Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Biện pháp nâng cao hiệu quả liên kết đào tạo tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 131 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN VĂN DIỆN

LUẬN VĂN
ĐỀ TÀI:
BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ LIÊN KẾT ĐÀO TẠO
TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
TỈNH HÀ GIANG
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 601405

Người hướng dẫn khoa học:
GS – TSKH: NGUYỄN VĂN HỘ

Thái Nguyên - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:

Đánh giá của cán bộ lãnh đạo, quản lý trung tâm về nội
dung cần thực hiện trong công tác tuyển sinh tại TTGDTX
tỉnh Hà Giang.


Bảng 2.2:

Đánh giá của giảng viên cơ sở giáo dục đại học về mức độ
cần thiết thực hiện các nội dung trong công tác tuyển sinh
tại TTGDTX tỉnh Hà Giang.

Bảng 2.3:

Mức độ thực hiện các nội dung trong công tác tuyển sinh
tại TTGDTX tỉnh Hà Giang.

Bảng 2.4:

Đánh giá của giảng viên cơ sở đại học về mức độ thực hiện
các nội dung trong công tác tuyển sinh tại TTGDTX tỉnh
Hà Giang.

Bảng 2.5:

Đánh giá của giảng viên cơ sở đại học về nội dung và
chương trình đào tạo đại họctại TTGDTX tỉnh Hà Giang.

Bảng 2.6:

Đánh giá của học viên về hoạt động giảng dạy của giảng
viên tại TTGDTX tỉnh Hà Giang.

Bảng 2.7:

Mức độ cần thiết phải thực hiện các nội dung quản lý quá

trình học tập của học viên tại TTGDTX tỉnh Hà Giang.

Bảng 2.8:

Đánh giá của học viên về mức độ cần thiết thực hiện các
nội dung quản lý quá trình học tập của học viên tại
TTGDTX tỉnh Hà Giang.

Bảng 2.9:

Mức độ thực hiện các nội dung quản lý quá trình học tập
của học viên tại TTGDTX tỉnh Hà Giang.

Bảng 2.10: Đánh giá của học viên về mức độ thực hiện các nội dung
quản lý quá trình học tập của học viên tại TTGDTX tỉnh
Hà Giang.
Bảng 2.11: Mức độ cần thiết của các nội dung quản lý quá trình liên
kết đào tạo hệ đại học tại TTGDTX tỉnh Hà Giang.
Bảng 2.12: Đánh giá của giảng viên cơ sở đại học về mức độ cần thiết
của các nội dung quản lý quá trình liên kết đào tạo đại học
tại TTGDTX tỉnh Hà Giang.
Bảng 2.13: Mức độ thực hiện các nội dung quản lý quá trình đào tạo
đại học tại TTGDTX tỉnh Hà Giang.
Bảng 2.14: Đánh giá của học viên về mức độ thực hiện các nội dung
quản lý quá trình liên kết đào tạo đại học tại TTGDTX tỉnh
Hà Giang.
Bảng 2.15: Đánh giá của cán bộ giáo viên cơ sở đại học về mức độ
thực hiện các nội dung quản lý quá trình liên kết đào tạo
đại học tại TTGD TX tỉnh Hà Giang.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt:

Xin đọc là:

TTGDTX:

Trung tâm giáo dục thường xuyên.

GDTX:

Giáo dục thường xuyên.

GDCQ:

Giáo dục chính quy.

GDKCQ:

Giáo dục không chính quy.

CQ:

Chính quy.


KCQ:

Không chính quy.

XHHT:

Xã hội học tập.

QLGD:

Quản lý giáo dục

ĐH,CĐ:

Đại học, Cao đẳng.

GD - ĐT:

Giáo dục – Đào tạo.

GV:

Giảng viên.

CNH - HĐH:

Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá.

TTGDCĐ


Trung tâm giáo dục cộng đồng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

1.

Lý do chọn đề tài.....................................................

2.

Mục đích nghiên cứu...............................................

3.

Khách thể và đối tượng nghiên cứu.........................

4.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu..................................

5.


Giả thuyết khoa học.................................................

6.

Nhiệm vụ nghiên cứu...............................................

7.

Phương pháp luận nghiên cứu.................................

8.

Phương pháp nghiên cứu.........................................

9.

Cấu trúc luận văn.....................................................

CHƢƠNG I

Cơ sở lý luận và pháp lý của hoạt động liên kết
đào tạo tại Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên.

1.1.

Tổng quan về vấn đề nghiên cứu………………….

1.1.1.


Những nghiên cứu về giáo dục thường xuyên ……

1.1.2.

Những nghiên cứu về liên kết đào tạo đại học giữa cơ
sở giáo dục đại học và TTGDTX………………

1.2.

Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài…….

1.2.3.

Tổ chức liên kết đào tạo …………………………..

1.2.4.

Giáo dục thường xuyên……………………………

1.2.5.

Quản lí giáo dục và GDTX………………………..

1.2.5.2.

Quản lí GDTX ……………………………………

1.2.6

Chất lượng đào tạo………………………………...


1.3.

Cơ sở pháp lí của mô hình liên kết đào tạo đại học tại
các TTGDTX…………………………………..

1.3.2.

Cơ sở pháp lí của liên kết đào tạo đại học tại
TTGDTX………………………………………….

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1.3.3.

Cơ sở khoa học của liên kết đào tạo đại học tại các
TTGDTX………………………………………….

1.4.

Các yếu tố tác động tới chất lượng liên kết đào tạo đại
học ở TTGDTX……………………………….
Kết luận chương I

CHƢƠNG II

Thực trạng về chất lƣợng của hoạt động liên kết

đào tạo hệ đại học tại TTGDTX Tỉnh Hà Giang

2.1.

Khái quát về Giáo dục, đào tạo ở Hà Giang

2.2.

Thực trạng đào tạo hệ Đại học tại TTGDTX

2.3.

Thực trạng chất lượng đào tạo hệ Đại học tại
TTGDTX.................................................................

2.4.

Đánh giá hiệu quả,tồn tại và nguyên nhân tồn tại
trong công tác đào tạo hệ Đại học tại TTGDTX Tỉnh
Hà Giang
Kết luận chương II

CHƢƠNG III Các biện pháp tổ chức hoạt động liên kết tại
TTGDTX Tỉnh Hà Giang
3.1.

Các nguyên tắc cần quán triệt khi đề xuất các biện
pháp.

3.2.


Các biện pháp liên kết đào tạo hệ Đại học ở TTGDTX
Tỉnh Hà Giang.

3.3.

Thực nghiệm các biện pháp đào tạo hệ Đại học tại
TTGDTX Tỉnh Hà Giang
Kết luận chương 3
Kết luận
Kiến nghị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá (CNH), hiện đại
hoá (HĐH) trong một bối cảnh khi mà điểm xuất phát chỉ là một nền kinh
tế nông nghiệp lạc hậu, nguồn nhân lực chất lượng thấp, chưa được đào tạo
cơ bản.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định mục tiêu
chiến lược xây dựng nước ta trở thành một quốc gia: Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội cũng đã chỉ rõ “Muốn tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển giáo dục và
đào tạo, phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát
triển nhanh và bền vững”. Phát triển giáo dục và đào tạo được coi là quốc
sách hàng đầu, là nền tảng để phát triển nguồn nhân lực.

Theo đó, trong những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều biện
pháp đổi mới theo hướng đa dạng hóa phương thức đào tạo nhằm đáp ứng
nhu cầu giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân và để xây dựng một xã hội học
tập "mọi người được đi học, học thường xuyên, học suốt đời". Giáo dục
chính quy (GDCQ) được kết hợp với các hình thức giáo dục thường xuyên.
Trung tâm giáo dục thường xuyên (TTGDTX) là một trong những cơ
sở giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng. Mô hình liên kết đào tạo đại học
giữa các cơ sở giáo dục đại học và các TTGDTX nhằm đáp ứng nhu cầu về
nhân lực cho các địa phương, nông thôn, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía
Bắc, trong đó có Hà Giang nơi “phên dậu” của tổ quốc - nơi còn nhiều hạn
chế về các điều kiện để phát triển giáo dục đại học.
Với các loại hình và phương thức đào tạo đa dạng, TTGDTX tỉnh Hà
Giang đã thực sự góp một phần không nhỏ vào việc giải bài toán về vấn đề
đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương. Đặc biệt là đã làm chuyển biến
được nhận thức của nhiều người về tầm quan trọng của việc học tập, coi
việc học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ là việc làm thường xuyên và cần
thiết, khắc phục tâm lý ngại khó trong học tập. Từ đó, đã hình thành một
phong trào thi đua học tập, số người tham gia học tập ngày một đông hơn,
điều này thể hiện qua số lượng tuyển sinh tại TTGDTX trong thời gian gần
đây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Những năm qua TTGDTX Tỉnh Hà Giang đã đóng vai trò tích cực
trong việc nâng cao trình độ cho nhân dân trong các thành phần kinh tế
cũng như thực hiện mục tiêu chuẩn hóa cán bộ. Có thể nói đây là phương
thức đào tạo có hiệu quả và vẫn còn thích hợp trong giai đoạn tới, với
phương châm: "Học, học nữa, học mãi", "học suốt đời", nhu cầu học tập

của nhân dân trong tương lai còn rất lớn, hệ thống các trường chính quy sẽ
không thể đảm đương nổi nếu không có sự tiếp sức của các TTGDTX.
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, đào tạo ĐH tại chức ở
TTGDTX tỉnh Hà Giang cũng còn một số tồn tại như ý thức của nhiều
người học chưa cao, chương trình đào tạo chưa phù hợp với đối tượng
người học, bị cắt xén nhiều so với chương trình đào tạo chính quy cùng
trình độ. Việc tổ chức giảng dạy chưa chặt chẽ, nhiều giảng viên chưa có
kinh nghiệm trong giảng dạy người lớn, nhiều lớp thực hiện giảng dạy các
môn học theo kiểu cuốn chiếu, điều kiện phục vụ giảng dạy như thư viện,
phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành không đảm bảo theo yêu cầu của
chương trình đào tạo.
Từ những phân tích trên cho thấy cần thiết phải có một công trình
nghiên cứu có hệ thống về các biện pháp tổ chức hoạt động liên kết của
Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Hà Giang với các cơ sở giáo dục
đào tạo trong khu vực nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao của Tỉnh, tác giả chọn vấn đề: “Biện pháp nâng cao hiệu quả
liên kết đào tạo Tại Trung tâm giáo dục thường xuyên Tỉnh Hà Giang"
làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

Dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn đề xuất các biện pháp góp phần
nâng cao hiệu quả liên kết đào tạo hệ đại học tại TTGDTX tỉnh Hà Giang.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU:

3.1. Khách thể nghiên cứu:
Hoạt động đào tạo hệ đại học tại chức ở TTGDTX tỉnh Hà Giang.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu:
Biện pháp nâng cao hiệu quả liên kết đào tạo tại Trung tâm Giáo dục
thường xuyên tỉnh Hà Giang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2




4. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

- Triển khai nghiên cứu tại TTGDTX tỉnh Hà Giang.
- Thời gian nghiên cứu từ năm 2009 đến năm 2010.
- Đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả liên kết của Nhà
trường trong những năm tiếp theo.
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:

Trong những năm qua, hiệu quả công tác liên kết đào tạo tại Trung
tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Hà Giang còn nhiều bất cập cần nghiên
cứu, xác lập một số biện pháp phù hợp với lí luận quản lý giáo dục, phù
hợp với điều kiện thực tế nhằm nâng cao hiệu quả công tác liên kết đào tạo
tại Trung tâm giáo dục thường xuyên Tỉnh Hà Giang, và yêu cầu phát triển
của Nhà trường.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:

- Hệ thống hoá phần lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động liên kết đào tạo hệ
đại học tại TTGDTX Tỉnh Hà Giang.
- Các biện pháp tổ chức hoạt động liên kết đào tạo hệ đại học tại
chức tại TTGDTX Tỉnh Hà giang.
7. PHƢƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU:

Đề tài nghiên cứu được dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử, quan điểm hệ thống - cấu trúc, quan điểm lịch sử - lôgic,
quan điểm thực tiễn và quan điểm phát triển.
8. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
8.1. Nhóm các phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ thống hoá và khái quát hoá các tài
liệu lí luận và pháp lý về giáo dục thường xuyên để xác định các khái niệm
công cụ và hình thành cơ sở lý thuyết cho đề tài.
8.2. Nhóm các phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn:
8.2.1. Phương pháp điều tra:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3




- Khảo sát thực trạng thu thập thông tin.
- Điều tra bằng bảng hỏi và trao đổi trực tiếp với cán bộ quản lí,
giảng viên, học viên.
8.2.2. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Các biện pháp tổ chức
hoạt động liên kết tại TTGDTX tỉnh Hà Giang.
8.2.3. Phương pháp thực nghiệm:
8.3. Nhóm các phƣơng pháp hỗ trợ:
Luận án sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu
thu được từ các phương pháp kể trên.
9. CẤU TRÚC LUẬN VĂN:
- Mở đầu:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và pháp lý của hoạt đông liên kết đào tạo

tại Trung tâm giáo dục thường xuyên.
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động liên kết đào tạo hệ Đại học tại
Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Hà Giang.
Chƣơng 3: Các biện pháp tổ chức hoạt động liên kết đào tạo hệ đại
học tại chức tại TTGDTX Tỉnh Hà Giang.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4




Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG LIÊN KẾT
TẠI TRUNG TÂM GDTX TỈNH HÀ GIANG
1.1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:

1.1.1. Những nghiên cứu về giáo dục thƣờng xuyên:
Giáo dục thường xuyên (GDTX) là một vấn đề luôn được các nhà
khoa học giáo dục quan tâm. Thực tiễn cho thấy khi nghiên cứu về giáo dục
thường xuyên các tác giả thường đề cập đến các vấn đề có liên quan mật
thiết đó là xây dựng một xã hội học tập và giáo dục cho mọi người. Bởi vì
mục tiêu xây dựng xã hội học tập và thực hiện giáo dục cho mọi người đặt
ra nhiệm vụ tổ chức và thực hiện giáo dục thường xuyên.
GDTX được thế giới quan tâm đến từ Hội nghị giáo dục người lớn
thế giới lần thứ nhất được tổ chức tại Elsimor – Đan Mạch (1949). Từ đó
đến nay nhiều Hội nghị thế giới về GDTX đã được tổ chức nhằm đánh giá
tình hình, chỉ ra xu thế phát triển và những vấn đề đặt ra cho GDTX trên
phạp vi toàn cầu.

Vào giữa thế kỷ XX, do khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ
bão, nhà trường không thể cung cấp hết cho người học những tri thức mới
của nhân loại và càng không giữ được vai trò độc tôn trong việc giáo dục
thế hệ trẻ. Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục đã thấy được sự khủng hoảng
trong giáo dục, nên đã phân tích vai trò của nhà trường, những hạn chế mà
nhà trường không thể khắc phục được như hạn chế và bó hẹp của giáo dục,
dưới sự áp đặt và trấn áp trong quá trình dạy và học, không cập nhật và
không được áp dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống và đặc biệt là
không tạo cho mọi người có thể tiếp tục học tập, học thường xuyên, học
suốt đời. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng giáo dục không chính quy sẽ là
giải pháp duy nhất để thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng đó.
Hội nghị lầ thứ V tổ chức tại Hamburg – Cộng hoà Liên bang Đức
(1997) đã đưa ra bản tuyên bố nêu lên tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục
người lớn và học tập của người lớn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia
cũng như trên toàn thế giới, khẳng định tính cấp thiết của việc học tập trong
cộng đồng và nơi làm việc.
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã đề cập đến xu thế học tập
suốt đời và XHHT trong quá trình đổi mới và chấn hưng nền giáo dục Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5




Nam hiện nay. Có thể nêu một số các nhà nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề
này như: Phạm Minh Hạc, Nguyễn Minh Đường, Vũ Ngọc Hải, Phạm Tất
Dong, Đặng Quốc Bảo, Đặng Thành Hưng…
GDKCQ và GDTX có lịch sử phát triển lâu dài, có nhiều biến đổi và
khá đa dạng. Vì vậy GDKCQ và GDTX được nghiên cứu và triển khai

trong thực tiễn dưới nhiều góc độ, nhưng tựu trung lại là ngành giáo dục
dành cho người lớn.
Ngay từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước đã có nhiều công trình
nghiên cứu về giáo dục theo phương thức tại chức, chẳng hạn: Công trình
của Thái Xuân Đào, Tô Bá Trượng và GDCQ và KCQ của Vũ Đình Duyệt,
Ngô Văn Cát về mô hình dạy văn hoá, BTVH kết hợp với dạy nghề và hỗ
trợ phát triển giáo dục tiếp tục…Đặc biệt là công trình mang tầm vóc tổng
kết lĩnh vực GDTX của Viện khoa học giáo dục và Vụ GDTX. Các công
trình này đã đề cấp đến các vấn đề cơ bản của GDTX như: Chương trình
xoá mù, chương trình tương đương, nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo thu
nhập hướng tới tương lai; cơ sở hạ tầng của GDTX; định hướng phát triển
GDTX ở Việt Nam trong những tiếp theo. Có thể nói đây là công trình đã
đưa ra nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn cho nghiên cứu sâu về GDTX nói
chung về TTHTCĐ nói riêng.
Trong thực tiễn vấn đề giáo dục không chính quy, GDTX được triển
khai ngay từ những năm 1945 và phát triển khá mạnh mẽ. Với nhiều mục
tiêu khác nhau qua các thời kỳ nhưng tựu trung lại là giúp hoà nhập giáo
dục bổ túc với đào tạo bồi dưỡng tại chức thành hệ thống giáo dục và đào
tạo thường xuyên, cung cấp cơ hội học tập cho mọi người.
Về cơ sở pháp lý, vấn đề học tập suốt đời và xây dựng XHHT, vấn
đề GDKCQ và GDTX đã được thể chế hoá trong Luật giáo dục và nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác.
1.1.2. Những nghiên cứu về liên kết đào tạo đại học giữa cơ sở
giáo dục đại học và TTGDTX:
Vấn đề phát triển giáo dục thường xuyên tuỳ theo điều kiện và khả
năng của từng quốc gia và có cách làm khác nhau, nhưng các công trình
nghiên cứu đều có chung quan điểm là giáo dục liên tục, giáo dục suốt đời,
giáo dục cộng đồng là hướng chủ đạo, chi phối sự phát triển. Các nước đều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6




mở rộng quy mô, hình thức đào tạo, chuyển hướng giáo dục từ chỗ phục vụ
chủ yếu cho số ít sang nền giáo dục đại chúng.
Các công trình nghiên cứu đều đã nhấn mạnh cộng động phải coi
GDTX là điều kiện để nâng cao dân trí, là trách nhiệm của mọi người, mọi
địa phương chứ không phải riêng của ngành giáo dục.
Các nghiên cứu này cũng chỉ ra các xu thế sau của hệ thống GDTX:
- Từ tập trung hoá sang phi tập trung hoá;
- Từ xu thế áp đặt từ trên xuống dưới sang xu thế hoạt động từ dưới
lên trên;
- Từ xu thế rà soát Nhà nước sang xu thế cộng đồng hoá;
- Từ xu thế chính quy sang xu thế phi chính quy;
- Từ cứng nhắc mềm dẻo sang linh hoạt;
- Từ chỗ ngành giáo dục phải chủ động sang cộng đồng phải chủ
động.
Vấn đề liên kết đào tạo là nội dung và cũng là một trong những hình
thức của xu thế phát triển GDTX.
Trong Hội thảo “Chƣơng trình giáo dục cho mọi ngƣời” ở Châu á –
Thái Bình Dương tổ chức tại thủ đô Australia tháng 11 năm 1987,
UNESCO đã định nghĩa “GDTX là một khái niệm rộng lớn, bao gồm tất cả
các cơ hội học tập mà mọi người đều mong muốn hoặc cần có sau mù chữ
cơ bản và giáo dục tiểu học”. Định nghĩa trên bao hàm những nội dung
sau:
- GDTX là dành cho người lớn đã biết chữ;
- GDTX đáp ứng nhu cầu, mong muốn của mọi người;
- GDTX có thể bao hàm những kinh nghiệm do GDCQ, KCQ và phi

chính quy cung cấp;
- GDTX được quy định là cơ hội tham gia vào quá trình học tập suốt
đời sau khi kết thúc tiểu học hoặc tương đương.
Vấn đề liên kết đào tạo nói chung, liên kết đào tạo Đại học nói riêng
giữa các cơ sở đào tạo giáo dục và đại học và các TTGDTX chưa được
nghiên cứu một cách có hệ thống mặc dù đây là vấn đề rất đáng được quan
tâm. Đã có những ý kiến khác nhau về chất lượng đào tạo của GDTX, về
chất lượng của liên kết đào tạo, đã có những hội thảo khoa học về phát triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7




GDTX ở những góc độ khác nhau nhưng lại có quá ít các ý kiến về vấn đề
xây dựng và phát triển mô hình liên kết đào tạo đại học như thế nào cho có
hiệu quả và đảm bảo chất lượng.
Những vấn đề của mô hình liên kết đào tạo thì có nhiều và đã được
đề cập ít nhiều dười gó độ quản lý giáo dục. Có thể kể đến một số kết quả
nghiên cứu về vấn đề này như: “Các biện pháp quản lý hệ đào tạo KCQ tại
TTGDTX Tỉnh Thanh Hoá” của Phạm Ngọc Thành; “Một số biện pháp đổi
mới quản lí công tác liên kết đào tạo tại chức ở TTGDTX Hải phòng” của
Đỗ Văn Hạ…
Rõ ràng nhiều vẫn đề lí luận và thực tiễn về liên kết đào tạo, về mô
hình liên kết đào tạo đại học vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ
thống, trong khi sự tồn tại của mô hình này là một tất yếu, một xu hướng
trong sự phát triển của giáo dục nói chung và của GDTX nói riêng.
1.2. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI:


1.2.1. Giáo dục:
Trong thực tiễn, hai thuật ngữ giáo dục và đào tạo nhiều khi được sử
dụng với nghĩa tương đương nhau, thay thế lẫn nhau hoặc kết hợp với nhau
tạo thành cụm từ kép “Giáo bục và Đào tạo”. Theo chúng tôi giáo dục và
đào tạo là hai khái niệm của cùng một thiết chế nhưng chúng không đồng
nhất với nhau.
Khái niệm giáo dục theo nghĩa rộng ở cấp độ xã hội là khái niệm
được dùng để chỉ một hoạt động xã hội. Phương hướng của giáo dục là do
mục đích của xã hội quy định. Mục đích của giáo dục là sự phát triển cá
nhân và cộng đồng.
Khái niệm giáo dục được hiểu như trên đương nhiên nhằm chỉ giáo
dục với tư cách là một bộ phận của hiện thực khách quan – mảng hiện thực
khách quan ấy có những thuộc tính sư phạm (dạy học, truyền đạt – lĩnh hội).
Tuy nhiên khái niệm giáo dục không bao hàm hết tất cả mảng hiện thực đó
(hiện thức giáo dục). Điều đó có nghĩa là khái niệm giáo dục chỉ đề cập đến
những yếu tố của hiện thực giáo dục đã được con người nhận thức, được
con người tổ chức và vận hành trong thực tế.
Theo nghĩa này, giáo dục có những chức năng cơ bản sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8




- Đào tạo, huấn luyện con người, truyền đạt kinh nghiệm sống và lao
động cho các cá nhân và nhóm người.
- Khẳng định truyền bá ảnh hưởng của hệ tư tưởng, chuyển giao văn
hoá như là nhân tố bảo tồn nền văn hoá của loài người hoặc cộng đồng.

- Phát triển loài với tư cách là cộng đồng tự nhiên, ý thức xã hội và
phát triển cá nhân.
- Là mục đích của tiến trình phát triển xã hội.
Như vậy giáo dục là phương thức hoàn thiện và phát triển của xã hội
và cá nhân nhằm tạo ra những năng lực xã hội trong các cá nhân và toàn xã
hội để vừa thích ứng với các yêu cầu của sự phát triển vừa là động lực của
sự phát triển của cá nhân và xã hội. Quá trình hoàn thiện và phát triển của
cá nhân và xã hội được thực hiện bằng tác động bởi các cơ quan dạy học và
giáo dục chuyên nghiệp.
1.2.2. Đào tạo:
Theo từ điển “Giáo dục học” thì Đào tạo được hiểu theo hai nghĩa:
Một là, quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những
kinh nghiệm, những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, chuyên môn
đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm
thế cho con người đi vào cuộc sống lao động tự lập và góp phần xây dựng,
bảo vệ đất nước.
Hai là, cách tiến hành hỗ trợ, bồi dường nhằm nâng cao năng lực,
phẩm chất phù hợp với đòi hỏi của cơ quan tổ chức.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam “Đào tạo là quá trình tác động
đến một con người nhằm làm cho người đó lãnh hội và nắm vững tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích
nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định, góp
phần của mình vào việc phát triển xã hội và phát triển nền văn minh của
loài người” về cơ bản đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường gắn
với giáo dục nhân cách đạo đức.
Như vậy đào tạo có thể hiểu là một quá trình trang bị kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo…Đây là một hoạt động, một dạng công việc của xã hội nhằm
truyền đạt và phổ biến kinh nghiệm hoạt động cho người học.
Đào tạo luôn được xác định về phạm vi, cấp độ, cấu trúc và những
hạn định cụ thể về thời gian, không gian, nội dung và tính chất. Vì lẽ đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9




đào tạo là cơ cấu, là quá trình quyết định làm cho giáo dục có tính tổ chức,
kế hoạch, hướng đích và điều khiển được. Đào tạo không chỉ là một chức
năng quan trọng mà còn là một thuộc tính cơ bản của giáo dục, là hình thức
thực thể của giáo dục.
Trên thực tế, đào tạo thường được hiểu theo nghĩa hẹp với tư cách là
quá trình hình thành ở người học phẩm chất nghề nghiệp, hệ thống tri thức,
thái độ, kỹ năng và các phẩm chất tâm lý tương ứng khác. Theo tổ chức hệ
thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay thì có các loại hình đào tạo sau: Chính
quy và GDTX; đào tạo có chứng chỉ, văn bằng và đào tạo không có chứng
chỉ, văn bằng; đào tạo từ xa, đào tạo cấp tốc, đào tạo trong nhà trường, đào
tạo ngoài nhà trường…
1.2.3. Tổ chức liên kết đào tạo:
Liên kết là sự kết hợp của các cá nhân, các tổ chức để thực hiện một
nhiệm vụ chung bằng cách đó đạt được mục tiêu chung cũng như mục tiêu
theo đuổi của mỗi cá nhân mỗi tổ chức.
Như vậy, liên kết đào tạo là sự kết hợp của các cơ sở giáo dục để tổ
chức, vận hành quá trình đào tạo nhằm hình thành ở người học các phẩm
chất nghề nghiệp, hệ thống tri thức, thái độ và các phẩm chất tâm lý khác.
Sự kết hợp nói trên bao gồm các nội dung:
- Khảo sát nhu cầu của người học;
- Xây dựng kế hoạch mở lớp;
- Tuyển sinh;
- Thực hiện kế hoạch và chương trình đào tạo thông qua tổ chức hoạt

động giảng dạy và học tập của dạy và người học.
- Kiểm tra đánh giá hoạt động giảng dạy, học tập và kết quả học tập
của người học.
- Cung ứng học liệu và cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ hoạt động
giảng dạy và học tập.
Việc liên kết đào tạo được thực hiện trên cơ sở hợp đồng đào tạo
giữa các cơ sở đào tạo với nhau.
Liên kết đào tạo giữa các cơ sở giáo dục đại học và TTGDTX là một
trong những hình thức liên kết đào tạo phù hợp và có hiệu quả trong giai
đoạn hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10




Trong hình thức đào tạo này, cơ sở giáo dục đại học chịu trách nhiệm
toàn diện về việc liên kết đào tạo; TTGDTX chịu trách nhiệm về khảo sát
nhu cầu học tập của người học, xây dựng kế họch mở lớp để báo cáo các cơ
quan có thẩm quyền, chuẩn bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho quá
trình đào tạo.
1.2.4. Giáo dục thƣờng xuyên:
Trên thế giới, thuật ngữ giáo dục thường xuyên, nhiều khi được sử
dụng chung với các thuật ngữ “Giáo dục người lớn”, “Giáo dục ngoài nhà
trường”, “Giáo dục không chính quy” mặc dù các thuật ngữ có nội hàm
không hoàn toàn giống nhau.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cho rằng GDCQ được hiểu là
những chương trình được cung cấp bởi những thể chế giáo dục đã được
thiết lập trong các trường thuộc các cấp, bậc học như trường mần non, TH,

THCS, THPT,CĐ, ĐH. Còn giáo dục không chính quy là các hoạt động tổ
chức dành cho những người không học trong hệ thống GDCQ. Theo các tác
giả của “từ diển giáo dục học” thì GDKCQ là phương thức giáo dục mọi
người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm nâng cao trình độ,
hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết để cải thiện chất lượng cuộc sống,
tìm kiếm việc làm thích nghi với đời sống xã hội.
Cũng giống như ở nhiều nước, ở Việt Nam các khái niệm GDKCQ
và GDCQ có quá trình phát triển và chưa đạt đến sự thống nhất hoàn toàn
giữa các nhà nghiên cứu.
Theo “Từ điển giáo dục học” GDTX là hình thức giáo dục theo
phương thức KCQ nhằm giúp mọi người được học liên tục, học suốt đời để
mở rộng kiến thức, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ
nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống. GDTX được thực hiện trong các
TTGDTX và cấp chứng chỉ GDKCQ, nhưng được dự thi các chương trình
giáo dục để lấy bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học.
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu thì GDTX được hiểu theo nghĩa:
- Về phương châm giáo dục: Là sự cung ứng cơ hội cho mọi người
để học tập suốt đời nhằm thúc đẩy sự phát triển con người thông qua các
chương trình XMC; chương trình tương đương; chương trình nâng cao chất
lượng cuộc sống, chương trình tạo thu nhập…Theo nghĩa này, GDTX đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11




nghĩa với giáo dục tiếp tục. GDTX có chức năng thay thế, tiếp nối, bổ sung
và hoàn thiện kiến thức cho GDCQ.

- Về tổ chức hệ thống giáo dục:
GDTX khuyến khích học tập suốt đời cho mọi người, ở mọi nơi
trong xã hội thông qua GDKCQ và GDPCQ. Theo quan niệm này trong hệ
thống gáo dục, bậc học và giữa các loại hình giáo dục, đặc biệt là GDCQ và
GDKCQ. Một số người có thể tiếp tục học chính quy, nhiều người có thể
tìm kiếm cơ hội giáo dục từ những chương trình tương đương của GDKCQ
rồi trở lại chính quy.
Như vậy, về lí luận theo quan điểm của các nhà chuyên gia thì
GDCQ và GDKCQ là hai phương thức giáo dục tồn tại song song, còn
GDTX chỉ là hình thức để thực hiện GDKCQ. Chương trình GDKCQ bao
gồm cả chương trình học để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân,
theo hình thức vừa học, vừa làm, học từ xa, tự học có hướng dẫn, còn
chương trình giáo dục thường xuyên chỉ bao gồm chương trình cấp chứng chỉ.
Quan niệm về GDCQ, GDKCQ và GDTX như trên phản ánh thực
trạng phát triển giáo dục của nước ta những năm cuối thế kỷ XX. Tuy nhiên
so với xu thế phát triển giáo dục của thời đại, thì phân chia GDCQ,
GDKCQ và GDTX không phù hợp với các lý do sau:
Thứ nhất: Sự phát triển với tốc độ nhanh, có biến động lớn dẫn đến
tình trạng bị xoá nhoà ranh giới giữa GDCQ và KCQ về yêu cầu trí thức,
thái độ kỹ năng của từng cá nhân nhằm thích ứng với sự phát triển của xã hội.
Thứ hai: Cũng do phát triển của xã hội tất yếu dẫn đến xu hướng học
suốt đời trong phạm vi toàn xã hội. Mặt khác để đáp ưng nhu cầu học tập
của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biết với lứa tuổi trưởng thành tất yếu phải
có GDTX. GDTX không phải chỉ cung cấp những tri thức cơ bản, KCQ mà
là những tri thức cần thiết cho người học tại thời điểm phát triển của xã hội
và cá nhân.
Thứ ba: Trong sự phát tiển của cả đời người, bất kỳ ai cũng cần được
cung cấp các phương tiện ban đầu làm cơ sở nền tảng cho sự phát triển của
giao đoạn sau. Mục đích, nội dung, tính chất cũng như độ dài giáo dục ban
đầu tuỳ thuộc vào trình độ kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia và đặc trưng

văn hoá của mỗi dân tộc. Việc tổ chức giáo dục ban đầu cho mỗi cá nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12




phải được tíên hành một cách khoa học, có hệ thống, được kiểm soát chặt
chẽ của nhà nước để đảm bảo quyền của mỗi người học, GDTX được hiểu
theo nghĩa giáo dục ban đầu trong mỗi cuộc đời cá nhân và xã hội.
Như vậy, trong xã hội hiện đại và xu thế phát triển trong tương lai,
do khoảng cách giữa kiến thức cơ bản và không cơ bản dần được thu hẹp
và dỡ bỏ nên sẽ không còn khái niện GDKCQ với cách hiểu truyền thống
như trước đây. Trong giáo dục hiện đại chỉ còn GDCQ và GDTX.
Trong Luật giáo dục năm 2005 quy định hệ thống giáo dục quốc dân
gồm GDCQ và GDTX, còn GDMN, GDPT, GDNN, GDĐH và sau đại học
là các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân (Điều 4).
Cũng vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời, nhằm hoàn thiện nhân
cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ
để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, và thích nghi đời sống xã
hội. Nhà nước có chính sách phát triển GDTX, thực hiện giáo dục cho mọi
người, xây dựng XHHT.
Như vậy có thể nói, về phương diện pháp lý, trước năm 2005,
GDKCQ được coi là một phương thức giáo dục và chính thức được xác
định trong luật giáo dục năm 1998. Đến năm 2005 GDKCQ được thay thế
bằng GDTX về cả chức năng và những nội dung cơ bản.
Ở nước ta hiện nay GDTX là một trong hai phân hệ của hệ thống
giáo dục quốc dân. Vì thế nội dung của GDTX rất phong phú, theo Điều 45
của Luật giáo dục năm 2005 GDTX được thể hiện trong các chương trình

sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13




Bảng cơ cấu khung nội dung của GDTX
Hệ thống giáo dục quốc dân
Giáo dục
chính quy

Giáo dục thƣờng xuyên
Các chƣơng trình
tƣơng đƣơng

Các chƣơng trình khác
Chứng chỉ

Tiến sỹ

Bỗi dƣỡng

Thạc sỹ
Đại học

Đại học


Cao đẳng

Cao đẳng

TCCN

TCCN

Dạy nghề

Dạy nghề

THPT

BTVH

THCS

BTVH (phổ cập)

Ngoại ngữ, tin học A,
B, C; chuyên môn

Dạy
nghề

Đáp ứng nhu cầu; cập nhật
kiến thức kho học, kỹ
năng lao động, sản xuất;
kỹ năng sống, chuyển giao

công nghệ…

Dạy nghề phổ thông

XM (Phổ cập TH)

TH

Xoá mù

Mầm non

Với cơ cấu khung nội dung như hiện hành, cho thấy nội dung của
GDTX rất phong phú, linh hoạt trải suốt cả đời người, trên mọi lĩnh vực
của đời sống cá nhân và xã hội. Điều này khẳng định GDTX là phân hệ
giáo dục quốc dân đáp ứng cho những người không có điều kiện hưởng thụ
GDCQ.
Các hình thức tổ chức GDTX rất đa dạng phong phú và linh hoạt tuỳ
thuộc vào mục tiêu giáo dục và các điều kiện kinh tế. Tuy nhiên có thể gộp
thành 2 nhóm chính sau:
- Các hình thức thực hiện chương trình GDTX để lấy văn bằng của
hệ thống giáo dục quốc dân gồm:
+ Vừa học vừa làm;
+ Học từ xa;
+ Tự học có hướng dẫn.
- Các hình thức thể hiện chương trình bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu
của mọi thành viên trong cộng đồng như cập nhật kiến thức khoa học, kỹ
năng lao động, sản xuất, chuyển giao công nghệ…thường được tiến hành
trong cộng đồng là thế mạnh của GDTX và là cơ sở để đáp ứng nhu cầu
học tập suốt đời của người dân và tạo ra XHHT.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14




1.2.5. Quản lý Giáo dục và GDTX:
1.2.5.1. Quản lý và quản lý giáo dục:
Quản lý là một trong những loại hình lao động đặc thù và quan trọng
nhất trong các hoạt động của con người, là sản phẩm tất yếu và là yếu tố
gắn chặt với hợp tác lao động. Vì vậy thuật ngữ quản lý được hiểu theo
nhiều cách khác nhau trên cơ sở những cách tiếp cận khác nhau. Theo từ
điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản Đà Nẵng – 2008): “Quản lý là tổ chức và
điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”.
Quản lý là sự tác động có chỉ huy, điều khiển hướng dẫn các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đề
ra.
Quản lý là cai trị một tổ chức bằng cách đặt ra mục tiêu và hoàn
chỉnh các mục tiêu cần đạt, lựa chọn và sử dụng các phương tiện nhằm đạt
các mục tiêu đã định.
Các định nghĩa về quản lý nêu trên đều cho thấy hiệu quả của công
tác quản lý phụ thuộc vào các yếu tố: Chủ thể quản lý, khách thể quản lý,
mục đích hướng đến công tác quản lý, tác động từ chủ thể đến khách thể
quản lý nhờ công cụ và phương pháp quản lý. Hoạt động quản lý luôn tồn
tại với tư cách là một hệ thống bao gồm: Chủ thể quản lý là cá nhân hoặc tổ
chức do con người cụ thể lập nên đề ra mục tiêu, dẫn dắt điều khiển các đối
tượng quản lý tới mục tiêu đã định. Khách thể quản lý: Vừa có thể là người,
là tổ chức, vừa có thể là một vật cụ thể, vừa có thể là sự vật, là tổ chức con
người. Giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý có quan hệ tác động qua

lại tương trợ lẫn nhau, chủ thể làm nảy sinh các hoạt động quản lý, còn
khách thể thì sinh sản các giá trị vật chất và tinh thần có giá trị sử dụng,
trực tiếp đáp ứng nhu cầu của con người, thoả mãn các hệ thống dưới sự
điều khiển của chủ thể quản lý.
Từ những ý chung đó có thể định nghĩa: Quản lý là một quá trình
tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy:
Quản lý bao giờ cũng là một quá trình tác động có tổ chức, có kế
hoạch, có mục tiêu xác định cụ thể. Quản lý phải có mục tiêu và một quỹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15




đạo đặt ra cho tất cả đối tượng và chủ thể quản lý, mục tiêu này là căn cứ
để chủ thể tạo ra tác động.
Quản lý là sự thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận đó là chủ thể
quản lý và đối tượng quản lý, đây là mối quan hệ không đồng cấp mà nó là
mối quan hệ ra lệnh - phục tùng và mang tính bắt buộc.
Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người. Đối tượng tác động của
quản lý là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh như một cơ thể sống gồm nhiều
yếu tố liên kết hữu cơ theo một quy luật nhất định tồn tại trong thời gian và
không gian cụ thể.
Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với
quy luật khách quan. Quản lý là hoạt động mang tính trí tuệ, tính sáng tạo,
bằng những quyết định đúng quy luật và có hiệu quả nhưng cũng phải tuân
theo những nguyên tắc nhất định hướng tới mục tiêu.

Quản lý, xét về mặt công nghệ, chính là sự vận động của thông tin.
Quản lý chính là thu thập, xử lý và lưu trữ các thông tin.
Tóm lại, quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường quản lý, mà
trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm (tổ chức) để hoàn
thành các nhiệm vụ và mục tiêu đề ra. Quản lý là một quá trình tác động,
gây ảnh hưởng bằng các công cụ và phương pháp quản lý khác nhau của
chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung. Có
thể biểu thị bằng mô hình sau:
Công cụ

Đối tượng quản lý

Chủ thể quản lý

Mục tiêu
quản lý

Phương pháp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16




Khái niệm quản lý giáo dục:
QLGD được hiểu ở nhiều nghĩa khác nhau:
Theo M.I.Kondacôp: “QLGD là tập hợp tất cả các biện pháp tổ chức,
kế hoạch hoá, công tác cán bộ… nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường

của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, để tiếp tục và mở rộng hệ thống
cả về mặt số lượng cũng như chất lượng”.
Các tác giả Nguyễn Sinh Huy – Hà Hữu Dũng cho rằng: “QLGD là
tác động một cách có mục đích và có kế hoạch vào toàn bộ lực lượng giáo
dục, nhằm tổ chức và phối hợp hoạt động của chúng, sử dụng một cách
đúng đắn các nguồn lực và phương tiện, thực hiện có kết quả những chỉ
tiêu phát triển về số lượng và chất lượng của sự nghiệp giáo dục theo
phương hướng của mục tiêu giáo dục”.
Còn tác giả Phạm Minh Hạc: “QLGD là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ
vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được
các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học – giáo dục là quá trình giáo dục – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ
giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.
Qua đó ta thấy có nhiều quan niệm về QLGD dưới các góc độ tiếp
cận khác nhau, song có thể hiểu bản chất của QLGD là vận hành các hoạt
động giáo dục đạt tới mục tiêu đã định. QLGD là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác GD - ĐT theo yêu cầu
phát triển của xã hội. QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống giáo dục
vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được
các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tâm điểm chính là quá
trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, nhằm đạt được những mục tiêu đã định.
Từ đó có thể hiểu: QLGD là hệ thống những tác động có mục đích,
có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý tới đối tượng quảnn lý
trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân,
các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17




QLGD có những đặc trưng sau:
Sản phẩm của giáo dục là một loại sản phẩm đặc biệt đó chính là
nhân cách của người được đào tạo, nên QLGD phải ngăn ngừa sự dập
khuôn, máy móc trong việc tạo ra sản phẩm, cũng như không được phép
tạo ra những phế phẩm.
QLGD nói chung và quản lý nhà trường nói riêng phải chú ý đến sự
khác biệt giữa đặc điểm lao động sư phạm của đội ngũ giáo viên với những
đặc điểm lao động xã hội khác
Trong QLGD thì các hoạt động quản lý hành chính nhà nước và hoạt
động quản lý chuyên môn trong dạy học luôn đan xen lẫn nhau không thể
tách rời, mà nó tạo thành hoạt động QLGD thống nhất.
QLGD phải đảm bảo các yêu cầu về tính toàn diện, tính thống nhất,
tính liên tục, tính kế thừa, tính ổn định và phát triển…
QLGD là quá trình vận dụng những nguyên lý, phương pháp khái
niệm chung nhất của kế hoạch vào lĩnh vực giáo dục.
QLGD là những tác động có chủ định của chủ thể QLGD đến đối
tượng quản lý nhằm đạt đến những mục tiêu đã xác định.
Cấu trúc của hệ thống QLGD gồm:
Chủ thể QLGD: Là trung tâm thực hiện có tác động hướng đích,
trung tâm ra quyết định điều hành và kiểm tra hoạt động của toàn hệ thống.
Chủ thể QLGD là cán bộ ngành giáo dục, các nhà giáo có kinh nghiệm và
có năng lực lãnh đạo được chuyên môn hoá trong lao động với tư cách là
các nhân hay một tập thể.
Đối tượng QLGD: Là những khách thể chịu sự tác động của chủ thể

quản lý và được biến đổi dưới những tác động đó một cách phù hợp với ý
chí của tập thể, phù hợp với quy luật khách quan và mục tiêu mà chủ thể
quản lý đặt ra. Đối tượng QLGD bao gồm các nguồn nhân lực, cơ sở vật
chất kỹ thuật của GD - ĐT và các hoạt động liên quan đến việc thực hiện
chức năng của GD - ĐT.
Cơ chế QLGD; là phương thức thể hiện sự tác động qua lại giữa chủ
thể QLGD và đối tượng QLGD. Cơ chế này bao gồm cơ chế chính thức và
cơ chế không chính thức. Cơ chế chính thức là những quy định thành văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18




bản mang tính pháp lý được thực hiện duy trì quan hệ giữa chủ thể và đối
tượng. Cơ chế không chính thức là những quy định không thành văn bản
nhưng vẫn được quản lý nhằm duy trì quan hệ giữa chủ thể và đối tượng
quản lý như truyền thống, phong phục, tập quán, tồn tại hoặc ảnh hưởng
đến hệ thống QLGD.
1.2.5.2. Quản lý GDTX:
GDTX thuộc hệ thống giáo dục quốc dân nên chịu sự quản lý Nhà
nước trực tiếp từ Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hệ thống phân cấp quản lý tổ
chức thực hiện từ trung ương đến cơ sở như sau:
- Quản lý nhà nước cấp trung ương: Bộ Giáo dục và Đào tạo thông
qua Vụ GDTX.
- Cấp tỉnh (thành phố) và tương đương: Sở Giáo dục và Đào tạo
thông qua Phòng GDTX hoặc Phòng giáo dục chuyên nghiệp. Các phòng
(bộ phận) GDTX thuộc các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề.
- Cấp huyện TTGDTX hoặc bộ phận GDTX thuộc Phòng Giáo dục.

- Cấp xã (phường) cán bộ chuyên trách GDTX, giáo viên phổ cập
giáo dục, trung tâm học tập cộng đồng.
Ngoài hệ thống tổ chức nêu trên, GDTX còn được thực hiện bởi
mạng lưới trung tâm dạy nghề từ trung ương đến cơ sở: Trung tâm giáo dục
hướng nghiệp và dạy nghề Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm dạy nghề
các tỉnh (thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo), Trung tâm dạy nghề huyện (thuộc
Uỷ Ban nhân dân huyện, Phòng Giáo dục và đào tạo).
Điều 46 Luật Giáo dục năm 2005 ghi rõ: Cơ sở GDTX bao gồm:
a. TTGDTX đƣợc tổ chức tại cấp tỉnh và cấp huyện.
b. Trung tâm học tập cộng đồng đƣợc tổ chức tại các xã, phƣờng,
thị trấn. Chƣơng trình GDTX còn đƣợc thực hiện tại trƣờng phổ thông,
trƣờng trung học chuyên nghiệp, cơ sở dạy nghề, trƣờng cao đẳng,
trƣờng đại học và thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng.
Chức năng, nhiệm vụ của TTGDTX:
TTGDTX là cơ sở giáo dục không chính quy trong hệ thống giáo dục
Quốc dân. Theo quy chế về tổ chức và hoạt động của TTGDTX ban hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19




theo Quyết định số 01/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 02/10/2007 thì TTGDTX
có chức năng và nhiệm vụ sau đây:
+ Chức năng của TTGDTX:
Tổ chức các hoạt động giáo dục: Tạo cơ hội học tập nhằm thoả mãn
nhu cầu học tập đa dạng, phong phú của mọi người, trong đó có những
người không có điều kiện tiếp tục học ở các trường lớp chính quy.
Tư vấn của GDTX: Với chức năng này TTGDTX quận, huyện sẽ gợi

ý cho các nhà quản lý giáo dục cấp quận, huyện để tổ chức một hệ thống
giáo dục có chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở nghiên cứu các phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội ở địa phương; điều tra, phát hiện các nhu cầu học tập của từng loại
đối tượng người học, TTGDTX đề xuất với cơ quan quản lý giáo dục về kế
hoạch tổ chức, phương pháp, nội dung, thời gian học đối với từng loại đối
tượng.
+ Nhiệm vụ của TTGDTX:
Tổ chức thực hiện các chương trình giáo dục.
Chương trình xoá mù chữ và giáo dục sau khi biết chữ.
Chương trình giáo dục đáp ứng yêu câù của người học, cập nhật kiến
thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ.
Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nhiệm vụ bao gồm: Chương trình bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học ứng dụng
công nghệ, thông tin truyền thông; chương trình đào tạo bồi dưỡng nâng
cao nghiệp vụ, chương trình dạy tiếng dân tộc thiểu số cho cán bộ, công
chức tại vùng dân tộc, miền núi theo kế hoạch hàng năm của địa phương.
Chương trình giáo dục thường xuyên cấp THCS và THPH:
+ Điều tra nhu cầu học tập trên địa bàn, xác định nội dung học tập,
đề xuất với Sở Giáo dục Đào tạo, chính quyền địa phương việc tổ chức các
chương trình và hình thức phù hợp với từng loại đối tượng.
+ Tổ chức các lớp học theo chương trình GDTX, THCS và THPH
quy định tại điểm d khoản 1 điều này dành riêng cho các đối tượng được
hưởng chính sách xã hội, người tàn tật… theo kế hoạch hàng năm của địa
phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20





×