi thế kinh tế truyền thống và
nhóm yếu tố điều hành kinh tế của chính quyền địa phương. Đây chính là cơ sở lý
thuyết quan trọng để xây dựng mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng phân bố
không gian vốn FDI giữa các đại phương tại Việt Nam ở chương 4.

1.5. Nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng thu hút vốn FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hiện nay, là một khái niệm kinh tế chung được

chấp nhận và xuất hiện khá thường xuyên trong các báo, tạp chí và trên truyền hình,
ngay cả trong các quảng cáo. Nếu như các nhà nghiên cứu lý thuyết chủ yếu tập trung
lý giải về hoạt động FDI (ngoại trừ Dunning), thì các nhà nghiên cứu thực nghiệm đã
cung cấp bằng chứng thực tế về các yếu tố quyết định vị trí FDI. Trên cơ sở tổng kết
của tác giả cho thấy, cách thức tiếp cận của các nghiên cứu thực nghiệm hội tụ theo hai
hướng: một là, dựa trên xu hướng dòng chảy của FDI để xác định yếu tố ảnh hưởng
thu hút hay cản trở đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một khu vực hay một quốc gia cụ
thể. Các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu ở đây phản ánh đặc điểm khác biệt, hay cũng chính
là những lợi thế hoặc yếu thế của khu vực, quốc gia. Mục đích của các nghiên cứu thực
nghiệm này là đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy các lợi thế hoặc hạn chế
những tồn tại để tăng cường thu hút dòng vốn FDI hơn nữa. Hướng nghiên cứu thứ hai
chủ yếu thiên về nghiên cứu sự ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế truyền thống hay các
yếu tố mới liên quan đến chất lượng thể chế, tác động chính sách của chính phủ,
khoảng cách văn hóa, khoảng cách địa lý… đến dòng chảy FDI. Mục đích của họ là
nhằm chứng minh nền tảng lý thuyết về các yếu tố quyết định vị trí FDI. Vì mục tiêu
nghiên cứu của luận án là nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng thu hút dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nên phần tổng quan các tài liệu nghiên cứu thực
nghiệm sẽ nghiêng về hướng nghiên cứu thứ nhất. Theo đó nội dung phần này được
kết cấu như sau: một là, tổng quan các kết quả nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng thu hút
tại nhóm các nền kinh tế chuyển đổi và các nền kinh tế đang phát triển, đây là các
nhóm nước rất thành công trong thu hút dòng vốn FDI kể từ đầu những năm 90 của thế


--30--

kỷ 20. Tiếp theo, tổng quan các kết quả nghiên cứu đối với khu vực Châu Á (khu vực
có thành tựu nổi bật trong thu hút FDI trong những năm gần đây) và khu vực Châu Phi
(khu vực ít thành công trong thu hút dòng vốn FDI). Ba là, tổng quan các nghiên cứu
về yếu tố ảnh hưởng thu hút dòng chảy FDI vào hai quốc gia điển hình là Trung Quốc
và Ấn Độ thuộc khu vực Châu Á. Cuối cùng, để có thể xác định được khoảng trống

trong nghiên cứu đối với Việt Nam một nội dung quan trọng không kém được thực
hiện là xem xét các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng thu
hút FDI vào Việt Nam ở cấp độ quốc gia và không gian địa phương.
1.5.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về yếu tố ảnh hưởng thu hút FDI tại nhóm
nước hoặc khu vực
Ở phương diện chung, Moosa and Cardak (2003) đã sử dụng phương pháp EBA
(Extreme Bounds Analysis) của Leamer (1983a; 1985) để thực hiện nghiên cứu các
yếu tố quyết định vị trí FDI từ nguồn dữ liệu thống kê của 140 quốc gia trong giai
đoạn 1998-2000. Kết quả nghiên cứu cho thấy FDI bị quyết định bởi 2 yếu tố: tỷ lệ
xuất khẩu trên GDP, đường dây điện thoại của 1000 người dân.
Năm 2008, Bellak et al. đã phân tích sự phù hợp của chính sách công trong thu hút
FDI dựa trên mẫu nghiên cứu gồm 11 quốc gia (Hoa Kỳ, 6 nước thành viên cũ của EU
và 4 nước Trung và Đông Âu - các nước thành viên mới của EU) và 10 ngành công
nghiệp trong khoảng thời gian 10 năm (1995-2004). Kết quả phân tích cho thấy các
yếu tố liên quan như: kết quả thu hút FDI năm trước, quy mô thị trường (thu nhập bình
quân đầu người), trình độ công nghệ (chi phí công cho Đầu tư và Phát triển), cơ sở hạ
tầng công nghệ thông tin (tổng số thuê bao điện thoại và internet/1000 người) có dấu
hiệu tác động tốt trong thu hút FDI. Trong khi đó, thuế suất doanh nghiệp cao, rào cản
FDI, chi phí lao động và bồi thường thiệt hại cho người lao động cao lại là rào cản đối
với dòng vốn FDI. Nghiên cứu này còn cho thấy các biện pháp chính sách tác động
không giống nhau trong các ngành công nghiệp và các quốc gia khác nhau.
 Các nền kinh tế chuyển đổi
Trong hơn hai thập kỷ qua cả thế giới đã chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể dòng
vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài từ Châu Âu và Châu Mỹ vào các nền kinh tế chuyển


×