Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu dệt may của Việt Nam khi tham gia vào Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.02 KB, 70 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, nhóm nghiên cứu chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên
hướng dẫn. Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, thầy đã luôn tận tình chỉ bảo, hướng
dẫn chúng em để hoàn thành bài nghiên cứu một cách hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó, chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các cán bộ quản
lý thư viện Trường. Các thầy cô đã luôn tạo điều kiện cho chúng em sử dụng và tham
khảo các loại tài liệu của thư viện. Nhờ đó chúng em mới có thể hoàn thành bài nghiên
cứu của mình.

1

1
1


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Kết quả đạt được của mặt hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào các
nước thành viên của TPP ( 2010-2015)
Bảng 2.2: Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2012 theo mã HS
Bảng 2.3:Những mặt hàng dệt may chính Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ
Bảng 2.4.15 mặt hàng dệt may của Việt Nam (theo HS 6 số) có kim ngạch xuất
khẩu cao tại Nhật Bản quý III/2015
Bảng 2.5: Số liệu thống kê sơ bộ của TCHQ về xuất khẩu dệt may 11 tháng đầu
năm 2015
Bảng 3.1: Bản đánh giá kết quả định tính ngành
Biểu đồ 1: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua các năm (2010-2015)
Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường chính 8 tháng
năm
2014.......................................................................................................................26


Biểu đồ 3: Xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường chính năm 2011 và năm 2012
Biểu đồ 4: Hoa Kỳ- Thị trường xuất khẩu hàng đầu
Biểu đồ 5: Tỷ trọng hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường chính
trong tháng 10 năm 2014
Biểu đồ 6: Kim ngạch xuất khẩu dệt may sang EU (2010-2015)
Biểu đồ 7: Nhu cầu nhân lực theo ngành nghề giai đoạn 2011-2015
Biểu đồ 8: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ giai đoạn (1010-2014)
Biểu đồ 9 : Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản (2010-2015)
Biểu đồ 10: Kim ngạch nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất XK
Biểu đồ 11: Nhập khẩu hàng dệt may, da giày nhập khẩu từ Trung Quốc
2

2
2


Biểu đồ 12: Trình độ của lao động trong ngành dệt may Việt Nam năm 2013
Biểu đồ 13: Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam giai đoạn (2010-2014)
Biểu đồ 14: Giá trị xuất khẩu dệt may vào một số nước
Biểu đồ 15: Cơ cấu thị trường xuất khẩu dệt may 2014
Biểu đồ 16: Tương quan chỉ số ngành với VN-INDEX

3

3
3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết

tắt
APEC
ASEAN
ASEM
CAGR
EPA
EU
FDI
FOB
FTA
FTAAP
GDP
GNP
GSP
ILO
IMF
MFN
ODA
ODM
OTEXA
PCI
TBT
TPP
VCCI
WTO
Y
y

4


Tiếng Anh

Nghĩa tiếng Việt

Asia-Pacific
Economic
Cooperation
Association of Southeast Asian
Nations
Asia-Europe Meeting
Compound Annual Growth Rate
Environmental Protection Agency
European Union
Foreign Direct Investment
Free On Board

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

Diễn đàn hợp tác Á-ÂU
Tốc độ tăng trưởng kép
Hiệp định đối tác kinh tế
Liên minh Châu Âu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Giá giao hàng tại biên giưới nước
xuất khẩu
Free trade agreement
Hiệp định thương mại tự do
Free Trade AREA of the Asia- Khu vực thương mại tự do toàn diện

Pacific
của Châu Á- Thái Bình Dương
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
Gross National Product
Tổng sản phẩm quốc gia
Good Storage Practice
Hệ thống ưu đãi phổ cập
International Labour Organization Tổ chức lao động quốc tế
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
Most-Favoured-Nation
Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc
Official Development Assistance
Nguồn vốn hỗ trợ chính thức từ bên
ngoài
Original design manufacturer
Nhà thiết kế và chế tạo sản phẩm
theo đơn đặt hàng
Office of Textiles and Apparel
Văn phòng dệt may Hoa Kỳ
Per Capita Income
Quy mô sản lượng quốc gia tính bình
quân đầu người
Technical Barries to Trade
Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong
Thương mại của các nước thành viên
Tổ chức thương mại thế giới
Trans-Pacific Partnership
Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược

xuyên Thái Bình Dương
Vietnam Chamber of Commerce Phòng thuương mại và công nghiệp
and Industry
Việt Nam
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
Quy mô của nền kinh tế
Tốc độ tăng trưởng

4
4


PHẦN THUYẾT MINH
I.

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong thời gian gần đây, Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình
Dương (TPP) là một vấn đề được quan tâm hàng đầu của các nước trên thế giới và Việt
Nam cũng là một trong số đó. Khi Hiệp định này được kí kết, nền kinh tế của Việt
Nam đã, đang và sẽ có rất nhiều biến động. Tham gia vào Hiệp định TPP, một cấu trúc
quan trọng của khu vực, sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn các cơ hội do
quá trình tái cấu trúc cục diện quốc tế và khu vực cũng như xu thế hội nhập kinh tế
khu vực đem lại. Bên cạnh đó, tham gia Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam có thêm điều
kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, triển
khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương nói riêng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và Việt
Nam sẽ có cơ hội đàm phán để Hoa Kỳ mở cửa thị trường cho hàng hóa của Việt

Nam, tạo cú hích mạnh để thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu. Bên cạnh đó, việc
tham gia Hiệp định TPP sẽ góp phần thúc đẩy hơn nữa đầu tư của Hoa Kỳ và các nước
vào Việt Nam.Ngành dệt may Việt Nam đang ngày càng khẳng định được vị thế, khách
đặt hàng ngày càng nhiều hơn. Đến nay, một số doanh nghiệp lớn đã ký được đơn đặt
hàng cũng như hợp đồng xuất khẩu giữa năm 2016. Hiệp định đối tác kinh tế chiến
lược xuyên Thái Bình Dương được kí kết sẽ đem lại rất nhiều cơ hội cũng như thách
thức cho ngành dệt may Việt Nam do đó Việt Nam cần có những giải pháp đối với việc
xuất khẩu hàng dệt may.Ưu đãi về thuế do Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình
Dương (TPP) mang lại cũng là yếu tố thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng thị
phần tại thị trường Hoa Kỳ khi hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường này sẽ giảm dần
xuống 0% so với mức 17-18% như hiện nay. Đây là một cơ hội lớn cho Việt Nam tiếp
cận và có thể thâm nhập vào thị trường may mặc Hoa Kỳ với mức thuế 0%. Tuy nhiên
đây cũng là thách thức đối với Việt Nam vì Hoa Kỳ là một thị trường khó tính. Họ đặt
vấn đề tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm lên hàng đầu. Muốn thâm nhập vào thị trường
này, Việt Nam cần đáp ứng tất cả các yêu cầu về sản phẩm của họ để có thể cạnh tranh
với các dòng sản phẩm nội địa của Hoa Kỳ.
TPP yêu cầu cao về xuất xứ đối với ngành dệt may.Đây là thách thức lớn đối với
doanh nghiệp dệt may Việt Nam bởi xuất phát điểm của ngành dệt may đang yếu trong
nguồn cung cấp nguyên phụ liệu cho dệt may như vải, nhuộm... đang lệ thuộc nhiều
vào việc nhập khẩu. Chính vì vậy, chúng ta cần sự nỗ lực của toàn ngành, xã hội và
Chính phủ để thu hút được doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào điểm yếu nhất
này. Bên cạnh đó, cần tăng cường liên kết trong ngành, giữa các nhà sản xuất trong
nước với những nhà sản xuất nguyên vật liệu, tận dụng thành phẩm của nhau để làm
5


nguyên liệu dệt may. Việt Nam cần tái cấu trúc ngành dệt may để hoàn thiện chuỗi
cung ứng, như tăng cường đầu tư vào các công đoạn dệt, nhuộm và hoàn tất dệt.Đây là
điều kiện sống còn không chỉ để thực hiện TPP mà còn để phát triển bền vững và nâng
cao năng lực cạnh tranh. Điều này đòi hỏi đầu tư vốn lớn cũng như tính chất môi

trường cao. Vì Việt Nam là một nước đang phát triển, vẫn còn muôn vàn khó khăn nên
khi cần đến vốn, Chính phủ Việt Nam cần lên kế hoạch lâu dài. Chúng ta có thể tiến
hành vay vốn từ các Ngân hàng thế giới hoặc huy động vốn ODA tới mức có thể. Về
vấn đề môi trường, Việt Nam không hạ thấp chỉ tiêu môi trường nhưng Chính phủ cần
hỗ trợ tài chính cho hoạt động xử lý nước thải trong ngành nhuộm. Đặc biệt, thúc đẩy
mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị thông qua phát triển các cụm dệt
may. Việt Nam cũng cần có cách tiếp cận mở cửa rộng hơn nữa đối với tất cả các
ngành nói chung và ngành dệt may nói riêng, trái ngược với cách tiếp cận phòng thủ
trong đàm phán TPP. Chúng ta cần chủ động nắm bắt những cơ hội về việc xuất khẩu
hàng dệt may mà TPP đem lại. Bên cạnh đó, chúng ta cũng sẵn sàng đối mặt với
những thách thức, khó khăn và vượt qua nó.
Việc tuân thủ quy định về nguyên tắc xuất xứ, kỹ thuật, tiêu chuẩn về lao động,
môi trường hay thủ tục pháp lý... trước mắt sẽ là khó khăn nhưng lại là động lực thúc
đẩy, tạo đà cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng
trong quá trình phát triển lâu dài.
Chúng em quyết định chọn đề tài nghiên cứu này vì chúng em muốn bằng những
kiến thức mình có và những kiến thức có được trong quá trình nghiên cứu đề tài này,
chúng em nhận thấy dệt may là một mặt hàng xuất khẩu chiếm phần lớn trong kinh
ngạch xuất khẩu của Việt Nam những năm vừa qua. Việc xuất khẩu mặt hàng này
không chỉ đem lại doanh thu, lợi nhuận lớn cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp
mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn giúp nền kinh tế
Việt Nam ổn định hơn, giải quyết được các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị,…Chính vì
vậy, chúng em quyết định đưa ra những giải pháp hợp lý giúp các doanh nghiệp Việt
Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may đặc biệt là khi Hiệp định TPP được ký kết. Từ
đó, giúp các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may có thể phát triển lâu dài và bền
vững.
2. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài giới thiệu về Hiệp định TPP, làm rõ những cơ sở lý luận về vận dụng Hiệp định
TPP nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may;
- Đề tài phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam và khả

năng vận dung Hiệp định TPP để thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong
thời gian qua;

6


Đề xuất những giải pháp vĩ mô và giải pháp vi mô trong việc vận dung Hiệp định TPP
nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường các nước thành
viên TPP và các thị trường khác.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vận dụng Hiệp định TPP vào việc xuất khẩu
hàng hóa, nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường các
nước thành viên TPP.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tiêu chí đánh giá và các
yếu tố ảnh hưởng đến đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam khi Hiệp định
TPP được kí kết; Vận dụng tính tương đương, hài hòa hóa và tính minh bạch vào nội
dung của Hiệp định TPP vào việc xuất khẩu hàng dệt may.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Đề tài nghiên cứu về thực trạng xuất khẩu hàng dệt
may của Việt Nam và khả năng vận dụng Hiệp định TPP để thúc đẩy xuất khẩu hàng
dệt may của Việt Nam giai đoạn 2010- 2015
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu vận dụng Hiệp định TPP để thúc đẩy xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường các nước thành viên của TPP
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu là các phương pháp thu thập thông tin khoa học trên cơ
sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng các thao tác tư duy logic để rút ra kết
luận khoa học cần thiết.Trong bài nghiên cứu có sử dụngnhiềuphương pháp nghiên

cứu sau:
- Thu thập thông tin, dữ liệu thứ cấp từ các tài liệu và báo cáo của các cơ quan Nhà
nước, các doanh nghiệp, từ các công trình khoa học đã được công bố.
- Ngoài ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, phân loại, hệ thống hóa lý thuyết,….
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT
MAY KHI HIỆP ĐỊNH TPP ĐƯỢC KÍ KẾT
Chương 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM
Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA
VIỆT NAM KHI HIỆP ĐỊNH TPP ĐƯỢC KÍ KẾT

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG
DỆT MAY KHI HIỆP ĐỊNH TPP ĐƯỢC KÍ KẾT
7


Trong thời gian gần đây, Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
(TPP) là một vấn đề được quan tâm hàng đầu của các nước trên thế giới và Việt Nam
cũng là một trong số đó.
1.1 Khái quát về Hiệp định TPP có liên quan đến xuất khẩu hàng dệt may
1.1.1 Khái quát về quá trình đàm phán Hiệp định TPP
TPP (tên tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement)
là Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương. Hiệp định này khởi nguồn là
Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chile, New Zealand và
Singapore (P3) phát động đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại
Mêhicô. Tháng 4 năm 2005, Brunay xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước
khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4. Hiệp định có hiệu lực từ

28/5/2006 đối với 4 nước thành viên. Đến thời điểm năm 2015 đã có tới 12 nước tham
gia là Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand,
Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam. Đây là Hiệp định mang tính "mở" và sẽ trở thành
thị trường có hơn 790 triệu dân, chiếm gần 40% GDP toàn thế giới và khoảng 1/3 kim
ngạch thương mại toàn cầu. TPP chính thức khởi động đàm phán vào năm 2010 thông
qua nhiều vòng đàm phán đa phương, song phương và đã đi vào giai đoạn cuối cùng
1.1.2. Nội dung của Hiệp định TPP có liên quan đến việc xuất khẩu hàng dệt may
Hiệp định TPP được đánh giá là một FTA thế hệ mới, được coi là hiệp định
“khuôn mẫu” của thế kỷ XXI, có phạm vi điều chỉnh rất rộng rãi và phức tạp. Nó
không chỉ điều chỉnh các lĩnh vực thương mại truyền thống, với cam kết mạnh mẽ về
thuế và phi thuế như xuất xứ hàng hóa, các biện pháp phòng vệ thương mại, các biện
pháp vệ sinh dịch tễ, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT), sở hữu trí tuệ, chính
sách cạnh tranh, mua sắm công và minh bạch hóa…và cả các vấn đề phi thuế thương
mại như lao động, môi trường.
Hiệp định TPP là một hiệp định khu vực, các nước tham gia nhất trí xây dựng
một biểu thuế thống nhất, cũng như các quy tắc xuất xứ chung để giúp các doanh
nghiệp tận dụng nhưng cơ hội mà hiệp định mang lại một các dễ dàng, hiệu quả hơn.
Cách tiếp cận khu vực này sẽ thúc đẩy mạng lưới thương mại khu vực, nâng cao năng
lực cạnh tranh, khuyến khích sử dụng nguyên liệu đầu vào của TPP.
Ngoài ra, các quốc gia thành viên còn tập trung thảo luận nhiều đề xuất và biện
pháp để thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề liên quan tới hoạch định chính sách, gắn kết
môi trường chính sách của mỗi quốc gia, tăng cường năng lực cạnh tranh và tạo điều
kiện kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp các nước thành viên, phát triển chuỗi cung
cấp và sản xuất giữa các nước thành viên, cam kết giải quyết các khó khăn của các
danh nghiệp vừa và nhỏ để doanh nghiệp tìm kiếm lợi thế trong TPP, đồng thời nâng
cao sự tham gia của các doanh nghiệp này vào quá trình lưu thông hàng hóa giữa các
8


quốc gia thành viên TPP, cũng như thúc đẩy sự phát triển chung của các quốc gia

thành viên. Với mục tiêu duy trì tính “mở” của Hiệp định TPP, tức là có cơ chế kết nạp
thêm thành viên mới trong tương lai và các bên có thể tiếp tục đàm phán những vấn đề
phát sinh sau khi Hiệp định có hiệu lực, các nhóm đàm phán cũng đang nỗ lực đưa ra
nhiều đề xuất và biện pháp liên quan để bảo đảm Hiệp định sẽ mang lại lợi ích nhiều
nhất cho tất cả những nước đang và sẽ tham gia Hiệp định để tạo thành một khu vực
thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương. Tính mở của TPP giúp một nước tham gia
có các FTA với nhiều nước trong cùng một lúc.
* Quy định về thuế quan:
Quy định về thuế quan là các quy định về mở cửa thị trường trong lĩnh vực
thương mại quốc tế và cụ thể là thị trường dệt may. Các nước thành viên có tham vọng
rất lớn trong việc giảm và xóa bỏ hoàn toàn thuế quan trong nội khối TPP được áp
dụng cho tất cả các hàng hóa và không có loại trừ cho bất cứ hàng hóa nào. Căn cứ vào
TPP – P4, các nước thành viên sẽ tiến tới cắt giảm ngay 90% các dòng thuế. Mỹ là thị
trường xuất khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Tổng cục
Hải quan, 11 tháng đầu năm 2015, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường Hoa
Kỳ đạt 9,88 tỷ ÚD, tăng 11,7%. Đối với Mĩ, thuế xuất MFN nhập khẩu dệt may từ Việt
Nam bình quân 17-18%, Hiệp định TPP kỳ vọng sẽ cắt giảm mức thuế này về 0% hoặc
về gần 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực hoặc các bên đàm phán đưa ra lộ trình cắt
giảm. Nhưng Mỹ đã đưa ra một lộ trình mở cửa thị trường đối với hàng hóa dệt may
theo 3 nhóm:
- Nhóm 1: bao gồm các mặt hàng nhạy cảm nhất, ngay sau khi Hiệp định có hiệu
lực, 19,7% số dòng thuế sẽ được giảm từ 30-50% so với mức thuế hiện hành, sau đó
giữ nguyên cho đến 10 năm sau đối với sản phẩm đan và 15 năm sau đối với sản phẩm
dệt rồi mới xóa bỏ hoàn toàn thuế quan
- Nhóm 2: bao gồm các sản phẩm nhạy cảm vừa, 7,2% số dòng thuế sẽ được cắt
giảm trong vòng 5 năm, mỗi năm cắt giảm 20% so với mức thuế hiện hành cho đến khi
xuống 0%
- Nhóm 3: 73,1% số dòng thuế sẽ được đưa về 0% ngay sau khi Hiệp định có
hiệu lực
Với nội dung đàm phán này, phía Mỹ muốn đưa nhiều hàng hóa mà Việt Nam có

lợi thế vào nhóm 1 và Việt Nam thì ngược lại. Hoặc cách thức giảm thuế cũng được
Việt Nam cũng như các nước khác rất quan tâm, cùng giảm bình quân từ 30-50%,
nhưng phía Việt nam cần dòng hàng mà Việt Nam có lợi thế có thuế suất giảm nhiều
hơn, các dòng hàng có ít lợi thế có thuế suất giảm ít hơn, bình quân vẫn đảm bảo là 3050% nhưng Việt Nam sẽ có lợi hơn về tiếp cận thị trường.
* Quy định về phi thuế:
9


-

- Xuất xứ hàng hóa: Xuất xứ hàng hóa là vấn đề phức tạp trong đàm phán
thương mại tự do. Trong khuôn khổ đàm phán TPP, đàm phán về quy tắc xuất xứ có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng với Việt Nam. Kết quả đàm phán này quyết định các hàng
hóa của Việt Nam có được hưởng các ưu đãi từ các cam kết giảm thuế từ TPP hay
không.
Thông thường, theo quy định của WTO cà các Hiệp định thương mại tự do khác,
quy tắc xuất xứ được áp dụng theo quy tắc chuyển dịch dòng thuế, có nghĩa là đối với
hàng may mặc được coi là có xuất xứ tại một nước, nếu hàng may mặc được cắt may
toàn bộ hay từng phần tại nước đó, phần còn lại được thực hiện ở các nước nội khối,
còn vải và các phụ kiệncó thể được nhập khẩu từ các nước ngoài khối, quy tắc xuất xứ
này được gọi là quy tắc xuất xứ “cắt và may”. Những tiêu chuẩn xuất xứ quy định
trong TPP có tiêu chuẩn cao hơn so với cơ chế hiện hành của WTO và có các quy định
chặt chẽ hơn, buộc các quốc gia thành viên phải tuân thủ và có cơ chế kiểm soát chặt
chẽ hơn các vấn đề về nguồn gốc xuất xứ của các mặt hang nhập khẩu. Đối với hàng
hóa nói chung , các thành viên của TPP đã đưa ra quy tắc cộng gộp về tỷ lệ nội địa hóa
phải đặt từ 35-45% trở lên thì hàng hóa mới được coi là có xuất xứ từ các nước thành
viên TPP và được hưởng các ưu đãi từ TPP, có nghĩa là giá trị phần nguyên vật liệu để
sản xuất ra hàng hóa có xuất xứ từ các nước thành viên TPP chiếm từ 35-45% giá trị
hàng hóa nhập khẩu đã được điều chỉnh (chỉ tính giá trên FOB). Tuy nhiên, để sản xuất
ra hàng dệt may phải trải qua bốn công đoạn chính: sản xuất xơ, sợi, vải và cắt may

thành hàng may mặc và phía Mỹ đã đề xuất quy tắc xuất xứ cho hàng dệt may linh
hoạt hơn, quy tắc “từ sợi trở đi- yarn forward” được gọi là quy tắc “ba công đoạn”, có
nghĩa là sản phẩm dệt may để được hưởng ưu đãi về thuế nhập khẩu theo TPP thì sản
phẩm dệt may, các công đoạn sợi, vải, cắt may phải được thực hiện tại các nước thành
viên của TPP. Tính tới thời điểm ngày 1/5/2015 thì đàm phán dệt may, các nước thành
viên của TPP đã chốt nguyên tắc quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi- yarn forward”, theo đó
các sản phẩm dệt may muốn được hưởng các ưu đãi thuế quan TPP phải được sản xuất
từ sợi trở đi tại các nước thành viên TPP.
Tuy nhiên, bên cạnh quy tắc chung thì sẽ có ngoại lệ nằm trong hai danh sách bổ sung
(danh mục các hàng dệt may không áp dụng quy tắc này) hay còn được gọi là danh
mục “nguồn cung ngắn hạn thiếu hụt- short supply”. Hiệp định TPP đã quy định một
số trường hợp có quy tắc xuất xứ linh hoạt như sau;
+ 3 nhóm hàng may mặc được áp dụng quy tắc xuất xứ 1 công đoạn, cắt và
may, bao gồm: vali, túi xách, áo ngực phụ nữ, quần áo trẻ em bằng sợi tổng hợp;
+ Danh mục nguồn cung thiếu hụt gồm 194 loại sợi, vải được phép sử dụng từ
ngoài khu vực TPP. Trong đó, 186 mặt hàng sẽ được áp dụng vĩnh viễn và 8 mặt hàng
chỉ được áp dụng cơ chế này trong vòng 5 năm;
10


+ Cơ chế 1 đổi 1 áp dụng với quần nam, nữ bằng vải bông xuất khẩu sang
Hoa Kỳ. Doanh nghiệp mua 1 đơn vị vải bông thích hợp làm quần có xuất xứ từ Hoa
Kỳ sẽ được phép sử dụng 1 đơn vị vải bông nhập khẩu từ ngoài khu vực TPP để may
quần xuất khẩu sang Hoa Kỳ và hưởng thuế 0%. Tỷ lệ quy đổi giữa vải bông xuất xứ
Hoa Kỳ và vải bông được phép nhập khẩu từ ngoài khối TPP khác nhau giữa quần
nam và nữ.
Đây là các sản phẩm mà nguồn cung từ các nước thành viên TPP không đủ và do
đó có thể được cung cấp bởi các nguồn ngoài TPP mà vẫn dược hưởng ưu đãi thuế ,
hay còn gọi là danh mục các ngoại lệ không áp dụng quy tắc xuất xứ “từ sợi trở điyarn forward”. Có hai loại danh mục nguồn cung ngắn hạn thiếu hụt là danh mục
thường xuyên và danh mục tạm thời. Danh mục tạm thời- tempoary: bao gồm các

nguyên liệu dệt may hiện không được sản xuất trong các nước thành viên của TPP,
nhưng có thể được sản xuất trong tương lai. Vì thế, các sản phẩm dệt may sử dụng
nguyên liệu trong danh mục này sẽ chỉ áp dụng quy tắc “cắt và may” trong một
khoảng thời gian, sau đó thì các sản phẩm này sẽ phải áp dụng quy tắc xuất xứ “từ sợi
trở đi- yarn forward”.
Đây là danh mục được xem là ngoại lệ, do đó số lượng các sản phẩm nguyên liệu
được đưa vào danh mục này là có hạn. Số lượng các sản phẩm đưa vào danh mục có
ảnh hưởng đến quyền lợi của các nước thành viên. Để thuyết phục các nước đối tác
chấp thuận cần có các giải pháp cụ thể về tính chất thiếu hụt của các tài nguyên này
trong nội khối TPP.
* Biện pháp tự vệ:
Đàm phán về hàng dệt may trong khuôn khổ TPP, các nước đề xuất biện pháp tự
vệ đặc biệt chỉ áp dụng cho mặt hàng dệt may cho cơ chế riêng. Cơ chế này nhằm bảo
vệ cho nước nhập khẩu (đặc biệt là Mỹ). Theo cơ chế này, cho phép nước nhập khẩu
có thể đưa ra các biện pháp tự vệ cần thiết, tăng thuế ưu đãi trở lại mức thuế MNF
trong trường hợp hàng dệt may ồ ạt nhập khẩu vào thị trường có khả năng gây ra thiệt
hại hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho ngành dệt may của nước nhập khẩu. Khi áp dụng
biện pháp tự vệ, nước nhập khẩu phải có giải pháp đền bù thiệt hại vè kinh tế mà nước
xuất khẩu phải gánh chịu do không được hưởng thuế ưu đãi như trong Hiệp định.
Đối với Việt Nam là nước xuất khẩu dệt may, đây là điều khoản gây bất lợi cho
các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế, khả năng áp dụng cơ chế này
không cao vì khả năng xuất khẩu dệt may tăng đột biến không cao và Mỹ hầu như
không có ngành may nội địa sản xuất hàng tương tự với hàng dệt may của Việt Nam.
Do đó, yếu tố gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa, yếu tố quyết định
áp dụng biện pháp tự vệ hầu như không xảy ra
* Những vấn đề liên quan đến lao động:
11


Bản dự thảo các vấn đề lao động trong TPP, có yêu cầu các thành viên của TPP

phải duy trì trong các luật, các văn bản dưới luật các quyền liên quan đến tự do thành
lập hội, thừa nhận một cách hữu hiệu quyền thương lượng tập thể, loại bỏ mọi hình
thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc, bãi bỏ một cách hiệu quả lao động trẻ em và
cấm mọi hình thức tồi tệ nhất đối với lao động trẻ em, loại bỏ các hình thức phân biệt
về đối xử, về lao động và việc làm.
Hiệp định cũng đưa ra các quy định cụ thể về các điều kiện làm việc chấp nhận
được, các cam kết về lương tối thiểu, giờ làm việc, vệ sinh an toàn lao động, đại diện
cho người lao động, bồi thường trong lao động, chế độ bảo hiểm hưu trí. Hiệp định
cũng đưa ra chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm, mà cụ thể các nước thành
viên được phép tính thuế với các hàng dệt may nhập khẩu vi phạm các quy định về lao
động.
* Các quy định phi thuế khác:
Các cam kết phi thuế quan có liên quan đến hoạt động sản xuất hàng dệt may còn
bao gồm các vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, TBT, về cạnh tranh, tiêu chuẩn về
môi trường. Trong đó thiết lập cơ chế hợp tác nhằm minh bạch hóa và xử lý các tranh
chấp phát sinh, đối với lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chú trọng đến thủ tục bảo
hộ và tiêu chuẩn bảo hộ. Như vậy, các lĩnh vực này chú trọng nhiều đến thủ tục, minh
bạch hóa, cơ chế hợp tác, giải quyết tranh chấp hơn là thỏa thuận, đưa ra các tiêu
chuẩn bảo hộ cao hơn.
1.1.3 Phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TPP
Trải qua các vòng đàm phán tương đối thành công, các nước thành viên được
xem là đã đạt được nhất trí cơ bản trong các nguyên tắc đàm phán và đã thiết lập được
khuôn khổ cho các cam kết nền (kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cạnh
tranh…). Cụ thể, phạm vi điều chỉnh của TPP “bị quy định” bởi các yếu tố sau:
1.1.3.1 TPP – Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Về nguyên tắc, các Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreements - FTA)
đòi hỏi mức độ cam kết mở cửa sâu hơn các cam kết mở cửa thương mại thông thường
(thể hiện chủ yếu ở các lĩnh vực phải cam kết mở cửa rộng hơn, mức độ mở cửa như
cắt giảm thuế quan, loại bỏ các điều kiện tiếp cận thị trường…).
Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa hoạt động thương mại trên thế giới đã chứng

kiến 03 thế hệ các FTA, bắt đầu từ các FTA thế hệ thứ nhất tập trung ở việc tự do hóa
lĩnh vực thương mại hàng hóa (cắt giảm thuế quan, loại bỏ các rào cản phi thuế), sang
các FTA thế hệ thứ hai với việc mở rộng phạm vi tự do hóa sang các lĩnh vực dịch vụ
nhất định (xóa bỏ các điều kiện tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực dịch vụ liên
quan), và FTA thế hệ thứ ba tiếp tục mở rộng phạm vi tự do về dịch vụ, đầu tư.
12


Các hiệp định FTA trong thời gian gần đây (đặc biệt là các FTA mà Hoa Kỳ đàm
phán) chứng kiến một xu hướng mới trong đó không chỉ những lĩnh vực thương mại
mở cửa được đề cập mà cả những vấn đề phi thương mại như lao động, môi trường
cũng được đưa vào đàm phán và ký kết. TPP là một hiệp định mới nhất được đàm
phán trong thời gian này, rõ ràng TPP sẽ khó đi chệch xu hướng này. Phạm vi của Hiệp
định này, vì vậy, được dự kiến là sẽ rất rộng và phức tạp, với các vấn đề thương mại và
phi thương mại đan xen.
1.1.3.2 TPP – Sự phát triển của P4
Với “nền tảng” là Hiệp định P4, TPP được dự kiến là mở rộng và đa dạng hóa
các lĩnh vực cam kết mà P4 đã đề cập. Theo một logic tự nhiên TPP được suy đoán có
phạm vi rộng hơn P4.
Trong khi đó P4 đã có cam kết mạnh về thuế quan và nhiều vấn đề phi thuế
quan như (xuất xứ hàng hóa, các biện pháp phòng vệ thương mại, các biện pháp vệ
sinh dịch tễ, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, sở hữu trí tuệ, mua sắm công, chính
sách cạnh tranh…và cả những vấn đề phi thương mại như lao động, môi trường). Vì
vậy TPP mới chắc chắn sẽ có phạm vi lớn hơn nữa.
1.1.3.3 TPP – “FTA của thế kỷ XXI”
Tham gia đàm phán TPP, Hoa Kỳ tuyên bố nước này kỳ vọng TPP sẽ tạo dựng
một chuẩn mới cho các “FTA của thế kỷ 21”. Rõ ràng đây không phải là một tuyên bố
hình thức khi người ta nhìn vào các FTA mà Hoa Kỳ đàm phán trong thời gian gần đây
(FTA với Panama, Colombia và đặc biệt là FTA với Hàn Quốc ). Mong muốn đằng sau
tuyên bố này là Hoa Kỳ sẽ cố gắng để TPP có phạm vi lớn nhất có thể, và với mức độ

mở cửa rộng nhất có thể.
Với tham vọng như vậy của “người cầm trịch”, đàm phán TPP khó có thể là một
đàm phán ở mức độ “tự do cầm chừng” hay phạm vi “tự do hạn chế”.
Những yếu tố nêu trên là căn cứ để nhiều chuyên gia cho rằng mặc dù chưa xác
định các nội dung đàm phán thực chất, TPP sẽ có phạm vi điều chỉnh rộng, với xu
hướng đàm phán tự do mạnh mẽ , ví dụ:
- Thuế quan: Cắt giảm hầu hết các dòng thuế (ít nhất 90%), thực hiện ngay hoặc
thực hiện với lộ trình rất ngắn
- Dịch vụ: Tăng mức độ mở cửa các lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài
chính
- Đầu tư: Tăng cường các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài và bảo vệ
nhà đầu tư
- Quyền sở hữu trí tuệ: Tăng mức độ bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ cao hơn so
với mức trong WTO (WTO+)
13


1.2

- Các biện pháp SPS, TBT: Siết chặt các yêu cầu về vệ sinh dịch tễ và rào cản kỹ
thuật;
- Cạnh tranh và mua sắm công: Tăng cường cạnh tranh, đặc biệt trong lĩnh vực
mua sắm công
- Các vấn đề lao động: đặc biệt là các vấn đề về quyền lập hội (nghiệp đoàn),
quyền tập hợp và đàm phán chung của người lao động, quy định cấm sử dụng mọi
hình thức lao động cưỡng bức, quy định cấm khai thác lao động trẻ em, quy định
không phân biệt đối xử trong lực lượng lao động
- Các vấn đề phi thương mại khác: Tăng yêu cầu về môi trường.
Tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may
khi Hiệp định TPP được kí kết

1.2.1 Các tiêu chí đánh giá đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may khi Hiệp định
TPP được kí kết
-Kim ngạch xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu là tổng giá trị của tất cả các hàng hóa xuất khẩu của quốc
gia (hoặc một doanh nghiệp) trong một kỳ nhất định quy đổi đồng nhất ra một đơn vị
tiền tệ nhất định. Nói cách khác, kim ngạch xuất khẩu là lượng tiền thu được từ xuất
khẩu các hàng hóa, dịch vụ của một quốc gia tính trong một thời gian cố định thường
là một tháng, một quý hoặc một năm. Trị giá xuất khẩu hàng hóa là toàn bộ giá trị
hàng hóa đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam làm giảm nguồn của cải vật chất của Việt
Nam trong một thời kỳ nhất định. Trị giá xuất khẩu được tính theo giá FOB. Giá FOB
là giá giao hàng tại biên giới nước xuất khẩu, bao gồm giá của bản thân hàng hóa, chỉ
phí đưa hàng đến địa điểm xuất khẩu và chi phí bốc hàng lên phương tiện chuyên chở.
-Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và
tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên
đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay
đổi về lượng của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng được tính bằng cách lấy chênh lệch
giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh
tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng được tính bằng đơn vị %.

14


Biểu diễn bằng toán học sẽ có công thức:
y= (dY/Y) x 100*
Trong đó: Y là quy mô của nền kinh tế
y là tốc độ tăng trưởng

Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ
tăng trưởng GDP (hay GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP

(hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông
thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
-Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu:
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu là tổng thế các nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu trong
toàn bộ kim ngạch xuất khẩu với vị trí, tỷ trọng tương ứng và mối liên hệ hữu cơ
tương đối ổn định hợp thành. Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu là sự thay đổi của cơ
cấu hàng xuất khẩu từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với yêu cầu
phát triển. Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu góp phần làm tăng nguồn thu ngoài tệ,
cải thiên cán cân thanh toán quốc tế, giúp định hướng cho việc đầu tư sản xuất, tận
dụng tiềm năng và phát huy có hiệu quả các nguồn lực trong nước, buộc các doanh
nghiệp phải luôn nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đã có sự cải thiện
đáng kể. Ngoài những mặt hàng truyền thống như vụ cho các nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày có chất lượng trung bình với mức giá thấp, xuất khẩu dệt may đang có xu hướng
dịch chuyển sang các sản phẩm mẫu mốt, chất lượng tốt với mức giá cao. Hàng dệt
may của Việt Nam xuất ra thế giới chủ yếu là nhóm hàng: bộ comple, quần áo đồng
bộ, áo jacket, áo khoác thể thao, váy dài, chân váy, quần dài, quần yếm, quần ống chẽn
và quần soóc dành cho phụ nữ và trẻ em gái (HS 6204 và HS 6104), quần soóc dành
cho nam giới và trẻ em trai (HS 6203); các loại áo bó, áo chui đầu, áo cài khuy, gi-lê
(HS 6110); áo phông, áo may ô và các loại áo lot khác (HS 6109)…
-Cơ cấu thị trường xuất khẩu:
Cơ cấu thị trường là tỉ trọng các loại hàng hóa, dịch vụ và khả năng cung cấp các
loại hàng hóa của các nhà cung cấp trên thị trường đó. Việt Nam xuất khẩu hàng dệt
may nhiều sang các thị trường Hoa Kỳ, EU, Canada và Nhật Bản, trong đó EU là thị
trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam chiếm 34%- 38% tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam. Còn sản phẩm dệt may xuất khẩu sang Nhật
Bản đã được hưởng thuế ưu đãi theo hệ thống GSP nên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
15



may vào thị trường này tăng khá nhanh trong những năm gần đây. Bên cạnh đó, Trung
Đông cũng là thị trường xuất khẩu hàng dệt may tiềm năng đối với Việt Nam. Tại khu
vực Trung Đông, thị trường chủ yếu với các sản phẩm may mặc là các Tiểu Vương
quốc Ả-rập thông nhất (UAE) và Ả-rập Xê-út do UAE là trung tâm thương mại, du
lịch của khu vực. Một phần lớn sản phẩm may sẵn ở UAE dành để phục vụ khách du
lịch. Do đặc điểm tôn giáo đạo Hồi, trang phục tại các nước Trung đông chủ yếu là
trang phục Hồi giáo, mang đặc điểm văn hóa Hồi giáo. Chính vì vậy, các nước Trung
Đông chủ yếu nhập vải để may trang phục theo phong cách Hồi giáo. Trang phục công
sở hiện đại cũng được sử dụng những không nhiều như ở các thị trường khác ở châu
Âu, Đông Bắc Á. Mặc dù vậy, các quốc gia ở khu vực Trung Đông vẫn là thị trường có
nhiều tiềm năng cho các sản phẩm dệt may, đặc biệt là vải và trang phục trẻ em may
sẵn. Hiện nay, sản phẩm dệt may của Việt Nam mới chỉ chiếm một thị phần nhỏ tại thị
trường Trung Đông. Nhờ việc tham gia vào Hiệp định TPP, các doanh nghiệp xuất
khẩu dệt may của Việt Nam đã có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận với các thị trường quốc
tế tiềm năng- nơi mà trước đây các doanh nghiệp Việt Nam chưa tiến hành hoạt động
xuất khẩu hàng hóa. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu các thông tin thị
trường, nghiên cứu về thị hiếu, mẫu mã, phong cách ăn mặc tại các quốc gia này. Đồng
thời, tích cực tham gia các hội chợ triển lãm hàng hóa trong khu vực cũng như trên thế
giới nhằm giới thiệu về sản phẩm của doanh nghiệp cũng như nắm bắt được nhiều cơ
hội hơn trong kinh doanh. Các doanh nghiệp cũng cần thiết lập các mối quan hệ kinh
doanh, mở rộng việc xâm nhập thị trường để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt
may sang các quốc gia khác.
-Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Hoạt động cuất khẩu chính là việc doanh nghiệp phải cạnh tranh với các doanh
nghiệp nghiệp nước ngoài để tiêu thụ hàng hóa ở thị trường đó. Trong bối cảnh hiện
nay, khi các quốc gia đang đẩy mạnh tiến trình hội nhập và phát triển, sự canh tranh đó
là tất yếu. Nó đảm bảo cho doanh nghiệp có chỗ đứng trên thị trường quốc tế, giúp
doanh nghiệp nâng cao hình ảnh của mình. Việc nắm rõ về đối thủ cạnh tranh trên thị
trường xuất khẩu giúp doanh nghiệp có thể lựa chọn chiến lược kinh doanh, chiến lược
cạnh tranh phù hợp và có hiệu quả nhất. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp cũng

như bất kì hoạt động sản xuất kinh doanh nào khác đều cần có vốn. Khi xem xét nhân
tố này cần phải chú ý đén các chỉ tiêu về quy mô và khả năng thanh toán. Quy mô vốn
của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, khả năng sản xuất hàng hóa, tức là
tác động đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và thị trường nước
ngoài. Dựa trên quy mô vốn của mình, doanh nghiệp có thể lựa chọn đoạn thị trường
mà doanh nghiệp dự định kinh doanh xuất khẩu. Còn đối với phía nước ngoài, các chỉ
tiêu về khả năng thanh toán là cơ sở để họ lựa chọn bạn hàng để ký kết hợp đồng kinh
16


doanh. Nguồn lao động, máy móc, trang thiết bị và công nghệ là những nhân tố ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng sản xuất của doanh nghiệp và quyết định chất lượng sản
phẩm. Chất lượng sản phẩm là tiêu chí hàng đầu trong việc cạnh tranh với các sản
phẩm khác ở thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp quản lý và sử dụng hợp lý nguồn
lao động, máy móc, trang thiết bị thì chất lượng sản phẩm sẽ được nâng cao, qua đó
làm tăng hiệu quả hoạt động sản xuất. Quản lý chi phí và chính sách giá là các nhân tố
ảnh hưởng trực tiếp tới việc xuất khẩu hàng hóa. Việc quản lý tốt chi phí sẽ dẫn tới
việc giá thành sản phẩm hạ, do đó giá cảm hàng hóa giảm. Giá cả hàng hóa cũng là
một yếu tố cạnh tranh của sản phẩm. Sản phẩm có chất lượng tốt, đảm bảo thì giá cả
thấp là một lợi thế để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Khách hàng sẽ dễ
dàng chấp nhận hơn đối với sản phẩm có giá cả thấp và hàng hóa của doanh nghiệp sẽ
thâm nhập vào thị trường nước ngoài dễ dàng hơn. Trình độ quản lý của doanh nghiệp
cũng ảnh hưởng đến xuất khẩu. Một doanh nghiệp xuất khẩu có trình độ quản lý tốt sẽ
là một bảo đảm cho chất lượng cản phẩm, tạo cho khách hàng một sự tin tưởng nhất
định cho sản phẩm của doanh nghiệp. Điều này giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của
sản phẩm, từ đó tăng hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp. Uy tín và hình ảnh của
doanh nghiệp là những lợi thế vố hình mà doanh nghiệp không thể lượng hóa hết.
Doanh nghiệp và sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp có được thị trường trong và
ngoài nước biết đến và chấp nhận hay không phụ thuộc vào các yếu tố này. Khi doanh
nghiệp đã xây dựng cho mình một hình ảnh, tên tuổi trên thị trường quốc tế cũng chính

là tạo ra cho khách hàng và đối tác kinh doanh khác một sự đảm bảo tin cậy. Nhờ vậy,
sản phẩm của doanh nghiệp dễ dàng được thị trường nước ngoài chấp nhận, dễ dàng
được tiêu thụ hơn và có khả năng cạnh tranh cao hơn so với các sản phẩm của các
doanh nghiệp khác.
- Hiệu quả xuất khẩu:
Hiện nay, hoạt động xuất khẩu đang được nhiều doanh nghiệp quan tâm, chú
trọng và đẩy mạnh đầu tư để phát triển về hình thức kinh doanh này. Việc đánh giá
hiệu quả xuất khẩu rất quan trọng và cần thiết đối với những doanh nghiệp này. Đánh
giá hiệu quả xuất nhập khẩu sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được hiệu quả mang
lại thông qua mỗi hợp đồng xuất khẩu cũng như toàn bộ quá trình hoạt động xuất khẩu
của doanh nghiệp. Hơn nữa, dựa trên đánh giá hiệu quả xuất khẩu này để đánh giá
doanh nghiệp có phù hợp với hình thức kinh doanh xuất khẩu này không, để từ đó
quyết định xem nên tiếp tục hay dừng lại hoạt động kinh doanh xuất khẩu này.

17


+ Đối với kinh tế:
Quá trình sản xuất- xuất khẩu của ngành dệt may ảnh hưởng lớn đến hoạt động
xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng dệt may đối với nền kinh tế nước ta
và đối với mỗi doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may.
Thứ nhất, xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt may sẽ tạo
nguồn thu nhập, tích lũy cho Nhà nước một nguồn ngoại tệ lớn cho việc nhập khẩu các
thiết bị sản xuất hiện đại, nguyên phụ liệu… để phát triển sản xuất phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, giúp cho mỗi doanh nghiệp
có cơ sở để tự hiện đại hóa quy trình sản xuất của mình. Bên cạnh đó, khi xuất khẩu
các sản phẩm dệt may, nước ta sẽ thu được một nguồn ngoại tệ lớn cho nền kinh tế
quốc dân, đáp ứng việc nhập khẩu các loại hàng hóa mà chúng ta cần để đảm bảo cho
sự phát triển cân đối, ổn định của nền kinh tế. Việc xuất khẩu hàng dệt may cũng giúp
chúng ra khai thác tối đa tiềm lực của doanh nghiệp cũng như tiềm năng của đất nước.

Bản thân mỗi doanh nghiệp, trong quá trình hoạt động kinh doanh sẽ phải nhận thức rõ
được điểm mạnh, điểm yếu của mình để tận dụng triệt để, tối đa những điểm mạnh và
tối thiểu những điểm yếu của mình. Cùng với tiềm lực sẵn có, doanh nghiệp sẽ kết hợp
với những tiềm năng của đất nước để nắm bắt những cơ hội thách thức, đồng thời giải
quyết những khó khăn trong việc kinh doanh nói chung và trong việc xuất khẩu hàng
dệt may nói riêng.
Thứ hai, xuất khẩu và mở rộng thụ trường xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng
dệt may nói riêng được xem là một yếu tố thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế vì
nó cho phép mở rộng quy mô sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước, gây
phản ứng dây chuyền kéo theo một loạt các ngành khác có liên quan phát triển theo.
Khi ngành dệt may đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu thì
buộc doanh nghiệp sẽ phải mở rộng quy mô sản xuất và cần nhiều nguyên vật liệu hơn
để phục vụ cho ngành dệt may. Điều đó sẽ dẫn theo sự phát triển của ngành trồng bông
và các ngành liên quan khác như sản xuất phân bón, vận tải… Ở nước ta hiện nay,
công nghiệp dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn thông qua
tăng cường sản xuất bông, đay, tơ tằm và là phương tiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế
từ nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Ngược lại, công nghiệp dệt may sẽ là
động lực để công nghiệp may và các ngành khác sử dụng dệt làm nguyên liệu phát
triển theo.
Thứ ba, việc tiến hành các hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu
hàng dệt may góp phần giúp Nhà nước và bản thân các doanh nghiệp sử dụng có hiệu
quả nhất các nguồn lực có sẵn và các lợi thế vốn có của quốc gia cũng như của các
doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với sự phát triển của khoa
học công nghệ trên mọi lĩnh vực để nâng cao chất lượng, tăng sản lượng và hướng tới
sự phát triển bền vững, lâu dài cho đất nước và doanh nghiệp đó.
18


Thứ tư, để đẩy mạnh việc xuất khẩu dệt may và mở rộng thị trường xuất khẩu dệt
may có hiệu quả cao, các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư vào trang thiết bị

máy móc, công nghệ sản xuất để vừa cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa tăng
năng suất lao động thì mới có thể tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, có thể cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Như vậy, xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu
hàng dệt may có vai trò kích thích đổi mới công nghệ sản xuất cho nền kinh tế nói
chung và cho ngành dệt may nói riêng.
Thứ năm, nhờ có hoạt động xuất khẩu và công tác mở rộng thị trường xuất khẩu
hàng dệt may mà sự hợp tác kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực cũng như
trên thế giới ngày càng phát triển bền chặt hơn. Việc xuất- nhập khẩu chính là sự trao
đổi hàng hóa giữa các quốc gia, thể hiện mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia và là hình thức ban đầu của hoạt động đối ngoại. Không chỉ thế, nó còn tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp có nhiều cơ hội hơn để tiếp xúc với thị trường bên
ngoài, từ đó có nguồn thông tin vô cùng phong phú và nhạy bén với cơ chế thị trường,
thiết lập được nhiều mối quan hệ và tìm được nhiều bạn hàng trong kinh doanh để hợp
tác xuất- nhập khẩu.
Như vậy, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng
dệt may có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với bản thân mỗi doanh nghiệp dệt
may mà còn có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Chính vì thế, nó được xem
như hướng phát triển có tính chiến lược góp phần quan trọng vào quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Đối với xã hội:
Đó là những lợi ích của hoạt động kinh doanh xuất khẩu mà doanh nghiệp đó
mang lại cho đất nước, xã hội. Những kết quả về mặt xã hội thường được Nhà nước
khuyến khích để xuất khẩu, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
hoạt động trong các lĩnh vực liên quan.
Công nghệ dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn, phát huy được lợi
thế của những nước có nguồn lao động dồi dào với giá nhân công rẻ. Chính vì vậy,
hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng dệt may góp phần giúp
Nhà nước giải quyết vấn đề công ăn việc làm, cải thiện và nâng cao mức sống của
người dân, đưa quốc gia thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Việc ngành dệt may
hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu đồng nghĩa với việc các doanh

nghiệp xuất khẩu sẽ phải mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm để
đáp ứng nhu cầu đa dạng, khắt khe của thị trường quốc tế. Ngành dệt may cũng thu hút
được nhiều lao động hơn phục vụ cho quá trình sản xuất và đồng thời giúp họ có một
mức thu nhập cao, ổn định, tay nghề của người lao động sẽ được cải thiện, nâng cao do
khi xuất khẩu hàng dệt may, gần như tất cả các doanh nghiệp dệt may sẽ phải tiến hành
đào tạo một cách bài bản và có kế hoạch cụ thể. Người lao động cũng có cơ hội tiếp
19


cận với công nghệ sản xuất dệt may hiện đại. Như vậy, việc xuất khẩu hàng dệt may
tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu lợi nhuận, tích lũy để làm tiền
đề phát triển các ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống, giải quyết
được các vấn đề xã hội và ổn định tình hình xã hội.
- Chỉ tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả có tính tổng hợp, phản ánh kết quả cuối cùng của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó là tiền đề để duy trì và tái sản xuất mở rộng doanh
nghiệp, để cải thiện và nâng cao đời sống người lao động.
Doanh thu từ hoạt động xuất khẩu được tính bằng công thức:
TR = P x Q
Trong đó: TR: tổng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu
P: giá cả hàng hóa xuất khẩu
Q: số lượng hàng hóa xuất khẩu

Lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu là số chênh lệch của tổng doanh thu và tổng
chi phí phải bỏ ra:
Lợi nhuận = TR – TC
Trong đó: TC: tổng chi phí bỏ ra trong hoạt động xuất khẩu

- Tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu: Hiệu quả của việc xuất khẩu được xác định bằng
cách so sánh số ngoại tệ thu được do xuất khẩu (giá trị quốc tế của hàng hóa) với

những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất hàng hóa xuất khẩu đó. Tỷ suất lợi nhuận xuất
khẩu là chỉ tiêu hiệu quả tương đối.
Biểu diễn bằng toán học có công thức:

20


p = (P/ TR) x 100%
Trong đó: p: tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu
P: lợi nhuận xuất khẩu
Nếu p > 1 thì doanh nghiệp đạt hiệu quả trong xuất khẩu
Nếu p < 1 thì doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả trong xuất khẩu

- Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu:

Tỷ suất ngoại tệ = thu nhập ngoại tệ (USD)/ tổng nội tệ xuất khẩu (VNĐ)
Nếu tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu < tỷ giá do Ngân hàng nhà nước công bố thì
doanh nghiệp nên tiếp tục hoạt động xuất khẩu
Nếu tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu > tỷ giá do Ngân hàng nhà nước công bố thì doanh
nghiệp không nên tiếp tục hoạt động xuất khẩu

1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc xuất khẩu dệt may
- Hoạt động sản xuất hàng dệt may trong nước cũng tác động đến việc xuất khẩu
hàng hóa này. Có hai cách nhìn nhận về tác động của sản xuất hàng dệt may đối với
hoạt động xuất khẩu.
Thứ nhất, chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng nội địa.
Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu, kém phát triển sản xuất về cơ bản chưa đủ
tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự dư thừa của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp
trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội
phát triển.

Thứ hai, coi thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này
tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc dẩy doanh nghiệp trong nước
sản xuất để xuất khẩu. Nó được thể hiện như sau:
+ Sản xuất hàng hóa để xuất khẩu tạo tiền đề cho các ngành cùng có cơ hội phát
triển. Điều này có thể thông qua ví dụ như khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu, các
ngành khác như bông, sợ, nhuộm, tẩy… sẽ có điều kiện để cung phát triển.
+ Sản xuất hàng hóa để xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thụ trường sản phẩm,
góp phần ổn định sản xuất, tạo lợi thế nhờ quy mô, mở rộng thị trường tiêu dùng của
quốc gia. Nó cho phép một quốc giacó thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng
21


-

-

lớn hơn nhiều lần giới hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó, thậm chí cả những mặt
hàng mà quốc gia đó không có khả năng sản xuất.
Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp chiu tác động của nhiều yếu
tố và doanh nghiệp chỉ có thể kiểm soát một phần trong số đó. Do vậy, việc dự báo ảnh
hưởng của nó là rất khó khăn. Các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp có
hoạt động xuất khẩu cần nắm rõ từng nhân tố để phát huy những tác động tích cực, hạn
chế các mặt tiêu cực của các nhân tố này đến hoạt động xuất khẩu của mình.
Có bốn nhân tố chính ảnh hưởng đến việc sản xuất cũng như xuất khẩu hàng hóa
đó là: nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên thiên nhiên, vốn và công nghệ:
Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là nguồn lực của mỗi con người, gồm có thể lực và trí lực. Thể
lực phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của con người, mức sống, thu nhập, chế độ ăn
uống, chế độ làm việc, nghỉ ngơi, môi trường làm việc,… Trí lực là nguồn tiềm tàng to
lớn của con người. Đó là tài năng, năng khiếu cũng như quan điểm, lòng tin, nhân

cách… của con người. Chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và
kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết
các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ… đều có thể mua hoặc vay
mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như
máy móc, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phá huy được tối đa hiệu
quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên thiên nhiên là những của cải, vật chất có sẵn trong tự nhiên mà con
người có thể khai thác, chế biến, sử dụng để phục vụ cho cuộc sống của con người.
Những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, dầu mỏ, rừng, nguồn nước…
Tài nguyên thiên nhiên chia làm 2 loại đó là: tài nguyên tái tạo và tài nguyên không
tái tạo.
+ Tài nguyên tái tạo (nước ngọt, đất, sinh vật…) là tài nguyên có thể tự duy trì
hoặc tự bổ sung một cách liên tục khi được quản lý một cách hợp lý. Tuy nhiên,
nếu sử dụng không hợp lý, tài nguyên tái tạo có thể bị suy thoái không thể tái tạo
được. Ví dụ: tài nguyên nước có thể bị ô nhiễm, tài nguyên đất có thể bị mặn hóa,
bạc màu, xói mòn…
+ Tài nguyên không tái tạo là loại tài nguyên tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc biến
đổi sau quá trình sử dụng. Ví dụ: tài nguyên khoáng sản của một mỏ có thể bị cạn kiệt
sau khi khai thác, tài nguyên gen di truyền có thể mất đi cùng với sự tiêu diệt của các
loài sinh vật quý hiếm
Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế. Là một nước
giàu tài nguyên thiên nhiên, con người có thể tận dụng lợi thế này giúp cho hoạt động
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần hiểu rõ về tài nguyên thiên nhiên
22


-

-


-

và sự hữu hạn của nó để có những cách sử dụng tài nguyên phù hợp và hiệu quả cho
hoạt động kinh doanh của mình.
Vốn:
Vốn là các của cải, vật chất do con người tạo ra và tích lũy lại. Nó có thể tồn tại
dưới dạng vật thể hoặc vốn tài chính. Vốn là một trong những nhân tố sản xuất. Có
vốn, các doanh nghiệp có thể mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, mua sắm các
trang thiết bị, máy móc hiện đại hay triển khai các kế hoạch khác trong tương lai. Tùy
theo mức độ vốn mà người lao động được sử dụng máy móc, trang thiết bị…nhiều hay
ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được vốn,
phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan
trọng cho sự phát triển dài hạn. Những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao
thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Vốn không chỉ là máy móc, thiết bị
do tư nhân đầu tư cho sản xuất. Nó còn được gọi là tư bản cố định xã hội, những thứ
tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là
những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất
tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất
(đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia…), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi… Vậy
yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp là họ cần phải có sự quản lý và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn của mình nhằm bảo toàn, phát triển vốn và đảm bảo cho các
doanh nghiệp ngày càng phát triển và vững mạnh.
Công nghệ:
Công nghệ là sự tạo ra, sự biến đổi, việc sử dụng và kiến thức về các công cụ,
máy mốc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ thống, phương pháp tổ chức nhằm giải
quyết một vấn đề, cải tiến một giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích hay thực hiện
một chức năng cụ thể. Công nghệ cũng có thể chỉ là một tập hợp như vậy, bao gồm
máy móc, những sự sắp xếp hay những quy trình. Công nghệ ảnh hưởng đáng kể lên
khả năng kiểm soát và thích nghi của con người cũng như của những động vật khác

vào môi trường tự nhiên của mình. Trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế
rõ ràng không phải là sự sao chéo giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động
và tư bản, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công
nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao
hơn, nghĩa là quá trình có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và
ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,… có những
bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; công
nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ sự duy trì cơ chế cho
phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng.
Chính sách hỗ trợ:
23


Chính sách tỷ giá hối đoái là công cụ hữu hiệu của nhà nước để quản lý xuất
nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm làm cho giá cả của hàng hóa xuất khẩu trở
nên đắt gay rẻ một cách tương đối. Sự thay đổi đó có thể tạo ra những biến động về
nhu cầu của hàng hóa xuất khẩu. Nhưng một chính sách tỷ giá hối đoái ổn định luôn là
điều mà bất kì doanh nghiệp nào mong đợi. Chính sách tiền tệ và quản lý ngoại tệ:
quản lý ngoại tệ giúp cho việc thanh toán các hợp đồng kinh doanh xuất khẩu trở nên
khó khăn hơn do các đối tác không đủ lượng ngoại tệ do sự quản lý chặt chẽ của nhà
nước. Trong khi đó, chính sách tiền tệ là công cụ nhà nước quản lý lạm phát hay tác
động đến tỷ giá hối đoái. Chính sách đó có thể khuyến khích hay hạn chế nhu cầu tiêu
dùng của người dân. Cùng với đó là các quy định về mức thuế, hạn ngạch cho từng
nhóm hàng. Thuế nhập khẩu là nhân tố tác động mạnh đến hoạt động xuất khẩu. Các
nước nhập khẩu dùng nó để bảo hộ cho nền sản xuất hàng hóa nội địa và làm tăng giá
cả hàng hóa nhưng không hạn chế về quy mô, số lượng sản phẩm được phép xuất
khẩu. Hệ thống các chính sách ưu đãi là các chính sách mà doanh nghiệp cần triệt để
lợi dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Do vậy, họ thường xây dựng nhiều
chính sách ưu đãi. Đối với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu, đó cỏ thể là việc giảm thuế,

miễn thuế hay các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu. Doanh nghiệp có thể hưởng ưu đãi do
các Hiệp định thương mại, quy chế đãi ngộ tối hụê quốc (MFN), hệ thống ưu đãi phổ
cập (GSP) đối với quốc gia của mình để có được mức thuế ưu đãi gia tăng hạn ngạch
xuất khẩu. Hệ thống các chính sách, pháp luật luôn được các quốc gia thay đổi, buộc
các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu cần phải có những điều chỉnh linh hoạt và hợp
lý để kịp thời thích ứng đối với những quy định mới ở thị trường đã, đang và sẽ tiến
hành hoạt động xuất khẩu.
+ Chính sách trên thế giới:
Ở các quốc gia khác nhau trên thế giới sẽ có những chính sách về xuất nhập khẩu
và tiêu thụ hàng hóa khác nhau của từng thị trường tiêu dùng các quốc gia. Do vậy, các
chính sách trên thế giới đặc biệt quan trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp khi
tiến hành xuất khẩu hàng hóa ra thị trường các quốc gia trên thế giới. Hàng hóa có
được lưu thông hay không phụ thuộc vào yếu tố đầu tiên đó là pháp luật các quốc gia
đó quy định về việc xuất khẩu hàng hóa, các rào cản thuế quan, rào cản thương mại,
các chính sách trong việc bảo hộ hàng hóa, bảo vệ và đảm bảo quyền lợi, nhu cầu, sức
khỏe người tiêu dùng,…
+ Chính sách trong nước:
Nhà nước có những vai trò rất quan trọng đối với việc tiến hành hoạt động xuất khẩu
của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Vai trò chính của Nhà nước chính là tác động đến
quá trình thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hóa thông qua những vấn đề cụ thể sau:
• Nhà nước tạo ra những môi trường thuận lợi nhất cho việc xuất khẩu hàng hóa ra các
thị trường trên thế giới với những chính sách chủ động, tích cực, thu hẹp bộ máy quản
24


lý hành chính, giảm thiểu những hàng rào thuế quan xuất khẩu. Bên cạnh đó, Nhà
nước cũng kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên những mặt hàng xuất khẩu, nghiêm cấm
xuất khẩu các mặt hàng bị pháp luật Nhà nước cấm.
• Nhà nước cung cấp thông tin, những yếu tố cần thiết như là thông tin những điều kiện
thị trường trong nước cũng như nước ngoài, vật chất kinh tế và xã hội để hỗ trợ cho

việc sản xuất, nâng cấp cơ sở hạ tầng và thúc đẩy, nâng cao năng lực cạnh tranh trong
quá trình sản xuất kinh doanh cũng như trong quá trình xuất khẩu hàng hóa
1.3
Tác động của Hiệp định TPP đến việc xuất khẩu hàng dệt may
1.3.1 Tác động tích cực
Mỗi Bên, theo luật pháp và quy định của mình, phải phối hợp với các Bên khác
trong việc thực thi hoặc hỗ trợ trong việc thực thi các biện pháp tương ứng liên quan đến
vi phạm pháp luật về hải quan đối với thương mại hàng dệt may giữa các bên, bao gồm
đảm bảo tính chính xác của các yêu cầu hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định này.
- Mỗi Bên phải có biện pháp thích hợp, có thể bao gồm biện pháp lập pháp, hành chính,
tư pháp, hoặc hành động khác phục vụ cho:
+ Việc thi hành pháp luật, quy định và thủ tục liên quan đến vi phạm pháp luật về
hải quan và
+ Hợp tác với Bên nhập khẩu trong việc thi hành quy định pháo luật và thủ tục
của mình liên quan đến công tác phòng chống vi phạm pháp luật về hải quan.
- Một yêu cầu bất kỳ theo khoản 4 Điều 4.4 phải được lập bằng văn bản, bằng các
phương tiện điện tử hoặc phương pháp khác, và phải bao gồm môt tuyên bố ngắn gọn
về vấn đề cần giải quyết, yêu cầu hợp tác, các thông tin liên quan về vi phạm pháp luật
về hải quan, và đầy đủ thông tin để Bên được yêu cầu phản hồi theo đúng luật pháp và
quy định của mình.
- Nhằm tăng cường nỗ lực hợp tác theo Điều này giữa các Bên để ngăn chặn và xử lý vi
phạm pháp luật về hải quan, Bên nhận được yêu cầu theo khoản 4 Điều 4.4, theo luật
pháp, quy định và thủ tục của mình, kể cả những người liên quan đến bảo mật được
nêu trong Điều 9.4, phải cung cấo cho Bên yêu cầu thông tin về sự tồn tại của một nhà
nhập khẩu, nhà xuất khẩu, hoặc nhà sản xuất, hàng hóa của một nhà nhập khẩu, nhà
xuất khẩu, hoặc nhà sản xuất, hoặc các vấn đề liên quan đến Chương này sau khi nhận
được yêu cầu theo quy định tại khoản 5 Điều 4.4. Thông tin có thể bao gồm thư từ có
sẵn, báo cáo, vận đơn, hóa đơn, hợp đồng đặt hàng, hoặc các thông tin khác liên quan
đến việc thi hành pháp luật hoặc quy định liên quan đến yêu cầu.
- Mỗi Bên phải thiết lập hoặc duy trì các đầu mối liên lạc phục vụ hợp tác theo Chương

này. Mỗi Bên phải thông báo cho các Bên khác về các đầu mối liên lạc của mình kể từ
khi Hiệp định có hiệu lực và phải thông báo kịp thời cho Bên kia những thay đổi tiếp
theo.
25


×