Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

TIỂU LUẬN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.74 KB, 78 trang )

Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục

Lời Mở đầu

Xuất hiện trên thị trường Việt Nam từ năm 1998 nhưng đến nay “chứng
khoán phái sinh” chưa được biết đến với tư cách là một công cụ bảo hiểm rủi ro
hữu hiệu cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước
những khó khăn, những cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, những
biến động bất thường về nền kinh tế toàn cầu, những tăng giảm đột ngột của giá
xăng, dầu thế giới, những bấp bênh của tỷ giá đồng USD… đang là những vấn
đề đáng lo lắng cho những nhà đầu tư, những doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vậy
phải làm gì để giảm bớt rủi ro? Để tối thiểu tổn thất và tối đa hoá lợi nhuận?
Một đòi hỏi cấp thiết đối với thị trường là phải đa dạng hoá các sản phẩm
tài chính phái sinh, nâng cao chất lượng các dịch vụ hiện có, khuyến khích các
doanh nghiệp tích cực tham gia vào thị trường này để loại bỏ bớt những rủi ro
không đáng có.
2. Mục đích của đề tài
Đề tài này tập trung nghiên cứu thực trạng về thị trường chứng khoán phái
sinh ở Việt Nam, tìm ra nguyên nhân, tồn tại và kiến nghị những giải pháp, định
hướng cho sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam trong
tương lai.

1


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu:
- Quá trình hình thành và của dụng các công cụ tài chính phái sinh ở Việt


Nam.
- Cơ sở pháp lý cho hoạt động của các Ngân hàng thương mại, các Tổ
chức tín dụng khi tham gia kinh doanh các sản phẩm tài chính phái sinh.
- Tìm hiểu về thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam, mức độ áp
dụng các công cụ tài chính phái sinh của các doanh nghiệp và doanh thu của một
số ngân hàng thương mại từ việc kinh doanh các sản phẩm này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu được tiến hành bằng cách:
- Theo dõi và thu thập thông tin về thực trạng hoạt động của thị trường
chứng khoán phái sinh Việt Nam
- Tổng hợp, phân tích và đánh giá trên cơ sở những lý thuyết tài chính,
chứng khoán phái sinh. Các thông tin được phân tích không đặt riêng biệt mà
được nhận định trong bối cảnh chung của nền kinh tế đã gia nhập WTO và điều
kiện phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh trong nước.
- Dựa trên những tồn tại, hạn chế của thị trường chứng khoán phái sinh
Việt Nam để rút ra những định hướng, điều kiện, và kiến nghị những giải pháp
để phát triển các sản phẩm phái sinh tại Việt Nam.
5. Bố cục của khoá luận
Tên đề tài: Điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở
Việt Nam
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về thị trường chứng khoán phái sinh

2


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
Chương II: Đánh giá về quá trình phát triển thị trường chứng khoán phái
sinh ở Việt Nam
Chương III: Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại

Việt Nam
6. Những từ viết tắt trong khoá luận
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng nhà nước
TTCK: Thị trường chứng khoán
UBCK: Uỷ ban chứng khoán
TCTD: Tổ chức tín dụng
Khoá luận được thực hiện vào thời điểm thị trường chứng khoán phái sinh
Việt Nam còn rất mới mẻ, chưa đựơc nhiều người đón nhận và đang bước từng
bước nhỏ trong giai đoạn phát triển. Chính vì vậy khoá luận của em còn rất nhiều
thiếu sót, em mong muốn nhận được sự tham gia góp ý của các thầy cô và các
bạn để khoá luận thêm hoàn thiện.

chương I

3


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục

tổng quan về thị trường chứng khoán phái sinh

Thị trường tài chính phái sinh xuất hiện là kết quả của một quá trình phát
triển cấu trúc thị trường trong thời gian dài. Trong những thập kỷ gần đây, thị
trường tài chính phái sinh phát triển mạnh về khối lượng giao dịch cũng như
mức độ quan trọng. Khi nhắc đến thị trường tập trung và thị trường OTC – phi
tập trung, người ta chỉ nghĩ đến đó là nơi giao dịch chứng khoán, hàng hoá… mà
ít ai nghĩ đến đó còn là nơi diễn ra các giao dịch tài chính phái sinh - một công
cụ phòng ngừa rủi ro cho các doanh nghiệp. Việc sử dụng các sản phẩm phái
sinh hiện nay là một nhu cầu thiết yếu đối với các nhà đầu tư nhằm tối đa hoá lợi

nhuận của mình.
I. Khái quát chung về thị trường chứng khoán phái sinh
1. Giới thiệu về thị trường chứng khoán phái sinh
Trong các thị trường tài sản, việc mua bán đòi hỏi hàng hoá hoặc chứng
khoán phải được giao nhận hoặc là ngay lập tức hoặc là chỉ ít lâu sau đó. Việc
thanh toán cũng thường được thực hiện tức thời mặc dù thỉnh thoảng cũng có
trường hợp sử dụng một số thoả thuận tín dụng. Do đặc điểm như vậy nên chúng
ta thường gọi là thị trường tiền mặt hoặc là thị trường giao ngay. Doanh số được
thực hiện, khoản thanh toán được hoàn trả và hàng hoá, chứng khoán được giao
nhận. Trong tình huống khác, hàng hoá hay chứng khoán vẫn được giao nhận
vào một ngày sau đó, nhưng có các thoả thuận giúp cho người bán hoặc người
mua được chọn là có thực hiện bán hay không các loại thoả thuận này, và nghiệp
vụ này được thực hiện trong thị trường phái sinh.

4


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ tài chính phái
sinh, những công cụ mang tính hợp đồng, mà thành quả của chúng được xác định
trên 1 hoặc 1 số công cụ tài sản khác. Chúng ta xem các công cụ phái sinh như là
các hợp đồng, và giống như tất cả hợp đồng, chúng được thoả thuận giữa hai
bên, người mua và người bán, trong đó mỗi bên sẽ thực hiện nghĩa vụ gì đó cho
bên kia. Các hợp đồng này có giá cả và người mua sẽ cố gắng mua với giá rẻ và
người bán cố gắng bán với giá cao nhất.
Thành viên của thị trường tài chính phái sinh
• Người đầu tư: họ sử dụng nghiệp vụ phái sinh để giảm thiểu hoặc loại bỏ
rủi ro do họ luôn phải đối mặt với những rủi ro do biến động giá cả của các sản
phẩm chính.
• Người đầu cơ: với tâm lí muốn đánh cuộc trên những biến động giá cả

của sản phẩm chỉnh nên họ sử dụng nghiệp vụ này như một đòn bẩy đặc biệt.
• Người cơ lợi (thực hiện lợi nhuận mà không có rủi ro): bằng cách sử
dụng chênh lệch giá giữa các thị trường tài chính khác nhau, họ đã sử dụng rất
hiệu quả các nghiệp vụ phái sinh để hưởng chênh lệch giá.
Các nghiệp vụ tài chính phái sinh đều mang lại lợi ích cho các thành viên,
chính vì vậy trên thị trường tài chính quốc tế, nghiệp vụ này đã phát triển rất
mạnh với các nghiệp vụ phái sinh đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai trò
quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu.
2. Công cụ tài chính phái sinh
2.1. Khái niệm
Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành
trên cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm hiều mục tiêu khác nhau như
phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái

5


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái
phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất….Công cụ tài chính phái sinh xuất hiện lần
đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử
dụng nhiều nhất là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn và hợp
đồng hoán đổi. Những công cụ trên sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các
đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu hoặc để đảm bảo rằng nếu giá của cổ
phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ
được duy trì ở mức ban đầu.
Ingersoll – tác giả cuốn sách Theory of Financial Decision Making – Lý
thuyết quyết định tài chính (1987) đã đưa ra định nghĩa về chứng khoán phái
sinh như sau:
Một hợp đồng tài chính được gọi là một chứng khoán phái sinh

(derivative security), hoặc một tài sản tài chính có giá trị phụ thuộc(contingent
claim), nếu giá trị của hợp đồng tài chính đó tại thời điểm đáo hạn T có thể xác
định hoàn toàn bởi giá trị thị trường (thị giá) của công cụ tiền mặt (hay tài sản
cơ bản).
Theo cách hiểu này, tại thời điểm đáo hạn của hợp đồng phái sinh chứng
khoán, ta ký hiệu đó là thời điểm T, thì giá của tài sản phái sinh F(T) được xác
định hoàn toàn bởi S(T) là giá thị trường của “tài sản cơ bản”. Sau thời điểm đáo
hạn này, cuộc đời của phái sinh chứng khoán cũng kết thúc. Tính chất này rõ
ràng và dễ hiểu, là việc con người quy ước với nhau qua hợp đồng. Tuy đơn giản
như thế, nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng trong công tác tính toán giá trị của
tài sản phái sinh.
Đặc điểm của công cụ tài chính phái sinh:
• Chứng khoán phái sinh được tạo lập dựa trên một chứng khoán gốc. Giá
trị của phái sinh được xác định dựa trên những sự kiện biến động về giá trong

6


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
tương lai của chứng khoán cơ sở. Hoạt động của thị trường tài chính tạo cơ sở
cho sự hình thành và phát triển các chứng khoán phái sinh. Các chủ thể tham gia
thị trường tài chính tạo ra các công cụ phái sinh và sử dụng chúng để thực hiện
mục đích kinh doanh hoặc hạn chế rủi ro trong đầu tư.
• Hoạt động của thị trường phái sinh góp phần làm tăng tính thanh khoản
của các loại chứng khoán trên thị trường tài chính. Những nhà đầu tư có thể tìm
kiếm lợi nhuận thông qua các giao dịch phái sinh mà không cần phải thực hiện
mua bán chứng khoán thực tế.
+ Với sự xuất hiện chứng khoán phái sinh làm tăng số lượng hàng hoá trên
thị trường tài chính. Những nhà đầu tư có thể tìm kiếm lợi nhuận thông qua các
giao dịch phái sinh mà không cần phải thực hiện mua bán chứng khoán thực tế.

+ Giao dịch chứng khoán phái sinh góp phần giảm chi phí giao dịch, hạn
chế rủi ro… Từ đó, tạo nên những lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia,
góp phần ổn định và phát triển thị trường tài chính.
• Được thực hiện vào một ngày trong tương lai.
2.2. Các loại chứng khoán phái sinh cơ bản
2.2.1. Hợp đồng kỳ hạn
Hợp đồng kỳ hạn là công cụ lâu đời nhất, và có lẽ vì lí do đó mà nó ít
phức tạp nhất.
Hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, để
mua hoặc bán tài sản vào một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày
hôm nay. Nếu vào ngày đáo hạn, giá thực tế cao hơn giá hợp đồng thì người sở
hữu hợp đồng sẽ kiếm được lợi nhuận, nếu ngược lại thì người sở hữu hợp đồng
sẽ chịu một khoản lỗ.
Ví dụ: Vào ngày 01/04 , A ký hợp đồng kỳ hạn mua của B 10 tấn cà phê kỳ hạn
3 tháng với giá 925USD/tấn. Sau 3 tháng, tức vào ngày 01/07, B phải bán cho A

7


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
10 tấn cà phê với giá 925USD/tấn và A phải mua 10 tấn cà phê của B với giá đó,
cho dù giá cà phê trên thị trường lúc đó là bao nhiêu đi nữa.
Bản thân hợp đồng kỳ hạn mang trong mình 3 loại rủi ro:
Thứ 1, nếu giá thực tế vào ngày đáo hạn hợp đồng cao hơn giá mong đợi,
rủi ro vốn có của công ty sẽ làm giảm giá trị công ty nhưng sự sụt giảm này sẽ
được đền bù bằng lợi nhuận của hợp đồng kỳ hạn. Vì vậy hợp đồng kỳ hạn cung
cấp một cách phòng ngừa rủi ro hoàn hảo.
Thứ 2, rủi ro tín dụng hay rủi ro không có khả năng chi trả của hợp đồng.
Rủi ro này có hai chiều, người sở hữu hợp đồng hoặc là người nhận được hoặc là
người chi trả, phụ thuộc vào biến động giá cả thực tế của tài sản cơ sở.

Thứ 3, giá trị của hợp đồng kỳ hạn chỉ được giao nhận vào ngày nào đáo
hạn của hợp đồng, không có khoản chi trả nào được thực hiện vào ngày ký kết
hoặc trong thời hạn của hợp đồng. Vậy nên bản thân những hợp đồng kỳ hạn có
chứa nhiều rủi ro nhất trong các công cụ phái sinh.
2.2.2. Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai (hay còn gọi là hợp đồng giao sau) là hợp đồng giữa
hai bên, người mua và người bán, để mua bán tài sản vào một ngày trong tương
lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay mà không phụ thuộc vào giá ở thời điểm
thực hiện hợp đồng.
Ví dụ: vào đầu năm 2002, công ty A ký hợp đồng tương lai với công ty B
mua 100 tấn gạo với giá 2USD/kg với thời điểm mua vào cuối năm 2003. Như
vậy vào thời điểm mua, công ty B phải bán cho công ty A 100 tấn gạo với giá
2USD/kg và công ty A phải mua 100 tấn gạo của công ty B với giá đó, cho dù
giá gạo trên thị trường vào cuối năm 2003 là bao nhiêu chăng nữa.

8


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
Đặc điểm của hợp đồng tương lai:
• Hợp đồng tương lai được ký kết và thực hiện thông qua một môi giới
trên TTCK, người mua và người bán thường không biết nhau, do vậy đơn vị môi
giới thường đưa ra một số các tiêu chuẩn cho những hợp đồng này.
• Ngày giao hàng không được xác định một cách chính xác, mà được quy
định theo tháng và khoảng thời gian của tháng phải giao. Người môi giới xác
định khối lượng, chất lượng của hàng hoá giao dịch, cách giao hàng, giá hợp
đồng.
• Người mua, bán phải trả phí hoa hồng cho người môi giới, và giá tương
lai được xác định trên sàn giao dịch chứng khoán.
• Có hai loại thương nhân trên sàn giao dịch: thứ nhất là những người môi

giới ăn hoa hồng, họ sẽ thực hiện mua bán theo lệnh của nhà đầu tư và tính hoa
hồng; thứ 2 là người tự đầu tư.
• Để tránh những rủi ro khi thực hiện hợp đồng tương lai, do người mua
hay người bán tháo lui khỏi hợp đồng vì sự biến động giá trên thị trường bất lợi
cho mình, hoặc do đến thời điểm thanh toán, người mua không có khả năng tài
chính thì người môi giới phải đưa ra những quy định về yêu cầu dự trữ tối thiểu
đối với người ký hợp đồng tương lai với người môi giới. Khoản tiền dự trữ này
được giữ lại một tài khoản của người đầu tư mở tại văn phòng chứng khoán.
Điểm khác nhau giữa Hợp đồng kỳ hạn và Hợp đồng tương lai
• Hợp đồng tương lai là những hợp đồng được chuẩn hoá ( về loại tài sản
cở sở mua bán, số lượng các đơn vị tài sản cơ sở mua bán, thể thức thanh toán,
kỳ hạn...). Hợp đồng kỳ hạn là những hợp đồng không được chuẩn hoá, các chi
tiết là do hai bên đàm phán quy định cụ thể.
• Hợp đồng tương lai chỉ được giao dịch các công cụ tương lai được niêm
yết tại các Sở giao dịch chứng khoán. Như vậy, giao dịch hợp đồng tương lai đã

9


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
được các sở giao dịch chuẩn hoá và khi đó các bên tham gia giao dịch không
nhất thiết phải biết nhau. Hợp đồng kỳ hạn có thể áp dụng đối với chứng khoán
hay hàng hoá .
• Hợp đồng tương lai được thoả thuận và mua bán qua người môi giới.
Hợp đồng kỳ hạn được thoả thuận và mua bán trực tiếp giữa hai bên kí kết hợp
đồng.
• Hợp đồng tương lai được mua bán trên thị trường chứng khoán tập trung.
Hợp đồng kỳ hạn được mua bán trên thị trường phi tập trung.
• Tính thị trường: Hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn thường không có giao dịch
thứ cấp, tức là khi muốn thay đổi các bên đối tác tham gia hợp đồng kỳ hạn, phải

đàm phán tìm đối tác khác thay thế, điều này làm tăng chi phí, thời gian thực
hiện hợp đồng bị kéo dài. Ngược lại, hợp đồng tương lai được chuẩn hoá và giao
dịch liên tục trên TTCK.
• Rủi ro: Hợp đồng kỳ hạn có thể gặp rủi ro lớn khi bên đối tác không đủ
khả năng thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian trong tương lai, trong khi hợp
đồng tương lai do giao dịch tại các Sở giao dịch chứng khoán, nên rủi ro sẽ thấp
hơn hoặc có cơ chế bảo hiểm khi xảy ra rủi ro.
• Thời điểm thực hiện hợp đồng: Hợp đồng tương lai thường xác định thời
điểm thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian trong tương lai, trong khi hợp đồng
kỳ hạn xác định chính xác thời điểm thực hiện hợp đồng.
• Căn cứ thị trường của hai loại hợp đồng cũng có khác biệt, hợp đồng kỳ
hạn chỉ có một thời điểm thanh toán khi kết thúc hợp đồng, còn hợp đồng tương
lai yêu cầu các bên tham gia phải có chi phí gắn với diễn biến thị trường. Trong
thời hạn của hợp đồng tương lai có thể phát sinh dòng tiền, thu nhập trong quá
trình thực hiện hợp đồng. Ví dụ hợp đồng tương lai đối với trái phiếu thì chủ sở
hữu thực vẫn nhận được các khoản thu nhập từ trái phiếu trong thời gian hợp

10


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
đồng chưa có hiệu lực. Đây là khác biệt căn bản của hợp đồng kỳ hạn và hợp
đồng tương lai.
• Hợp đồng tương lai được tính hàng ngày theo giá thị trường. Hợp đồng
kỳ hạn được thanh toán vào ngày đáo hạn.
• Giống như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau cũng có rủi ro hai chiều,
rủi ro tín dụng, tức người sở hữu hợp đồng hoặc là người được nhận hoặc là
người phải chi trả. Nhưng khác biệt rõ nhất với thị trường kỳ hạn là thị trường
giao sau sử dụng 2 công cụ để loại bỏ rủi ro này.
+ Thứ 1, thay vì giao nhận giá trị hợp đồng vào 1 ngày thông qua mua

bán đơn thuần vào ngày đáo hạn, thay đổi trong giá trị hợp đồng giao sau được
thực hiện thanh toán vào cuối ngày giao dịch. Điều này có nghĩa hợp đồng giao
sau có tính chất thanh toán tiền mặt hay điều chỉnh theo ngày, tức thời hạn giao
sau được rút ngắn lại. Nhờ thanh thế mà rủi ro thanh toán được giảm đi.
+ Thứ 2, hợp đồng giao sau yêu cầu tất cả các thành viên tham gia thị
trường, người bán và người mua đều như nhau, phải thực hiện một khoản ký gửi
gọi là ký quỹ. Nếu hợp đồng giao sau tăng giá trị trong ngày giao dịch, mức tăng
này sẽ được cộng vào tài khoản ký quỹ vào cuối ngày. Ngược lại, nếu hợp đồng
bị giảm giá trị, thua lỗ sẽ được trừ ra. Và nếu số dư tài khoản ký quỹ giảm xuống
mức tối thiểu đã thoả thuận trước đó thì sẽ bị yêu cầu nộp một khoản ký gửi bổ
sung, tài khoản ký quỹ phải được bổ sung như cũ.
Hợp đồng giao sau rất giống với một danh mục các hợp đồng kỳ hạn. Tuy
nhiên, hợp đồng giao sau và một danh mục các hợp đồng ỳ hạn chỉ giống nhau
khi lãi suất là có thể xác định trước, tức là biết được một cách chắc chắn. Vào lúc
đóng cửa mỗi ngày, các hợp đồng giao sau mag tính kỳ hạn đang tồn tại sẽ được
thanh toán cũng như một hợp đồng mới được ký kết. Tính chất thanh toán hàng

11


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
ngày kết hợp với yêu cầu ký quỹ cho phép hợp đồng giao sau giảm thiểu đáng kể
rủi ro tín dụng vốn có của hợp đồng kỳ hạn.

2.2.3. Quyền chọn: Mua và Bán
Quyền chọn : là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó
cho người mua quyền nhưng không phải nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản
nào đó vào ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Mặc dù
các quyền chọn được giao dịch trong một thị trường có tổ chức nhưng phần lớn
các giao dịch quyền chọn được quản lý riêng rẽ giữa hai bên. Những người này

tự tìm đến với nhau, loại thị trường này gọi là thị trường OTC – loại thị trường
quyền chọn xuất hiện đầu tiên. Hầu hết các quyền chọn chúng ta quan tâm là
mua bán các loại tài sản tài chính chẳng hạn như cổ phiếu, trái phiếu.... Mặc dù
vậy, cũng xuất hiện một hình thức khác của quyền chọn đó là loại thoả thuận tài
chính như hạn mức tín dụng, đảm bảo khoản vay, và bảo hiểm. Ngoài ra, bản
thân cổ phiếu cũng là quyền chọn trên tài sản công ty.
Quyền chọn cũng có những nét giống với một hợp đồng kỳ hạn nhưng
quyền chọn không bắt buộc phải thực hiện giao dịch còn người sở hữu hợp đồng
kỳ hạn bắt buộc bắt buộc phải thực hiện giao dịch. Hai bên trong hợp đồng kỳ
hạn có nghĩa vụ phải mua và bán hàng hoá, nhưng người nắm giữ quyền chọn có
thể quyết định mua hoặc bán tài sản với giá cố định nếu giá trị của nó thay đổi.
Có hai kiểu thực hiện quyền chọn:
• Theo kiểu Mỹ: thực hiện quyền chọn vào bất cứ ngày nào trước ngày đáo
hạn.
• Theo kiểu châu Âu: thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn.
Có hai loại quyền chọn:

12


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
Quyền chọn mua:
Người mua quyền chọn trả một khoản tiền (gọi là phí quyền chọn) cho
người bán. Người mua sẽ có quyền được mua một lượng tài sản nhất định theo
một mức giá thoả thuận trước, tại một thời điểm xác định trong tương lai. Người
bán nhận phí quyền chọn có trách nhiệm phải bán một lượng tài sản như đã thoả
thuận cho người mua, theo mức giá đã thoả thuận, vào thời điểm xác định trong
tương lai ( hoặc trước thời điểm đó) khi người mua muốn thực hiện quyền chọn
mua.
Ví dụ: Giá cổ phiếu ngân hàng AB tại thời điểm hiện tại là 100.000đồng/cổ

phiếu, nhà đầu tư sau khi phân tích đưa ra dự báo giá cổ phiếu sẽ tăng lên
khoảng 200.000đồng. Hiện tại, nếu muốn mua 1000 cổ phiếu của AB thì nhà đầu
tư phải bỏ ra 100.000.000đ để mua nó.
Giả sử sau một thời gian giá cổ phiếu không như dự báo, giảm xuống còn
60.000đ thì nhà đầu tư lỗ 40.000.000đ. Để giảm thiểu rủi ro mà vẫn thực hiện
theo dự báo, nhà đầu tư mua quyền chọn mua: mua 1000 cổ phiếu của AB với
giá 100.000đ/cổ phiếu, trong thời gian 3 tháng với mức phí quyền chọn là
20.000đ/cổ phiếu x 1000 cổ phiếu = 20.000.000đ. Trong thời gian 3 tháng trên
nếu giá cổ phiếu AB tăng như dự báo lên mức 200.000đ/cổ phiếu thì nhà đầu tư
sẽ thu được: 1000cổ phiếu x 200.000đ = 200.000.000 đ tức là nhà đầu tư lãi
100.000.000đ - 20.000.000đ phí mua quyền chọn = 80.000.000đ. Trong trường
hợp giá cổ phiếu không tăng mà liên tục giảm cho đến hết thời gian 3 tháng thì
nhà đầu tư có quyền không thực hiện việc mua của mình và chỉ chịu mất
20.000.000 đồng tiền phía quyền chọn mua.
Quyền chọn bán:

13


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
Người nắm giữ một lượng tài sản mua phí quyền chọn bán của nhà cung
cấp quyền chọn bán để đảm bảo rằng tài sản của mình sẽ chắc chắn được bán ở
một mức giá nhất định trong tương lai.
Ví dụ: Nhà đầu tư nắm giữ 1000 cổ phiếu của AB trên với mức giá thị trường
hiện tại là 100.000đ/ cổ phiếu. Nhà đầu tư lo lắng về giá cổ phiếu có thể giảm
xuống còn 70.000đ/cổ phiếu, vậy nhà đầu tư sẽ lỗ 30.000.000đ.
Nhà đầu tư sẽ mua quyền chọn bán với mức phí 20.000đ/cổ phiếu x 1000 cổ
phiếu = 20.000.000đ để đảm bảo cổ phiếu của mình lúc nào cũng có thể bán
được với giá 100.000đ/cổ phiếu. Nghĩa là nếu giá cổ phiếu giảm xuống dưới
100.000đ/cổ phiếu thì nhà đầu tư có thể sẽ có lợi vì được bán cổ phiếu ở mức cao

hơn mức giá cổ phiếu đó trên thị trường vào thời điểm đó.
2.2.4. Hợp đồng hoán đổi
Hoán đổi là một hợp đồng trong đó hai bên đồng ý hoán đổi dòng tiền,
một giao dịch mà cả hai bên đồng ý thanh toán cho bên còn lại một chuỗi các
dòng tiền trong một khoảng thời gian xác định.
Ví dụ một bên đối tác đang nhận được một dòng tiền từ một khoản đầu tư ,
nhưng lại thích một loại đầu tư khác với dòng tiền mà mình đang thị hưởng. Bên
đối tác này sẽ liên lạc với một môi giới hoán đổi, thường là một công ty hoạt
động trên OTC, và họ sẽ thực hiện vị thế đối nghịch trong giao dịch. Tuỳ thuộc
vào lãi suất hay giá sau đó như thế nào mà 1 bên sẽ thu được lợi nhuận hay là bị
lỗ. Lãi của bên này chính là lỗ của bên kia.
Thông thường giao dịch hoán đổi bao gồm các thanh toán lãi, trong một số
trường hợp là thanh toán nợ gốc.
Có 4 loại hoán đổi là hoán đổi tiền tệ, hoán đổi lãi suất , hoán đổi chứng
khoán và hoán đổi hàng hoá. Hoán đổi được xem như là sự kết hợp giữa các hợp
đồng kỳ hạn.

14


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
2.2.5. Một số loại chứng khoán phái sinh khác
2.2.5.1. Bán khống chứng khoán
Đây là một nghiệp vụ trên thị trường tài chính được thực hiện nhằm mục
đích lợi nhuận thông qua giá chứng khoán giảm. Nhà đầu tư sẽ vay cổ phiếu khi
giá đang cao để bán, khi giá xuống thấp thì nhà đầu tư mua lại để trả.
Khi đặt lệnh bán chứng khoán, nhà đầu tư không có chứng khoán trong tài
khoản, họ mong đợi giá sẽ giảm trong tương lai, khi đó họ sẽ mua được chứng
kháon với giá thấp hơn để trả cho công ty chứng khoán. Khoản chênh lệch là lợi
nhuận của nhà đầu tư, song nếu chứng khoán tăng thì họ sẽ bị lỗ.

2.2.5.2. Repo chứng khoán
Repo chứng khoán được hiểu là một giao dịch trong đó các chứng khoán
được mua ở tỉ lệ giao ngay và được mua lại ở tỉ lệ kì hạn. Về bản chất thì nghiệp
vụ repo giống như một khoản vay có bảo đảm bằng các chứng khoán và các tài
sản bảo đảm khác. Về hình thức biểu hiện thì repo chứng khoán sử dụng một hợp
đồng mua lại trong đó quy định các điều khoản mà mỗi bên tham gia phải tôn
trọng.
Một hợp đồng repo sẽ quy định rõ các điều khoản về:
• Tư cách của các bên tham gia giao dịch
• Quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi bên
• Tài sản đảm bảo
• Tài sản dùng để repo: trái phiếu, cổ phiếu hay các chứng khoán khác.
• Cách tính lãi suất repo, thời hạn của hợp đồng, phương pháp định giá lại
chứng khoán cơ sở, biên độ dao động, khoản giảm trừ.
• Các điều khoản xử lý các vấn đề phát sinh trong thời gian thực hiện repo.
Việc thực hiện nghiệp vụ repo góp phần làm tăng tính thanh khoản cho thị
trường, tăng hiệu quả đồng vốn kinh doanh cho nhà đầu tư và đem lại cho nhà

15


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
đầu tư một số lợi ích như: vẫn có quyền sở hữu cổ phiếu khi mua lại cổ phiếu đã
bán sau kỳ hạn nhất định, vẫn được hưởng cổ tức trong thời hạn chuyển
nhượng...
II. ứng dụng của các công cụ tài chính phái sinh
1. Quản trị rủi ro
Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi
ro của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là
những nhà đầu cơ. Thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro

giữa các nhà đầu tư, không ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp
với bản thân mình. Vì thế họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài
chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả năng huy
động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn.
Thị trường các sản phẩm phái sinh còn là một công cụ hiệu quả cho hoạt
động đầu cơ, người muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người có nhu cầu
hoàn toàn đối lập với mình, tức là rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro phải
được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ.
Thực tế của thị trường các sản phẩm phái sinh sẽ làm một bên được lợi và
tất yếu bên kia không tránh khỏi những thiệt hại nhưng những giao dịch này vẫn
rất phát triển trên thị trường bởi mỗi nhà đầu tư có một “khẩu vị rủi ro” khác
nhau, khả năng chấp nhận rủi ro khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng mong muốn giữ
cho các khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được và vì thế
các nhà đầu cơ gặp nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình
cho đối tác.
Bên cạnh đó, thị trường phái sinh không dẫn vốn trong nền kinh tế vào
những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu cơ thay vì giao dịch cổ

16


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
phiếu họ lại giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính việc đầu tư vào công cụ
tài chính phái sinh tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn
và hiệu quả hơn. Thị trường phái sinh không tạo ra và cũng không thể phá huỷ
được tài sản, chúng chỉ là những phương tiện chuyển giao rủi ro trên thị trường,
những rủi ro sẵn có của thị trường tài sản, chuyển những khoản rủi ro đó từ
những người không đủ khả năng chấp nhận nó sang những người sẵn sàng tiếp
nhận nó. Không có thêm bất kì một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường này,
và lợi ích từ thị trường không chỉ bó hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà

nó lan toả ra toàn xã hội.

2. Thông tin hiệu quả hình thành giá
Thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với việc
hình thành giá cả.
Có rất nhiều hàng hoá được giao dịch trên thị trường tương lai nhưng thị
trường giao ngay của nó rất rộng lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định giá
giao ngay của chúng, vì vậy thị trường tương lai được xem là một công cụ chủ
yếu để xác định giá giao ngay của tài sản và thường là giá tương lai của những
giao dịch sớm nhất sẽ được xác định là giá giao ngay của chúng. Ngoài ra thị
trường giao sau trên thế giới thường nhộn nhịp hơn nên các thông tin cung cấp
trên thị trường này có tính tin cậy cao hơn. Những thông tin được cung cấp trên
thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá giao
ngay trong tương lai một cách có hiệu quả mà những người tham gia thị trường
có thể chốt lại trong giới hạn chấp nhận của mình.
3. Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả

17


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
3.1. Lợi thế
Thứ 1, chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng từ
các giao dịch giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn.
Thứ 2, tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước
hết đó là yêu cầu một mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Hơn
nữa, tỷ suất sinh lời và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như
mong muốn.
Thứ 3, các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các
nhà đầu tư có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch

giá, chênh lệch lãi suất. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm
thấy lợi nhuận.
Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế,
các nhà đầu cơ với ý định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất
định. Chính vì thế, đặt bên cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường
phái sinh giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị trường đó.
3.2. Hiệu quả
Xét ở góc độ tổng thể của nền kinh tế: thị trường công cụ tài chính phái
sinh đóng góp cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc phát huy tốt các chức năng
của hệ thống tài chính:
• Là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
• Sàng lọc, chuyển giao và phân tán rủi ro trên thị trường
• Giám sát doanh nghiệp
• Tăng tính thanh khoản của các công cụ tài chính (cổ phiếu, trái phiếu...)
Xét ở góc độ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: doanh nghiệp có
thể mua hoặc bán công cụ phái sinh với 2 mục đích: mục đích phòng ngừa rủi ro
tài chính, mục đích đầu cơ, tạo lợi nhuận từ ứng dụng công cụ phái sinh, trên cơ

18


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
sở tạo trạng thái mở về lãi suất, ngoại tệ, hàng hoá, chứng khoán... Ngoài ra, khi
sử dụng phối hợp nhiều công cụ phái sinh với đối tác khác nhau, trên những thị
trường khác nhau có thể tạo lợi nhuận trên cơ sở không phải đối mặt với các
trạng thái mở, các rủi ro tài chính.
Xét ở góc độ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính: Các lợi ích
thu được khi ứng dụng công cụ phái sinh cũng tương tự doanh nghiệp. Hơn thế
nữa, với vai trò của trung gian tài chính, các tổ chức này có thể tăng nguồn thu từ
chi phí với tư cách của người môi giới. Đặc biệt, khả năng mở rộng, phát triển

các hoạt động khác của tổ chức tài chính như huy động vốn, cho vay, dịch vụ
thanh toán, tư vấn .... cũng tăng cao và hiệu quả hơn.
Như vậy, công cụ tài chính phái sinh là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại, kỹ
thuật tài chính này đòi hỏi một trình độ hiểu biết và phát triển nhất định của bất
kì nền kinh tế nào.
III. Kinh nghiệm phát triển thị trường chứng khoán phái sinh của một số
nước
1. Sự ra đời của thị trường quyền chọn
Có rất nhiều loại công cụ tài chính phái sinh khác nhau trên thị trường
nhưng có thể thấy giao dịch quyền chọn là giao dịch được ưu tiên hơn cả về
những ích lợi mà nó đem đến.
Điểm lại lịch sử hình thành quyền chọn trên thị trường ta có thể thấy sự
phát triển của thị trường này trên thế giới, qua đó thấy được nhu cầu của những
nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Giao dịch đầu tiên về quyền chọn bán và quyền chọn mua bắt đầu ở Châu
Âu và Mỹ từ đầu thế kỉ XVIII. Những năm đầu thị trường hoạt động thất bại vì
nạn tham nhũng.

19


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
Vào đầu những năm 1900, một nhóm công ty đã thành lập Hiệp hội những
nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn. Mục đích của hiệp hội này là cung cấp
kỹ thuật nhằm đưa những người mua và những người bán lại với nhau. Nhà đầu
tư muốn mua Quyền chọn liên hệ với một công ty thành viên, công ty này sẽ cố
gắng tìm người bán quyền chọn từ những khách hàng của họ hoặc của công ty
thành viên khác, nếu không có người bán, công ty sẽ tự phát hành quyền chọn
với giá cả thích hợp. Thị trường hoạt động theo cách này gọi là thị trường OTC,
các nhà kinh doanh không gặp nhau trên sàn giao dịch của thị trường.

Thị trường quyền chọn của các nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn
chịu áp lực của 2 yếu tố: thứ nhất, khi không có thị trường thứ cấp, người mua
quyền chọn không có quyền bán cho bên khác trước ngày đáo hạn. Thứ hai,
không có kỹ thuật nào đảm bảo rằng người bán quyền chọn sẽ thực hiện hợp
đồng, nếu người bán không thực hiện hợp đồng thì người mua phải tốn chi phí
kiện tụng.
Tháng 4 năm 1973, Sàn giao dịch quyền chọn Chicago ra đời đặc biệt
dành cho trao đổi quyền chọn về cổ phiếu. Từ đó, thị trường quyền chọn trở nên
phổ biến với nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán Mỹ (AMEX) và thị trường
chứng khoán Philadelphia (PHLX) bắt đầu thực hiện giao dịch quyền chọn vào
năm 1975. Năm 1976, thị trường chứng khoán Pacific ra đời. Khoảng đầu thập
niên 80, khối lượng giao dịch tăng lên nhanh chóng đến mức mà số lượng cổ
phiếu theo hợp đồng quyền chọn bán hàng ngày vượt quá khối lượng giao dịch
cổ phiếu trên thị trường chứng khoán NewYork.
Trong thập niên 80, thị trường quyền chọn đối với ngoại tệ, chỉ số chứng
khoán và hợp đồng tương lai đã phát triển ở Mỹ. TTCK Philadelphia là nơi trao
đổi ngoại tệ đầu tiên. Thị trường giao dịch quyền chọn Chicago trao đổi quyền
chọn chỉ số chứng khoán của S&P 100 và S&P 500. TTCK Mỹ giao dịch quyền

20


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
chọn về chỉ số chứng khoán của một số thị trường chính, TTCK NewYork giao
dịch chỉ số NYSE. Hầu hết các thị trường đều giao dịch quyền chọn đối với
những hợp đồng tương lai.
Thị trường OTC: thập niên 80 và 90 đã chứng kiến sự phát triển của thị
trường OTC dành cho quyền chọn. Giao dịch OTC quyền chọn được thoả thuận
qua điện thoại hơn là trên sàn giao dịch.
Hiện nay, giao dịch quyền chọn tồn tại ở khắp mọi nơi trên thế giới, đánh

dấu những bước phát triển của thị trường giao dịch chứng khoán phái sinh.

2. Sở giao dịch chứng khoán Philadelphia
Philadelphia là địa điểm giao dịch quyền chọn lớn nhất và giao dịch kì hạn
kì hạn lớn thứ 3 của Mỹ. Sau đây là đôi nét về quá trình hình thành của Sàn giao
dịch này.
Năm 1790 Sở giao dịch chứng khoán Philadelphia ra đời.
Năm 1972, nghề môi giới chứng khoán trở thành một nghề kinh doanh
phổ biến ở Philadelphia sau khi “Ban điều hành Philadelphia của những người
môi giới ra đời”.
Sự phát triển của máy vi tính trong những năm 1960 và 1970 đã làm thay
đổi mọi việc kinh doanh và kinh doanh chứng khoán cũng không phải là ngoại
lệ. Vào thời gian giữa của sự phát triển kĩ thuật cho việc giao dịch chứng khoán,
Sở giao dịch chứng khoán Philadelphia tiếp tục chương trình công kích của nó
về việc đổi mới sản phẩm bằng việc cho vào danh sách “quyền chọn cổ phiếu”
năm 1975. Vì vậy, Philadelphia trở thành sở giao dịch đầu tiên ghi vào danh sách
quyền chọn cổ phần cho việc mua bán.

21


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
Tháng 4 năm 1988, Sở giao dịch đã lợi dụng việc luôn bán kỹ thuật điện
dùng vào sàn giao dịch chứng khoán để xây dựng một hệ thống mới thích hợp
với việc giao dịch quyền chọn. Hệ thống thị trường quyền chọn tự động hoá cho
phép việc giao hàng điện tử những đơn đặt hàng từ phía các công ty thành viên
đến sàn giao dịch, tự động thực hiện và xác nhận đã hoàn thành những đơn đặt
hàng đó.
Tuy nhiên, sự phát minh phổ biến nhất của thập kỉ 20 là việc Sàn giao dịch
chứng khoán Philadelphia cho ra đời quyền chọn tiền tệ năm 1982. Đến năm

1988, giao dịch quyền chọn tiền tệ lên tới 4tỉ USD/ngày. Quyền chọn bán ở sở
giao dịch trên bản đồ quốc tế đã thu hút sự chú ý của châu Âu, Pacific và vùng
Viễn Đông, cũng từ đó những văn phòng đại diện sở giao dịch chứng khoán đầu
tiên đựơc hình thành ở khắp mọi nơi. Sự thành công của việc giao dịch quyền
chọn tiền tệ trên Sở giao dịch Philadelphia đã cho ra đời giao dịch tương lai và
giao dịch các sản phẩm tương lai khác.
Nhu cầu ở vùng Viễn Đông ngày càng tăng cao nên năm 1987,
Philadelphia đã cho ra đời thêm một phiên họp giao dịch vào buổi chiều và tháng
1 năm 1989 thêm một phiên họp vào buổi sáng sớm để đáp ứng nhu cầu của sự
gia tăng nhu cầu ở Châu Âu. Tiếp đó là sự ra đời của “mục lục quyền chọn” đã
đánh dấu sự thành công về quyền chọn đáng chú ý nhất vào những năm 1990.
Từ năm 1991 đến nay, số lượng giao dịch quyền chọn trên thị trường này
không ngừng tăng cao. Năm 1991 đến năm 1995 tăng từ 11.470$ lên 17.540$ và
con số này năm 2000 là 75.999$. Đến năm 2006 tăng tới 70% đối với giao dịch
quyền chọn tiền tệ.
Tóm lại, có thể thấy sự phát triển mạnh mẽ của thị trường quyền chọn từ khi nó
ra đời đến bây giờ và tiêu biểu là trên sàn giao dịch chứng khoán và quyền chọn
Philadelphia.

22


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
Chương ii

đánh giá về quá trình phát triển thị trường chứng khoán phái sinh
ở việt nam

Chứng khoán phái sinh xuất hiện trên thị trường thế giới từ thế kỉ 18
nhưng đối với thị trường Việt Nam, chứng khoán phái sinh vẫn còn là những gì

mới mẻ, xa lạ với hầu hết tất cả mọi người. Do đó, qua việc nghiên cứu thực
trạng sử dụng chứng khoán phái sinh ở Việt Nam, em muốn đánh giá những
điểm tốt và hạn chế, từ đó rút ra kinh nghiệm phát triển cho thị trường chứng
khoán phái sinh Việt Nam trong thời gian tới.
i. Sự hình thành và triển vọng của thị trường chứng khoán phái sinh Việt
Nam
1. Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam
Năm 1986, sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trong gần
20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, mở ra một thời kỳ phát triển
mới cho nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, vai trò của đổi mới hoạt động ngân
hàng đã đóng góp một phần rất quan trọng đối với nề kinh tế.
Ngày 26/03/1988, Chính phủ đã ban hành nghị định 53/HĐBT hình thành
hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó NHNN làm chức năng quản lý nhà nước về
tiền tệ, tín dụng và ngân hàng chuyên doanh trực tiếp kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng.

23


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
Hai pháp lệnh về Ngân hàng năm 1990 đã đánh dấu sự ra đời của hệ thống
NHTM ở Việt Nam và góp phần đa dạng hoá hoạt động ngân hàng cả về mặt
hình thức sở hữu cũng như số lượng ngân hàng.
Sau đây là những số liệu cụ thể về số lượng và hình thức sở hữu ngân
hàng thương mại qua các giai đoạn.
Bảng 1: Phát triển NHTM Việt Nam từ 1991-1997
1991
1993
Ngân hàng quốc doanh
4

4
Ngân hàng cổ phần
4
41
Ngân hàng liên doanh
1
3
Chi nhánh NHNN
0
8
Tổng cộng
9
56
Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước

1995
4
48
4
18
74

1997
5
51
4
24
84

Với việc bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ

quốc tế (IMF, WB, ADB) vào năm 1993 và năm 1995, Quốc hội thông qua nghị
quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng, thành lập ngân hàng phục
vụ người nghèo đã góp phần vào sự phát triển đa dạng các loại hình Ngân hàng
thương mại Việt Nam cả số lượng lẫn hình thức sở hữu, thúc đẩy nỗ lực cạnh
tranh giữa các NHTM, từ đó nâng cao trình độ nghiệp vụ và chất lượng phục vụ
sao cho ngày càng tiện ích cho khách hàng.

Bảng 2: Phát triển NHTM giai đoạn 1997 – 2001

24


Ketnooi.com diễn đàn công nghê, giáo dục
1997
Ngân hàng quốc doanh
5
Ngân hàng cổ phần
51
Ngân hàng liên doanh
4
Chi nhánh NHNN
24
Tổng cộng
84
Nguồn: Báo cáo của NHNN Việt Nam

1999
5
48
4

26
83

2000
5
39
4
26
74

Sau khi Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng ra đời, số lượng NHTM
tiếp tục gia tăng và đóng vao trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ hiện
nay.
Từ năm 2001 đến nay, các NHTM Việt Nam bước vào thời kì củng cố,
nâng cao trình độ nghiệp vụ và công nghệ ngân hàng nhằm gia tăng sức cạnh
tranh trong thời kì hội nhập và tự do hoá hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, các
NHTM đang tích cực triển khai các dịch vụ ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu
của người dân cũng như các doanh nghiệp, đóng góp vai trò quan trọng vào việc
thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam.
Hoạt động của NHTM:
• Huy động vốn bao gồm nhận tiền gửi, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái
phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn, vay vốn của các tổ chức tín
dụng trong và ngoài nước, vay vốn của NHNN.
• Hoạt động tín dụng bao gồm cấp tín dụng dưới hình thức cho vay, chiết
khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức cấp tín dụng khác.
• Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ bao gồm mở tài khoản, thu chi tiền,
cung ứng các phương tiện thanh toán, thực hiện dịch vụ thanh toán cho khách
hàng, thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ, thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và
các dịch vụ thanh toán khác.


25


×