Tải bản đầy đủ (.pdf) (227 trang)

Vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế để hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp trong điều kiện ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 227 trang )

-1-

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Báo cáo tài chính (BCTC) là sản phẩm của kế toán tài chính, là đầu ra của
hệ thống thông tin kế toán. Mục đích của BCTC là cung cấp thông tin tài chính
hữu ích về doanh nghiệp cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, người cho vay
và các chủ nợ khác trong việc đưa ra quyết định về việc cung cấp nguồn lực cho
doanh nghiệp (IASB, 2010a). BCTC là nguồn thông tin quan trọng cho các giao
dịch về vốn của doanh nghiệp, đặc biệt trên thị trường chứng khoán. Việc hoàn
thiện BCTC không chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết mà nó còn có ý nghĩa thực
tiễn quan trọng trong việc đáp ứng một cách phù hợp nhu cầu thông tin đa dạng
trong quá trình phát triển không ngừng của các nền kinh tế.
Trên phương diện lý thuyết, những kết quả của dự án hội tụ giữa IASB và
FASB về việc xây dựng một khuôn mẫu lý thuyết cho việc lập và trình bày
BCTC là sản phẩm của một vấn đề được tranh luận tích cực, từ việc xác định
cách tiếp cận, mục đích, đặc điểm chất lượng, cho đến các nguyên tắc chi phối
việc soạn thảo và trình bày BCTC (Choi and Meek, 2011).
Trên phương diện thực tiễn, các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đang
trong quá trình đổi mới để hướng đến một bộ chuẩn mực kế toán toàn cầu, chất
lượng cao (a high quality, global accounting standards), phục vụ cho thị trường
vốn.
Ở Việt Nam, sau hơn 35 năm kể từ khi thống nhất đất nước, hệ thống kế
toán và BCTC doanh nghiệp hiện nay về cơ bản đã được xây dựng theo hướng
tiếp cận với thông lệ quốc tế trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam, có sự cải cách,
khá đầy đủ và có tính hệ thống. Tuy nhiên, trong giai đoạn hội nhập quốc tế về
kinh tế và kế toán mạnh mẽ như hiện nay, tính hữu ích của thông tin kế toán


-2-


không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia, các tiêu chuẩn chất lượng và công bố
thông tin phải được tiếp cận theo thông lệ quốc tế, hệ thống BCTC hiện nay đã
bộc lộ những tồn tại chưa được giải quyết, từ những vấn đề cụ thể như đo lường,
ghi nhận, đến việc củng cố các luận cứ khoa học, làm cơ sở vững chắc, ổn định
cho việc ban hành các chuẩn mực kế toán, đánh giá chất lượng BCTC. Cơ sở định
giá, đặc điểm chất lượng và nguyên tắc lập BCTC chưa được quy định đầy đủ,
thiếu tính đồng bộ, chưa phù hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế; hệ
thống BCTC mang tính khuôn mẫu, thiếu sự linh hoạt; hệ thống báo cáo, một số
nội dung, khoản mục trên BCTC chưa đầy đủ, hoặc chưa phù hợp với chuẩn mực
kế toán và thông lệ quốc tế; chưa đề cập hoặc quy định việc ghi nhận và trình bày
nguồn lực tri thức, trách nghiệm xã hội doanh nghiệp trên báo cáo… Những hạn
chế này có nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, ảnh hưởng đáng kể đến
tính hữu ích và quá trình hội nhập quốc tế của hệ thống BCTC.
Trên thế giới, có nhiều nghiên cứu liên quan đến BCTC, cũng như việc áp
dụng chuẩn mực kế toán quốc tế đối với hệ thống BCTC tại các quốc gia. Tuy
nhiên, hầu như chưa có một nghiên cứu có hệ thống liên quan trực tiếp đến việc
đánh giá và hoàn thiện hệ thống BCTC doanh nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện
hội nhập quốc tế về kinh tế và kế toán.
Ở Việt Nam, gần đây, có một số nghiên cứu chuyên sâu về BCTC doanh
nghiệp. Nghiên cứu của Nguyễn Phúc Sinh (2008) đã tiếp cận với các luận điểm
về hệ thống BCTC doanh nghiệp của IASB, FASB nhằm đưa ra giải pháp nâng
cao tính hữu ích của hệ thống BCTC doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu của
Nguyễn Thị Kim Cúc (2009) đã nhận định lại về khung pháp lý cho việc lập và
trình bày BCTC doanh nghiệp, tương thích với quy mô và cơ cấu tổ chức của các
loại hình doanh nghiệp. Nghiên cứu của Nguyễn Đình Hùng (2010) đề cập đến
việc kiểm soát sự minh bạch thông tin tài chính công bố của các công ty niêm yết
tại Việt Nam. Các nghiên cứu của Võ Thị Ánh Hồng (2008), Phạm Đức Tân


-3-


(2009)… đề xuất một số giải pháp nâng cao tính hữu ích của thông tin kế toán
phục vụ việc ra quyết định của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Liên Hương (2010) mô tả sự khác biệt giữa chuẩn
mực kế toán Việt Nam với chuẩn mực kế toán quốc tế và ảnh hưởng của nó đến
thông tin trình bày trên BCTC và quyết định của nhà đầu tư...
Bên cạnh đó, Vũ Hữu Đức và Trình Quốc Việt (2009) đã đề nghị áp dụng
chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho các công ty niêm yết, công ty đại chúng,
ngân hàng, doanh nghiệp bảo hiểm. Tăng Thị Thu Thủy (2009) đề xuất hoàn
thiện hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam theo thông lệ quốc tế trên cơ sở
những đặc điểm của Việt Nam. Nguyen &Tran (2012) đề cập đến những khó
khăn của việc tồn tại song song hệ thống chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán
trong quá trình hòa hợp kế toán quốc tế…
Các nghiên cứu này đã đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao tính hữu ích của hệ thống BCTC doanh nghiệp Việt Nam, trên cơ sở
vận dụng và hòa hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế. Tuy nhiên, hạn chế trong
việc củng cố luận cứ khoa học và kinh nghiệm cho việc ban hành các chuẩn mực,
chế độ kế toán, quy định soạn thảo và đánh giá chất lượng BCTC trên cơ sở vận
dụng chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế, chưa được làm rõ. Giải pháp dài hạn
và lộ trình cho sự phát triển, hội nhập của hệ thống BCTC chưa được phác họa.
Các nghiên cứu cũng chưa đề cập hoặc giải quyết các nội dung mang tính toàn
cầu hiện nay trong soạn thảo và trình bày BCTC, chẳng hạn, vấn đề sử dụng giá
trị hợp lý trong định giá, trình bày nguồn lực tri thức hay trách nhiệm xã hội
doanh nghiệp trên BCTC.
Luận án này kế thừa các nghiên cứu trước đây, góp phần giải quyết các
vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng nêu trên.


-4-


2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là xác lập quan điểm, phương hướng,
đề xuất các giải pháp ngắn hạn, giải pháp dài hạn hoàn thiện hệ thống BCTC
doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế,

nâng cao tính hữu ích của BCTC, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Các quan điểm, phương hướng và giải pháp được xây dựng trên cơ sở
đã phân tích, tổng hợp, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về hệ thống BCTC doanh
nghiệp theo chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế, thực trạng áp dụng chuẩn
mực kế toán quốc tế đối với hệ thống BCTC tại các quốc gia và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam, cũng như trên cơ sở nhận diện các đặc điểm về môi
trường kế toán tại Việt Nam, ưu điểm, hạn chế và các vấn đề cần giải quyết đối
với hệ thống BCTC doanh nghiệp hiện hành.
3. Phạm vi, nội dung nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án được xác định trong khuôn khổ BCTC
riêng của các loại hình doanh nghiệp, không bao gồm các ngân hàng và các tổ
chức tài chính tương tự.
Phạm vi chuẩn mực kế toán quốc tế được vận dụng để hoàn thiện hệ thống
BCTC bao gồm các IAS/IFRS liên quan trực tiếp đến trình bày và công bố thông
tin BCTC, không bao gồm toàn bộ các IAS/IFRS hiện có.
Luận án tập trung vào các nội dung sau:
(1) Lý luận về hệ thống BCTC doanh nghiệp theo chuẩn mực kế toán và
thông lệ quốc tế;
(2) Thực trạng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế đối với hệ thống
BCTC tại các quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam;
(3) Quá trình phát triển của hệ thống BCTC Việt Nam qua các thời kì;


-5-


(4) Đánh giá thực trạng hệ thống BCTC Việt Nam hiện hành trên cơ sở đối
chiếu hệ thống BCTC theo quy định của Việt Nam với hệ thống BCTC theo quy
định của IASB, ý kiến của các doanh nghiệp, nhà đầu tư và chuyên gia về hệ
thống BCTC doanh nghiệp, các nhân tố môi trường kế toán, cũng như yêu cầu
của quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
(5) Quan điểm, phương hướng, mục tiêu hoàn thiện hệ thống BCTC
doanh nghiệp Việt Nam;
(6) Các giải pháp ngắn hạn và giải pháp dài hạn mang tính khoa học và
khả thi, trên cơ sở vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế, nhằm phát triển, hoàn
thiện hệ thống BCTC doanh nghiệp, nâng cao tính hữu ích của BCTC, đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam. Định hướng về nội dung và

phương pháp đo lường giá trị hợp lý, báo cáo nguồn lực tri thức, báo cáo trách
nhiệm xã hội doanh nghiệp trên BCTC.
4. Phương pháp nghiên cứu
Về định tính, tác giả phân loại, đánh giá và chọn lọc nhiều tài liệu nghiên
cứu chuyên sâu trong và ngoài nước, khai thác các thông tin thứ cấp có liên quan
đến BCTC để phân tích, lý giải, đánh giá các đối tượng nghiên cứu theo các chủ
điểm về nội dung và mục tiêu nghiên cứu đã được thiết kế. Tác giả đã thực hiện
việc phỏng vấn ý kiến của các chuyên gia đầu ngành về kế toán và BCTC doanh
nghiệp, sử dụng kết hợp với các thông tin đáng tin cậy khác để lý giải, đánh giá
thực trạng, đề xuất giải pháp.
Về định lượng, tác giả sử dụng phiếu câu hỏi điều tra, khảo sát ý kiến của
một số doanh nghiệp và nhà đầu tư về hệ thống BCTC, kết hợp với sử dụng
các dữ liệu định lượng khác để diễn giải, so sánh, phân tích, nhằm tạo ra cơ sở
tham khảo hữu ích cho những nhận định, đánh giá hệ thống BCTC doanh nghiệp
Việt Nam trong mối quan hệ với đặc điểm, yêu cầu của quá trình phát triển.


-6-


Về phương pháp nghiên cứu và phương pháp thu thập dữ liệu cụ thể, tác
giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp chuyên gia; phương
pháp điều tra. Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp tư duy cũng được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp theo từng nội dung và mục
tiêu cụ thể của luận án.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả phân loại, đánh giá, và chọn
lọc nhiều tài liệu nghiên cứu chuyên sâu trong và ngoài nước, các quy định, thông
lệ quốc tế, kinh nghiệm của các quốc gia… và các thông tin thứ cấp có liên quan
đến BCTC doanh nghiệp để tiến hành phân tích, tổng hợp, làm rõ những vấn đề
lý luận về hệ thống BCTC doanh nghiệp theo chuẩn mực kế toán và thông lệ
quốc tế; mô tả, lý giải, làm rõ những vấn đề tồn tại của hệ thống BCTC hiện hành
và xác định vấn đề cần phải giải quyết, phương hướng và giải pháp thực hiện.
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp tư duy đã được sử dụng kết hợp theo từng nội dung và mục tiêu cụ
thể của luận án. Theo đó, phương pháp phân tích, tổng hợp đã được sử dụng để
hệ thống hóa cơ sở lý luận, đưa ra nhận xét về hệ thống BCTC doanh nghiệp theo
chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế và quá trình áp dụng chuẩn mực kế toán
quốc tế tại các quốc gia, kinh nghiệm cho Việt Nam. Phương pháp so sánh được
sử dụng để đối chiếu hệ thống BCTC theo quy định của Việt Nam với hệ thống
BCTC theo quy định của IASB, giữa thực trạng hệ thống BCTC với những yêu
cầu của quá trình hội nhập quốc tế. Phương pháp tư duy được sử dụng phối hợp
với phương pháp chuyên gia, phương pháp tổng hợp để xác định vấn đề cần giải
quyết, xây dựng phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống BCTC.
- Phương pháp chuyên gia: Tác giả tiến hành phỏng vấn để thu thập ý
kiến các chuyên gia về kế toán và BCTC doanh nghiệp. Các ý kiến trả lời được
tổng hợp, lý giải, làm cơ sở hoặc củng cố cho nhận định về hệ thống BCTC
doanh nghiệp Việt Nam.



-7-

- Phương pháp điều tra: Tiến hành khảo sát bằng các phiếu điều tra đối với
một số doanh nghiệp và nhà đầu tư. Thang đo Likert được sử dụng để đo lường
các mức độ đánh giá. Thực hiện thống kê mô tả kết quả điều tra và phân tích
phương sai Anova một yếu tố để kiểm tra về sự khác biệt trong kết quả đánh giá
giữa các nhóm đối tượng. Kết hợp kết quả với những dữ liệu thứ cấp khác để
diễn giải, so sánh, nhằm tạo ra cơ sở tham khảo hữu ích cho những nhận định,
đánh giá.
Như vậy, phương pháp định tính, với những tổng hợp, lý giải, đánh giá các
thông tin, là phương pháp được sử dụng chủ yếu, nhằm diễn giải hoặc quy nạp
theo các chủ điểm về nội dung và mục tiêu đã được thiết kế của luận án. Các
phân tích và đánh giá được thực hiện bằng những lý luận khách quan, theo các
chủ điểm đã được thiết kế. Các biểu hiện cụ thể của các phương pháp nghiên cứu
sẽ được thể hiện trong các nội dung của luận án.
Ở một góc độ khác, khi xác định phương hướng hoàn thiện hệ thống
BCTC doanh nghiệp, trên quan điểm lịch sử, cụ thể, luận án đã xuất phát từ sự
vận động và phát triển của các điều kiện môi trường kế toán, gắn với các yêu cầu
của quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế và kế toán ở Việt Nam.
5. Những đóng góp chính của luận án
(1) Phân tích, tổng hợp, đánh giá, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hệ
thống BCTC doanh nghiệp theo chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế, trong đó
có những vấn đề còn khá mới ở các quốc gia, như: đo lường giá trị hợp lý; báo
cáo nguồn lực tri thức; báo cáo trách nhiệm xã hội doanh nghiệp.
(2) Phân tích thực trạng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế đối với hệ
thống BCTC tại các quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam.
(3) Làm rõ tính tất yếu của quá trình cải cách hệ thống kế toán và BCTC
doanh nghiệp Việt Nam. Đánh giá thực trạng hệ thống BCTC doanh nghiệp



-8-

Việt Nam hiện hành, nhận diện vấn đề tồn tại cần giải quyết.
(4) Xác lập một cách khoa học và phù hợp quan điểm, mục tiêu và
phương hướng hoàn thiện hệ thống BCTC doanh nghiệp, trên cơ sở nhận diện
những điều kiện và bối cảnh mà hệ thống kế toán Việt Nam đang tồn tại và phát
triển.

(5) Đề xuất các giải pháp ngắn hạn, đặc biệt là các giải pháp dài hạn, mang
tính khoa học và khả thi, xác định lộ trình phù hợp, nhằm phát triển và hoàn thiện
hệ thống BCTC doanh nghiệp Việt Nam, nâng cao tính hữu ích của BCTC, đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Luận án đã định hướng về nội dung và phương
pháp những vấn đề mang tính đột phá ở Việt Nam liên quan đến định giá và trình
bày thông tin trên BCTC, như: đo lường giá trị hợp lý; báo cáo nguồn lực tri

thức; báo cáo trách nhiệm xã hội doanh nghiệp.
6. Kết cấu luận án
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, luận án có 3 chương:
- Chương 1 : Cơ sở lý luận về Báo cáo tài chính doanh nghiệp.
- Chương 2 : Đánh giá thực trạng hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp
Việt Nam.
- Chương 3 : Giải pháp hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp
Việt Nam.
Ngoài ra, luận án còn có 17 Phụ lục để minh họa hoặc mô tả chi tiết một số
nội dung của luận án.


-9-

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Bản chất của Báo cáo tài chính
1.1.1. Khái niệm Báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính (Financial statements) là sản phẩm của kế toán tài chính,
là đầu ra của hệ thống thông tin kế toán, phản ánh theo một cấu trúc chặt chẽ tình
hình tài chính, kết quả tài chính của doanh nghiệp. BCTC cung cấp các thông tin
về tình hình tài chính, kết quả tài chính và các luồng tiền của doanh nghiệp, đáp
ứng yêu cầu của số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định
kinh tế, nó cũng cho thấy kết quả quản lý của ban giám đốc đối với các nguồn lực
được giao phó cho họ (IASB, 2012).
Để đáp ứng mục tiêu này, BCTC trình bày thông tin về: tài sản, nợ phải
trả, vốn chủ sở hữu, thu nhập và chi phí, bao gồm cả lãi và lỗ, khoản góp vốn của
chủ sở hữu và phân phối cho chủ sở hữu, các dòng tiền. Thông thường, một hệ
thống BCTC bao gồm: báo cáo tình hình tài chính, báo cáo thu nhập; báo cáo vốn
chủ sở hữu; báo cáo lưu chuyển tiền và thuyết minh BCTC.
Có nhiều cách thức và khía cạnh khác nhau trong việc tiếp cận với BCTC.
Chẳng hạn, khi xem xét dưới góc độ khoa học kế toán, thì BCTC được xem là kết
quả của phương pháp tổng hợp - cân đối. Khi xem xét dưới góc độ các yếu tố của
một hệ thống thông tin kế toán thì BCTC được xem là đầu ra của hệ thống này,
được xử lý và cung cấp bởi quy trình kế toán tài chính. Khi đề cập đến lợi ích của
người sử dụng thì BCTC là nguồn cung cấp thông tin tài chính hữu ích cho việc
ra quyết định kinh tế v.v… Vì vậy, khó có thể đưa ra một định nghĩa duy nhất về
BCTC. Mục đích và vai trò của BCTC, vì vậy, cũng không phải là duy nhất và
bất biến. Mục đích và vai trò của BCTC được đề cập dưới đây chủ yếu dựa trên
các quan điểm của một số tổ chức có vai trò và ảnh hưởng quan trọng đến kế toán
trên thế giới, được tiếp cận theo hướng phục vụ cho việc phát triển, hoàn thiện hệ
thống BCTC như mục tiêu đề ra của luận án.



- 10 -

1.1.2. Mục đích của Báo cáo tài chính
1.1.2.1. Theo Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB)
Khuôn mẫu lý thuyết cho BCTC quốc tế (IFRS Framework) do IASB phê
chuẩn tháng 09/2010 xác định mục đích của BCTC cho mục đích chung (sau đây
gọi tắt là mục đích của BCTC) là “cung cấp thông tin tài chính hữu ích về doanh
nghiệp cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, người cho vay và các chủ nợ
khác trong việc đưa ra quyết định về việc cung cấp nguồn lực cho doanh nghiệp”
(IASB, 2010a, p.OB2). Những quyết định này liên quan đến việc mua, bán hoặc
nắm giữ cổ phiếu và công cụ nợ, cung cấp, thanh toán các khoản vay hoặc các
hình thức vay mượn khác.
IFRS Framework lưu ý rằng, các đối tượng khác, chẳng hạn các nhà quản
lý, có thể tìm thấy trong các BCTC những thông tin hữu ích. Tuy nhiên, mục đích
của BCTC và mục tiêu của các quy chế quản lý tài chính có thể không phù hợp
với nhau. Do vậy, cơ quan quản lý không được xem là đối tượng sử dụng chính
của BCTC. BCTC không hướng chủ yếu đến cơ quan quản lý hoặc các đối tượng
khác (IASB, 2010a).
BCTC cung cấp thông tin về tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đó
là thông tin về các nguồn lực kinh tế và nghĩa vụ nợ của của doanh nghiệp.
BCTC cũng cung cấp thông tin về những ảnh hưởng của giao dịch và các sự kiện
khác làm thay đổi các nguồn lực kinh tế và nghĩa vụ nợ, nó hữu ích cho các quyết
định về việc cung cấp nguồn lực cho doanh nghiệp. Thông tin về bản chất, quy
mô nguồn lực kinh tế và các các nghĩa vụ nợ có thể giúp người sử dụng xác định
điểm mạnh và điểm yếu về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Những thông tin
này có thể giúp người sử dụng đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp,
cũng như nhu cầu bổ sung nguồn lực tài chính (IASB, 2010a).
Thông tin về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp giúp người sử dụng đánh
giá được các khoản thu nhập tạo ra từ việc sử dụng các nguồn lực kinh tế. Thông
tin này giúp đánh giá trách nhiệm quản lý trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn

lực của doanh nghiệp. Thông tin về kết quả kinh doanh, cũng như sự thay đổi và
các yếu tố cấu thành của các khoản thu nhập cũng quan trọng trong việc đánh giá


- 11 -

khả năng tạo tiền trong quá khứ và tương lai của doanh nghiệp.
Thông tin về lưu chuyển tiền trong một kỳ của doanh nghiệp giúp người sử
dụng đánh giá khả năng doanh nghiệp tạo ra dòng tiền thuần trong tương lai. Nó
chỉ ra phương thức doanh nghiệp tạo ra và chi tiêu tiền, bao gồm thông tin về vay
và trả nợ, cổ tức bằng tiền hoặc phân phối bằng tiền khác cho các nhà đầu tư, và
các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Thông tin về dòng tiền “giúp người sử dụng dụng hiểu rõ về hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, đánh giá hoạt động đầu tư và tài chính, ước tính tính
thanh khoản, khả năng thanh toán và giải thích các thông tin về kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp” (IASB, 2010a, p.OB20).
Theo IAS 1- Trình bày BCTC (IASB hiệu chỉnh tháng 05/2012), mục đích
của BCTC là cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, kết quả tài chính và
các luồng tiền của doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu của số đông những người sử
dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. BCTC cũng báo cáo kết quả đạt
được trên cương vị quản lý của ban giám đốc đối với các nguồn lực được giao
phó. Để đáp ứng mục tiêu này, BCTC trình bày thông tin về: tài sản, nợ phải trả,
vốn chủ sở hữu, thu nhập và chi phí, khoản góp vốn và phân phối cho chủ sở hữu,
lưu chuyển tiền tệ, cùng với những thông tin thuyết minh.
1.1.2.2. Theo Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính Mỹ (FASB)
Mở đầu Chương Mục đích của BCTC trong Khái niệm kế toán tài chính số
8 - Statement of Financial Accounting Concepts No.8 (SFAC 8), FASB khẳng
định, mục đích của BCTC là nền tảng của khuôn mẫu lý thuyết cho BCTC. FASB
cũng xác định mục đích của BCTC là cung cấp thông tin tài chính hữu ích về
doanh nghiệp cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, người cho vay và các chủ

nợ khác trong việc đưa ra quyết định về việc cung cấp nguồn lực cho doanh
nghiệp. Điều này hoàn toàn tương đồng với IFRS Framework của IASB.
Các nội dung thông tin về các nguồn lực kinh tế của doanh nghiệp và các
nghĩa vụ nợ, cũng như sự thay đổi của chúng, thông tin về kết quả tài chính, thông
tin về lưu chuyển tiền trình bày trong SFAC 8 cũng được FASB quy định hoàn
toàn tương đồng với IFRS Framework của IASB. Đây là kết quả của một dự án


- 12 -

hội tụ kế toán giữa IASB và FASB (IASB - FASB Convergence Project) được
triển khai từ năm 2004, trong đó có dự án hội tụ về khuôn mẫu lý thuyết cho
BCTC. Theo đó, với việc lựa chọn quan điểm đơn vị (entity pespective) thay vì
quan điểm chủ sở hữu (proprietary pespective), cả IASB và FASB đều khẳng định
cần có sự ưu tiên trong những người sử dụng BCTC để đảm bảo tính tập trung của
thông tin cho việc ra quyết định.
Như vậy, mục đích của BCTC là cung cấp thông tin tài chính hữu ích về
doanh nghiệp cho các đối tượng sử dụng, trong đó chủ yếu là nhà đầu tư hiện tại
và tiềm năng, người cho vay và các chủ nợ khác, trong việc đưa ra quyết định về
việc cung cấp nguồn lực cho doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò của Báo cáo tài chính
Thông thường, vai trò của BCTC được xem xét thông qua mục đích và lợi
ích mang lại của việc sử dụng thông tin của một số đối tượng chủ yếu.
Theo IASB và FASB, các đối tượng sử dụng BCTC bao gồm nhà đầu tư
hiện tại và tiềm năng, người cho vay và các chủ nợ khác và một số đối tượng
khác liên quan đến việc ra các quyết định kinh tế.
Các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, người cho vay và các chủ nợ khác
cần thông tin về các nguồn lực của doanh nghiệp không chỉ để đánh giá triển
vọng của dòng lưu chuyển tiền thuần trong tương lai mà còn đánh giá hiệu quả
quản lý đối với việc sử dụng các nguồn lực hiện hữu của doanh nghiệp. Họ không

thể yêu cầu doanh nghiệp cung cấp thông tin trực tiếp mà phải dựa vào BCTC
cho nhiều thông tin tài chính mà họ cần. Vì vậy, họ là những người sử dụng chính
mà BCTC hướng tới.
Các quyết định của nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng về việc mua, bán hoặc
nắm giữ cổ phiếu và công cụ nợ phụ thuộc vào thu nhập mà họ mong đợi từ việc
đầu tư, ví dụ như cổ tức, các khoản thanh toán nợ gốc và lãi hoặc sự gia tăng giá
trị thị trường. Tương tự như vậy, quyết định của người cho vay và các chủ nợ
khác về việc cung cấp các khoản cho vay và các hình thức tín dụng khác phụ
thuộc vào các khoản thanh toán nợ gốc và lãi hoặc các khoản thu nhập khác mà
họ mong đợi. Kỳ vọng của các các nhà đầu tư, người cho vay và các chủ nợ khác


- 13 -

về lợi nhuận phụ thuộc vào đánh giá của họ về giá trị, thời gian và triển vọng của
dòng lưu chuyển tiền thuần trong tương lai. Do vậy, các nhà đầu tư hiện tại và
tiềm năng, người cho vay và các chủ nợ khác cần thông tin để giúp họ đánh giá
triển vọng lưu chuyển tiền thuần trong tương lai của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, BCTC không thể cung cấp tất cả thông tin mà nhà đầu tư,
người cho vay và chủ nợ khác cần. Những người sử dụng cần phải xem xét thông
tin cần thiết từ các nguồn khác, chẳng hạn, điều kiện và triển vọng của nền kinh
tế, sự kiện, môi trường chính trị, công nghệ, tương lai doanh nghiệp. BCTC
không được thiết kế để trình bày thông tin về giá trị doanh nghiệp nhưng chúng
cung cấp thông tin giúp nhà đầu tư, người cho vay và các chủ nợ khác ước tính
giá trị doanh nghiệp (IASB, 2010a).
IFRS Framework cũng lưu ý rằng, các bên liên quan khác như cơ quan
quản lý, tổ chức, công chúng không phải là những nhà đầu tư, chủ nợ cũng có
thể tìm thấy thông tin hữu ích trên BCTC, mặc dù BCTC không phục vụ trực
tiếp cho những nhóm đối tượng này.
Ở một khía cạnh khác, khi tiếp cận vai trò của BCTC dưới góc độ

yêu cầu pháp lý của việc cung cấp thông tin, thì vai trò của BCTC được thể hiện
thông qua trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc soạn thảo BCTC và công bố
thông tin. Chẳng hạn, các nội dung trình bày trên BCTC nộp cho cơ quan thống
kê, thuế vụ có xu hướng khuôn mẫu, thiếu linh hoạt, đủ đáp ứng yêu cầu pháp lý
có liên quan. Ngoài ra, vai trò của BCTC đối với người sử dụng còn bị chi phối
bởi quy mô, đặc điểm của doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với các doanh nghiệp
nhỏ, vai trò của BCTC hướng đến người quản lý doanh nghiệp nhiều hơn, mục
đích công bố thông tin nhằm tìm kiếm vốn đầu tư hay nhà tài trợ thường hạn
chế…
Tóm lại, bản chất của BCTC là đầu ra của hệ thống thông tin kế toán, cung
cấp thông tin cho những người có quan hệ lợi ích với doanh nghiệp trong việc ra
các quyết định kinh tế, chủ yếu bao gồm nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, người
cho vay và các chủ nợ khác. Kết quả của dự án hội tụ giữa IASB và FASB khẳng
định cần có sự ưu tiên trong những người sử dụng BCTC để đảm bảo tính tập


- 14 -

trung của thông tin cho việc ra quyết định. Tất cả các bên cung cấp vốn đều có
quyền được cung cấp thông tin đầy đủ; những nhà đầu tư và chủ nợ tiềm năng
cần được cung cấp thông tin cho việc ra quyết định. Những đối tượng khác có thể
tìm thấy những thông tin hữu ích từ BCTC nhưng họ không phải là đối tượng
chính mà BCTC hướng tới. Các thông tin cung cấp trên BCTC được xác định cân
bằng cho các đối tượng sử dụng chủ yếu, thông tin để đánh giá khả năng quản lý
cũng được xem là một mục đích quan trọng vì nó ảnh hưởng đến quyết định của
những người cung cấp vốn cho doanh nghiệp.
Sau gần 25 năm ban hành khuôn mẫu lý thuyết của IASB (từ năm 1989) và
35 năm của FASB (từ năm 1978), khái niệm sự thay đổi nguồn lực được hệ thống
thành 2 nhóm chính: thay đổi do kết quả kinh doanh và không do kết quả kinh
doanh. Thông tin về hoạt động kinh doanh và thông tin về lưu chuyển tiền trở

thành hai cách tiếp cận bổ sung cho nhau trong việc trình bày sự thay đổi tình
hình tài chính của doanh nghiệp trên BCTC.

1.2. Đặc điểm chất lượng và các nhân tố tác động đến báo cáo tài chính
1.2.1. Đặc điểm chất lượng của báo cáo tài chính
1.2.1.1. Các đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính hữu ích
Tính hữu ích của BCTC cũng chính là tính hữu ích của thông tin kế toán
được trình bày trên BCTC. Chính xác hơn, chính những tính chất đặc trưng của
thông tin trên BCTC đã làm cho nó trở nên hữu ích qua việc thông tin được quan
tâm, được tin cậy và sử dụng để mang lại lợi ích.
Để có thể cung cấp thông tin hữu ích, BCTC cần thỏa mãn các đặc điểm
chất lượng. Các đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính hữu ích trình bày
dưới đây là theo kết quả của một dự án hội tụ giữa IASB và FASB. Nói cách
khác, các đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính hữu ích là tương đồng theo
quan điểm của IASB và FASB (Chương 3 trong IFRS Framework và Chương 3
trong SFAC 8). Theo đó, các đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính hữu ích
là các đặc tính thông tin có thể hữu ích nhất cho nhà đầu tư, người cho vay và chủ
nợ khác trong việc ra quyết định về doanh nghiệp trên cơ sở thông tin trên BCTC
(IASB, 2010a).


- 15 -

Theo IASB và FASB, các đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính hữu
ích được phân ra thành các đặc điểm chất lượng cơ bản và các đặc điểm chất
lượng bổ sung.
Các đặc điểm chất lượng cơ bản: thích hợp và trình bày trung thực.
Các đặc điểm chất lượng bổ sung: có thể so sánh; có thể kiểm chứng; kịp
thời và có thể hiểu.
Các đặc điểm chất lượng cơ bản

(1) Thích hợp (Relevance)
Để thích hợp, thông tin kế toán phải có khả năng tạo ra sự khác biệt trong
việc ra quyết định của đối tượng sử dụng thông tin. Theo đó, “nó phải có giá trị
dự đoán, giá trị xác nhận, hoặc cả hai” (IASB, 2010a, p.QC7).
Thông tin tài chính có giá trị dự đoán (predictive value) nếu nó có thể được
sử dụng như một dữ liệu đầu vào cho người sử dụng dự đoán kết quả tương lai.
Thông tin tài chính có giá trị xác nhận (confirmatory value) nếu nó cung cấp
thông tin phản hồi về các đánh giá trước đó.
Giá trị dự đoán và giá trị xác nhận của thông tin tài chính liên quan đến
nhau. Thông tin có giá trị dự đoán thường cũng có giá trị xác nhận. Chẳng hạn,
thông tin về doanh thu năm hiện tại, có thể được sử dụng làm cơ sở để dự đoán
doanh thu trong những năm tương lai, cũng có thể được so sánh với dự đoán
doanh thu cho năm hiện tại đã được thực hiện trong năm trước. Kết quả của
những so sánh đó có thể giúp cải thiện các quy trình đã được sử dụng để thực
hiện những dự đoán trước đó (IASB, 2010a).
Trọng yếu là một khía cạnh của tính thích hợp mà nó tùy thuộc vào tính
chất và mức độ của khoản mục được đề cập. Vì vậy, IASB và FASB không xác
định một ngưỡng định lượng thống nhất cho trọng yếu hay đưa ra trước những gì
có thể là trọng yếu.
(2) Trình bày trung thực (Faithful representation)
Thông tin được trình bày trung thực khi nó được mô tả đầy đủ (complete),
trung lập (neutral) và không mắc lỗi (free from error) (IASB, 2010a).
Thông tin đầy đủ bao gồm tất cả các thông tin cần thiết cho người sử dụng


- 16 -

hiểu được các hiện tượng, bao gồm tất cả các mô tả và giải thích cần thiết. Đối
với một số khoản mục, thông tin đầy đủ cũng đòi hỏi có sự giải thích các sự kiện
quan trọng về chất lượng và tính chất của khoản mục, các yếu tố và điều kiện ảnh

hưởng đến bản chất của khoản mục.
Thông tin trung lập khi không có sự thiên vị trong việc lựa chọn hoặc trình
bày, không bị thiên lệch nhằm đạt đến một kết quả định trước hay chịu ảnh
hưởng của một thái độ cá biệt.
Trình bày trung thực không có nghĩa là chính xác trong tất cả các khía
cạnh. Không mắc lỗi có nghĩa là không có sai sót hoặc thiếu sót trong các mô tả
và quy trình soạn thảo thông tin. Chẳng hạn, một ước tính không thể được xác
định là chính xác hoặc không chính xác, tuy nhiên, việc trình bày ước tính được
xem là trung thực nếu số tiền được mô tả một cách rõ ràng, bản chất và hạn chế
của quá trình ước tính được giải thích.
IASB và FASB lưu ý rằng, thông tin hữu ích khi nó vừa thích hợp vừa
được trình bày trung thực. Việc trình bày trung thực thông tin không thích hợp
hoặc trình bày không trung thực thông tin thích hợp đều không giúp cho người sử
dụng trong việc ra quyết định hữu ích. Ngoài ra, thông tin trình bày trung thực
không nhất thiết tạo ra được thông tin hữu ích. Chẳng hạn, một ước tính được
trình bày trung thực nếu doanh nghiệp áp dụng quy trình thích hợp, mô tả rõ ràng
các ước tính và giải thích các yếu tố không chắc chắn ảnh hưởng đến các ước
tính, tuy nhiên, nếu mức độ không chắc chắn là đáng kể thì thông tin ước tính sẽ
khó mà đạt được sự hữu ích đặc biệt. IASB và FASB cũng chỉ ra quy trình cơ bản
cho việc áp dụng các đặc điểm chất lượng cơ bản. Theo đó, trước hết, dự kiến
thông tin kinh tế có khả năng hữu ích cho người sử dụng thông tin tài chính của
doanh nghiệp. Tiếp theo, nhận dạng các thông tin mà nó sẽ thích hợp nhất nếu nó
có sẵn và được trình bày trung thực. Sau cùng, xác định trong đó các thông tin có
sẵn và có thể được trình bày trung thực (IASB, 2010a).
Các đặc điểm chất lượng bổ sung
Có thể so sánh, có thể kiểm chứng, kịp thời và có thể hiểu là những đặc
điểm chất lượng nhằm nâng cao tính hữu ích của thông tin thích hợp và được
trình bày trung thực.



- 17 -

(1) Có thể so sánh (Comparability)
Thông tin về một doanh nghiệp sẽ hữu ích hơn nếu nó có thể được so sánh
với thông tin tương tự ở doanh nghiệp khác hoặc ở cùng một doanh nghiệp trong
các kỳ khác nhau. Có thể so sánh cho phép người sử dụng phân biệt và hiểu sự
giống nhau hay có khác nhau về các khoản mục (IASB, 2010a).
Có thể so sánh liên quan đến sự nhất quán, nhưng chúng không phải là
một. Sự nhất quán đề cập đến việc sử dụng các phương pháp giống nhau cho các
các khoản mục tương tự nhau. Có thể so sánh là mục tiêu, còn nhất quán là điều
kiện để đạt được mục tiêu đó.
IASB và FASB cũng cho rằng, tính có thể so sánh có thể đạt được từ việc
đạt được các đặc điểm chất lượng cơ bản. Một sự trình bày trung thực các thông
tin kinh tế thích hợp tự nó đạt được, ở một mức độ nào đó, sự có thể so sánh được
với các thông tin thích hợp tương tự được trình bày trung thực bởi một doanh
nghiệp khác.
(2) Có thể kiểm chứng (Verifiability)
Có thể kiểm chứng giúp đảm bảo với người sử dụng rằng những thông tin
trình bày trung thực đối với các hiện tượng kinh tế. Có thể kiểm chứng có nghĩa là
những người quan sát và đánh giá đủ năng lực và độc lập khác nhau có thể đạt
được sự đồng thuận, mặc dù không phải là hoàn toàn, về việc thông tin được trình
bày trung thực.
Kiểm chứng có thể được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp. Kiểm chứng
trực tiếp là việc xác minh một khoản mục hoặc một thuyết minh thông qua việc
quan sát trực tiếp, chẳng hạn như đếm tiền. Kiểm chứng gián tiếp là việc kiểm tra
dữ liệu đầu vào, các công thức tính toán, hoặc tính toán lại đầu ra bằng phương
pháp tương tự. Chẳng hạn, kiểm tra giá trị ghi sổ hàng tồn kho bằng cách kiểm tra
số lượng và giá trị đầu vào và tính toán lại hàng tồn kho cuối kỳ bằng việc sử
dụng giả định phương pháp tính giá hàng tồn kho, ví dụ phương pháp nhập trước
xuất trước.

IFRS Framework và SFAC 8 cũng đề cập đến việc có thể gặp khó khăn
trong việc kiểm chứng một số thuyết minh và thông tin tài chính dự báo tương


- 18 -

lai. Để giúp người sử dụng thông tin quyết định có sử dụng thông tin như vậy hay
không, cần phải công bố những giả định cơ bản, phương pháp lập và các nhân tố,
điều kiện khác hỗ trợ, tác động đến thông tin (IASB, 2010a).
(3) Kịp thời (Timeliness)
Kịp thời có nghĩa là có thông tin có sẵn cho người sử dụng ra quyết định
đúng lúc. Nói chung, thông tin cũ thì kém hữu ích hơn. Nếu báo cáo chậm trễ thì
thông tin sẽ mất đi tính thích hợp. Tuy nhiên, một số thông tin có thể vẫn hữu ích
lâu sau khi kết thúc kỳ báo cáo, bởi vì người sử dụng cần các thông tin để xác
định và đánh giá xu hướng phát triển.
(4) Có thể hiểu (Understandability)
Thông tin có thể hiểu nếu nó được phân loại, mô tả và trình bày rõ ràng,
súc tích. BCTC được trình bày cho người sử dụng là những người có những kiến
thức nhất định về kinh doanh và hoạt động kinh tế cũng như có khả năng nhất
định trong đánh giá và phân tích thông tin.
Một số thông tin vốn nó đã phức tạp và rất khó để có thể dễ hiểu. Việc loại
trừ những thông tin này ra khỏi BCTC có thể làm cho thông tin dễ hiểu hơn, tuy
nhiên, điều này làm cho báo cáo trở nên không đầy đủ, và do vậy, có thể gây hiểu
nhầm. Đôi khi những nhà phân tích phải cần đến sự tư vấn để có thể hiểu những
hiện tượng kinh tế phức tạp.
Các đặc điểm chất lượng bổ sung nên được tối đa hóa đến mức có thể. Tuy
nhiên, đặc điểm chất lượng bổ sung, riêng lẻ hoặc một nhóm, không thể làm cho
thông tin hữu ích nếu thông tin không thích hợp hoặc không được trình bày trung
thực. Đôi khi, một đặc điểm chất lượng bổ sung có thể phải gia giảm nhằm tối đa
hóa một đặc điểm chất lượng khác. Chẳng hạn, việc gia giảm trong ngắn hạn tính

có thể so sánh như là kết quả của việc áp dụng một chuẩn mực BCTC mới là cần
thiết để có thể gia tăng tính thích hợp hoặc trình bày trung thực trong dài hạn.
Về rào cản đối với thông tin tài chính hữu ích, IASB và FASB cho rằng,
chi phí là rào cản đối với thông tin cung cấp bởi BCTC. Quan hệ giữa chi phí và
lợi ích sẽ ảnh hưởng đến thông tin trên BCTC nói chung. Lợi ích của BCTC phải
biện minh được cho chi phí của người sử dụng và người lập BCTC, trên cả hai
phương diện định lượng và định tính. IASB và FASB cũng xem xét ảnh hưởng


- 19 -

của quy mô doanh nghiệp và các yếu tố khác đến những yêu cầu báo cáo
khác nhau trong những tình huống nhất định.
Như vậy, các đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính hữu ích theo
quan điểm của IASB và FASB có thể được khái quát tại Bảng 1.1
Bảng 1.1 : Các đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính hữu ích theo
IASB và FASB
Các đặc điểm

Thích hợp

Trình bày trung thực

chất lượng

(Relevance)

(Faithful representation)

cơ bản

(Fundamental
qualitative
characteristics)
Các đặc điểm

Có thể

Có thể

chất lượng

so sánh

kiểm

bổ sung

(Comparability)

chứng

(Enhancing

Kịp thời

Có thể hiểu

(Timeliness) (Understandability)

(Verifiability)


qualitative
characteristics)
Rào cản

Chi phí

(Pervasive

(Cost)

constraint)

Nguồn : IASB (2010), Framework, và tổng hợp của tác giả.
1.2.1.2. Nhận xét về đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính
hữu ích
Những vấn đề liên quan đến đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính
hữu ích đã được các nhà nghiên cứu đề cập từ nhiều năm qua. Theo một kết quả
một nghiên cứu của Lev and Zarowin (1999), hệ thống đo lường và báo cáo kế
toán không đáp ứng tốt sự thay đổi đang tác động sâu sắc đến hoạt động kinh
doanh và giá trị thị trường của doanh nghiệp, và đó là nguyên nhân chính giải
thích cho sự suy giảm về tính hữu ích của thông tin tài chính. Thời gian gần đây,


- 20 -

bên cạnh các nghiên cứu về đặc điểm chất lượng của BCTC là những nghiên cứu
về phương pháp đo lường để đánh giá chất lượng của BCTC. Beest et al (2009)
đã xây dựng một chỉ số 21 mục để đo lường chất lượng của BCTC theo 2 đặc
điểm chất lượng cơ bản và 4 đặc điểm chất lượng bổ sung, trên cơ sở 231 báo cáo

thường niên của các công ty đã được niêm yết trên TTCK Mỹ, Anh, Hà Lan năm
2005 và 2007. Kết quả cho thấy, chất lượng của BCTC ngày càng tăng theo thời
gian; có sự ảnh hưởng đáng kể của các biến quy mô công ty, quốc gia, ngành
công nghiệp đến chất lượng BCTC...
Về các đặc điểm chất lượng của BCTC, bên cạnh quan điểm thống nhất
của IASB và FASB, cũng có một số quan điểm của các tổ chức và quốc gia khác
với các mức độ tương đồng khác nhau với IASB và FASB. Chẳng hạn, AASB
(Hội đồng chuẩn mực kế toán Úc) xác định trong Framework bốn đặc điểm chất
lượng của BCTC gồm: có thể hiểu, thích hợp, đáng tin cậy và có thể so sánh và
ba rào cản gồm: kịp thời, lợi ích và chi phí, cân đối các đặc điểm chất lượng
(AASB, 2009).
Quá trình hội tụ quan điểm về đặc điểm chất lượng của BCTC giữa IASB
và FASB cũng cho thấy đã có một sự thay đổi và điều chỉnh khá rõ nét. Theo đó,
khái niệm “đáng tin cậy” đã được thay bằng “trình bày trung thực”, với ý nghĩa
là, việc phản ánh đúng bản chất của một hiện tượng kinh tế sẽ thể hiện chính xác
hơn chất lượng được mong đợi của BCTC. Khái niệm “nội dung quan trọng hơn
hình thức” không được đề cập riêng vì nó đã được bao hàm trong “trình bày trung
thực”, trong khi “có thể kiểm chứng” được xem như một đặc điểm bổ sung vì
không phải thông tin trình bày trung thực nào cũng có thể kiểm chứng độc lập.
Ngoài ra, “thận trọng” cuối cùng đã được loại ra khỏi một yêu cầu chất lượng
mong đợi của BCTC, bởi lẽ nó có thể mâu thuẩn với yêu cầu “trung lập”.
Như vậy, đặc điểm chất lượng của thông tin tài chính hữu ích là một khái
niệm mang tính lịch sử, cụ thể. Nó gắn liền và thay đổi phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của các nền kinh tế - xã hội của các châu lục, các quốc gia với các
đặc điểm, điều kiện khác nhau. Nói cách khác, các đặc điểm chất lượng của thông
tin tài chính hữu ích không phải là bất di bất dịch, do vậy, khó có thể có một
khuôn mẫu chi tiết duy nhất cho việc nâng cao tính hữu ích của BCTC, mà nó


- 21 -


cần phải được xác định trong các điều kiện cụ thể.
1.2.2. Các nhân tố tác động đến báo cáo tài chính
1.2.2.1. Các nhân tố tác động đến báo cáo tài chính
Ảnh hưởng môi trường là chìa khóa để giải thích hệ thống kế toán của một
quốc gia. Nói cách khác, kế toán là sản phẩm của môi trường của nó, nghĩa là,
“nó được hình thành, phản ánh, và củng cố đặc điểm riêng độc đáo với môi
trường quốc gia của mình" (Radebaugh và Gray, 1997). Các nghiên cứu về tác
động của các nhân tố môi trường đến hệ thống kế toán và BCTC đã được nghiên
cứu từ những năm 1970 với nhiều nghiên cứu của Muller (1967), Jaggi (1975),
Nobes (1981), Gray (1988), Walton (1998)… Có nhiều yếu tố được đề cập, trong
đó nhân tố về văn hóa và kinh tế được ghi nhận sớm nhất.
Năm 1975, ảnh hưởng của môi trường văn hóa lên chuẩn mực và thông lệ
kế toán đã được đề cập bởi nghiên cứu của Jaggi.
Năm 1977, Hiệp hội Kế toán Mỹ (AAA) đã đưa ra 8 thông số quan trọng
được xem là yếu tố đặc trưng ảnh hưởng đến kế toán, bao gồm: hệ thống chính
trị; hệ thống kinh tế; giai đoạn phát triển kinh tế; mục đích của BCTC; nguồn gốc
hoặc thẩm quyền biên soạn chuẩn mực kế toán; giáo dục và đào tạo; việc thực thi
đạo đức và chuẩn mực; và người sử dụng dịch vụ.
Choi và Muller (1984) trích trong Zhang (2005) đưa ra danh mục 12 yếu tố
môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát phát triển hệ thống kế toán, bao
gồm: hệ thống pháp luật; hệ thống chính trị; bản chất của quyền sở hữu kinh
doanh; sự khác nhau về quy mô và hoạt động của các công ty; môi trường xã hội;
mức độ phức tạp của hoạt động kinh doanh; trình độ dự báo kinh doanh; sự hiện
diện của pháp luật kế toán; tốc độ đổi mới kinh doanh; giai đoạn phát triển kinh
tế; mô hình tăng trưởng của nền kinh tế; và thực trạng giáo dục chuyên nghiệp.
Hofstede (1987) cho rằng, hệ thống kế toán thay đổi dọc theo dòng văn
hóa dân tộc. Mô hình của Gray (1988) cho thấy rằng, ngoài các giá trị văn hóa,
các yếu tố thể chế, chẳng hạn như hệ thống pháp luật, sẽ có ảnh hưởng tới sự phát
triển của hệ thống kế toán.

Gần đây, Choi and Meek (2011) cho rằng có 8 nhân tố gây ảnh hưởng
đáng kể lên sự phát triển của kế toán gồm: các nguồn lực tài chính; hệ thống luật


- 22 -

pháp; thuế; kinh tế - chính trị; lạm phát; trình độ phát triển kinh tế, trình độ giáo
dục; và nền văn hoá.
Với góc độ nhận diện sự tồn tại và tác động của các nhân tố đến hệ thống
kế toán và BCTC nhằm đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp phát triển,
hoàn thiện hệ thống BCTC, luận án tập trung xem xét 5 nhóm nhân tố tác động
đáng kể đến hệ thống kế toán và BCTC, bao gồm: nhân tố kinh tế; nhân tố chính
trị; nhân tố pháp lý; nhân tố văn hóa và quá trình toàn cầu hóa.
(1) Nhân tố kinh tế
Sự phát triển của kế toán là một quá trình phụ thuộc vào và đan xen với
phát triển kinh tế. Nói cách khác, môi trường kinh tế có ảnh hưởng quan trọng đối
với sự phát triển của kế toán (Zhang, 2005). Các nhân tố kinh tế chủ yếu tác động
đến hệ thống kế toán và BCTC bao gồm: đặc điểm và giai đoạn phát triển của nền
kinh tế; nguồn cung ứng tài chính và lạm phát.
Đặc điểm và giai đoạn phát triển của nền kinh tế có quan hệ với kế toán và
BCTC. Một nền kinh tế phát triển sẽ đòi hỏi công cụ kế toán hữu hiệu nhằm tạo
niềm tin cho giao dịch và sử dụng vốn hiệu quả (Enthoven, 1965 cited by Yapa,
1995). Môi trường kinh doanh của một quốc gia sẽ có ảnh hưởng đến các công bố
tài chính thông qua nhiều nhân tố: thị trường vốn, quyền sở hữu công ty… (Jaggi
and Lowf, 2000).
Các yếu tố đặc trưng của một nền kinh tế, như cơ chế quản lý, hình thức sở
hữu chủ đạo (tư nhân, nhà nước, nước ngoài), định hướng phát triển (nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, tri thức), đặc điểm sản xuất kinh doanh, quy mô,
đặc điểm của thị trường hàng hoá…, cùng với hình thức kinh doanh chiếm ưu thế
và phổ biến trong hoạt động của các doanh nghiệp, sẽ tác động đến các chính

sách kế toán và đối tượng kế toán, nhằm làm tương thích với bản chất các quan
hệ kinh tế, đáp ứng yêu cầu ghi nhận, xử lý và cung cấp thông tin.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các doanh nghiệp thực hiện quá trình
sản xuất kinh doanh và đầu tư theo nhu cầu thị trường, điều này đã làm nảy sinh
sự ràng buộc lẫn nhau về nhu cầu thông tin tài chính. Chính vì vậy, kinh tế thị
trường đòi hỏi sự đa dạng trong cung cấp, sử dụng thông tin trên BCTC. Khi mức
độ hoạt động kinh tế và quy mô của các công ty tăng lên, có một sự gia tăng


- 23 -

tương ứng trong hoạt động kế toán. Mức độ phát triển của xuất khẩu và nhập
khẩu có thể có một tác động tích cực đến sự phát triển của kế toán (Belkaoui,
1985 cited by Zhang, 2005). Khi TTCK phát triển, nó sẽ làm phát sinh kế toán
mua bán, phát hành, chuyển đổi cổ phiếu, trái phiếu; nhiều đối tượng, hình thức
giao dịch mới phát sinh cần được kế toán đo lường, ghi nhận và trình bày trên
BCTC, như lãi cơ bản trên cổ phiếu, thặng dư vốn cổ phần, cổ phiếu quỹ, hoặc
báo cáo dòng tiền cũng được chú ý hơn để phục vụ cho nhu cầu thông tin dự báo
của các nhà đầu tư…
Nguồn cung ứng tài chính sẽ quyết định đối tượng chủ yếu sử dụng
thông tin tài chính và do vậy, quyết định đặc điểm của thông tin tài chính được
cung cấp.
Theo đó, tại các nước mà nguồn cung ứng tài chính chủ yếu là thị trường
vốn (như Mỹ, Anh, Úc…), nơi mà các công ty cổ phần chiếm vị trí chủ yếu trong
nền kinh tế, TTCK là nơi cung cấp vốn chủ yếu cho doanh nghiệp, yêu cầu đối
với thông tin tài chính là cần đảm bảo trình bày trung thực, hợp lý và đầy đủ. Sự
đầy đủ của thông tin tài chính giúp nhà đầu tư có thể dựa vào các BCTC để đưa
ra quyết định kinh tế mà ít khi phải thu thập thêm các thông tin khác (Nobes,
1998).
Ngược lại, tại những quốc gia mà nguồn cung ứng tài chính chủ yếu là nhà

nước (như ở Pháp…) hoặc hệ thống ngân hàng (như ở Đức…) thường không có
sự đòi hỏi cao về sự đầy đủ và hợp lý của thông tin tài chính. Yêu cầu đối với
thông tin kế toán tại các quốc gia này thường là sự tuân thủ các luật định. Ngoài
ra, thông tin kế toán sẽ hướng đến việc bảo đảm lợi ích của người cho vay, việc
công bố thông tin ra công chúng trở thành thứ yếu.
Một minh chứng khá rõ ràng cho ảnh hưởng của nguồn cung ứng vốn đến
hệ thống kế toán và BCTC là trường hợp Nhật Bản. Chính sự phát triển nhanh
chóng của TTCK và sự giảm dần vai trò của ngân hàng trong cung ứng vốn đã
làm cho hệ thống kế toán của Nhật Bản có những thay đổi đáng kể theo hướng
xích lại gần với việc trình bày trung thực, hợp lý và đầy đủ (Nobes and Parker,
1995, trích trong Vũ Hữu Đức, 2010).
Lạm phát cũng được xem là một nhân tố tác động đến hệ thống kế toán


- 24 -

của các quốc gia. Tại các quốc gia có lạm phát cao, ảnh hưởng lũy kế của nó qua
nhiều năm có thể làm cho các thông tin kế toán trở nên vô nghĩa, trừ khi nó được
điều chỉnh phù hợp (Zhang, 2005). Lạm phát là một nhân tố bên ngoài khó kiểm
soát, gây ảnh hưởng may rủi đến BCTC, mức độ ảnh hưởng thay đổi giữa các
công ty (Ilter, 2007).
Đối với các quốc gia đang phải đối đầu với lạm phát (như Brazil, Iran,
Bangladest…), khái niệm bảo toàn vốn trở nên quan trọng và một số biện pháp kế
toán cần phải được sử dụng để loại trừ ảnh hưởng của biến đổi giá giá cả đến
BCTC. Chẳng hạn, tại Brazil, BCTC của các công ty phải được điều chỉnh để
phản ánh đúng giá trị tài sản và thu nhập.
(2) Nhân tố chính trị
Hệ thống chính trị xác định cơ chế kinh tế của một quốc gia, và vì vậy, xác
định mô hình kế toán. Một hệ thống kế toán có ích cho nền kinh tế quản lý tập
trung phải khác với hệ thống kế toán tối ưu cho một nền kinh tế thị trường. Nhân

tố này còn được đề cập dạng các thể chế chính trị trong đó Nhà nước can thiệp
nhiều hay ít vào nền kinh tế.
Hệ thống chính trị cũng phát triển ra bên ngoài và du nhập các chuẩn mực
và thông lệ kế toán. Chẳng hạn như việc nước Đức đã sử dụng chính trị để ảnh
hưởng đến kế toán tại Nhật Bản và Thụy Điển.
Trong những năm gần đây, nhân tố chính trị còn được đề cập dưới dạng
các chính sách của quốc gia trong tiến trình hội tụ quốc tế. Chẳng hạn, Zeff
(2007) đã đề cập đến ảnh hưởng của quan hệ chính trị giữa EU, Hoa Kỳ và IASB
trong việc ra quyết định về hội tụ kế toán.
(3) Nhân tố pháp lý
Môi trường pháp lý có tác động mạnh mẽ đến hệ thống kế toán và BCTC
tại các quốc gia. Doupnik and Salter (1992) đã nghiên cứu tác động của hệ thống
pháp luật trên sự phát triển của hệ thống kế toán tại các quốc gia khác nhau, và
đưa ra giả thuyết rằng sự khác biệt về hệ thống pháp luật của các nước khác nhau
có thể giải thích sự khác biệt trong sự phát triển của hệ thống kế toán. Các nhân tố
chủ yếu của môi trường pháp lý tác động đến hệ thống kế toán bao gồm: hệ thống
pháp luật; vai trò của Nhà nước và tổ chức nghề nghiệp; và pháp luật về thuế.


- 25 -

Hệ thống pháp luật tại các quốc gia, một cách chung nhất, có thể được
phân thành 2 loại: hệ thống pháp luật dựa dựa trên thông luật (common law) và hệ
thống pháp luật dựa trên điển luật (codified law).
Thông luật dựa trên những phán quyết theo tập quán của tòa án. Hệ thống
này hình thành ban đầu ở Anh và sau đó lan sang nhiều nước chịu ảnh hưởng của
Anh như Mỹ, Úc, Canada… Thông luật về cơ bản không hướng đến việc xây
dựng những bộ quy tắc chung; luật công ty thường không đưa ra các quy tắc cụ
thể và chi tiết về việc lập và trình bày BCTC (Zhang, 2005). Những nghiên cứu
gần đây cũng chỉ ra rằng, ở các nước mà hệ thống pháp luật dựa trên thông luật,

mức độ cao của sự bảo hộ pháp luật đối với nhà đầu tư và chủ nợ cũng như đặc
điểm của công ty, đã tạo ra nhu cầu cao hơn của người sử dụng thông tin trên
BCTC (Jaggi et al, 2000).
Điển luật là hệ thống pháp luật có nền tảng từ hệ thống pháp luật của Pháp,
Đức, hiện được sử dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thế giới. Đặc điểm của nó
là sử dụng luật thành văn, dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật. Trong lĩnh
vực kế toán, việc soạn thảo và trình bày BCTC được quy định chi tiết trong các
đạo luật, thường là Luật Công ty hay Luật Thương mại. Chẳng hạn, tại Pháp, các
quy định về kế toán chủ yếu được ban hành dưới dạng một hệ thống kế toán thống
nhất bao gồm các tài khoản kế toán thống nhất, thường được gọi là Tổng hoạch đồ
kế toán (Plan Comptable Géneral - PCG). Ở nhiều quốc gia như Đức, Pháp, Việt
Nam…, cơ sở, nguyên tắc kế toán được quy chiếu vào chế độ kế toán quốc gia;
Nhà nước có vai trò kiểm soát kế toán về phương pháp đo lường, đánh giá, soạn
thảo và trình bày báo cáo, bao gồm cả phương phép ghi chép số liệu, phương pháp
lập và trình bày BCTC.
Vai trò của Nhà nước và Hội nghề nghiệp trong vấn đề về kế toán giữa
các quốc gia cũng khác nhau.
Tại một số quốc gia như Anh, Pháp, Úc…, Nhà nước ít khi đưa ra các quy
định cụ thể về kế toán; những nguyên tắc, chuẩn mực kế toán thường được thiết
lập bởi các hội nghề nghiệp, là những tổ chức tư nhân chuyên nghiệp. Các
nguyên tắc và chuẩn mực nghề nghiệp do hội nghề nghiệp ban hành thường được
sự chấp thuận rộng rãi của xã hội và Nhà nước. Chẳng hạn, tại Mỹ hiện nay, Hội


×