Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Phân tích chuỗi cung ứng lúa gạo huyện hải hậu – nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 114 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được dùng để bảo vệ
một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin được trích dẫn trong luận văn đều
được ghi rõ nguồn gốc.
Sinh viên

Lê Thị Phương

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt báo cáo tốt nghiệp ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các tập thể, các nhân
trong và ngoài trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, vì thế:
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các Thầy cô giáo trong khoa
Kinh tế và Phát triển nông thôn, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, đặc biệt là
các Thầy cô trong bộ môn Phân tích định lượng, những người đã truyền đạt cho tôi
những kiến bổ ích và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận
này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo ThS. Đỗ
Trường Lâm, người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết và tận tình hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tập thể, cán bộ trong UBND huyện Hải
Hậu – Nam Định, UBND các xã: Hải Giang, Hải Thanh, Hải Hà, Hải Trung và
người dân trên địa bàn xã cung cấp cho tôi những số liệu cần thiết và tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập tại địa bàn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn
bên cạnh, động viên giúp đỡ tôi về mặt vật chất cũng như tinh thần để tôi có thể


hoàn thành báo cáo của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng
Sinh viên

Lê Thị Phương

2

năm


3


4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TĂT
BVTV
ĐBSCL
ĐBSH
DHBTB
DHNTB
DT
GO
GPr
HTX

IC
KHKTNN
LG
MI
MNTDPB
NBB
NBL
NS
NSX
NTD
NTG
SL
Trđ
VA
Vnđ

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

Bảo vệ thực vật
Đồng bắng Sông Cửu Long
Đồng bằng Sông Hồng
Duyên Hải Bắc Trung Bộ
Duyên Hải Nam Trung Bộ
Diện tích
Giá trị sản xuất
Lãi gộp
Hợp tác xã
Chi phí trung gian
Khoa học kỹ thuật nông nghiệp
Công lao động
Thu nhập hỗn hợp
Miền núi trung du phía bắc
Người bán buôn
Người bán lẻ
Năng suất
Người sản xuất
Người tiêu dùng

Người thu gom
Sản lượng
Triệu đồng
Giá trị gia tăng
Việt nam đồng

5


PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết
Sản xuất lúa gạo đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế
nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Khoảng 80% trong số tổng số 11 triệu hộ
nông dân có tham gia sản xuất lúa gạo và chủ yếu dựa vào phương thức canh tác thủ
công truyền thống. Trong gần ba thập kỷ qua nhờ có sự đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế nên Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn trong sản xuất lúa gạo. Năm
2005, tổng sản lượng lúa của cả nước ước đạt khoảng 35.6 triệu tấn, tăng hơn
100.000 tấn so với năm 2004. Cũng vào năm này, Việt Nam đã xuất khẩu được
5254,8 triệu tấn gạo (Tổng cục thống kê, 2005), bình quân mỗi năm xuất khẩu từ 3
– 4 triệu tấn gạo.
Mặc dù sản xuất lúa gạo ngày càng phát triển, nông nghiệp ngày càng đi lên,
thế nhưng điều nghịch lý ở đây là đời sống của người nông dân vẫn chưa được cải
thiện nhiều. Theo tác giả Pham Quang Diệu (AGROINFO) “Chỉ có người nông dân
là gánh chịu rủi ro nhiều nhất, khi giá gạo tăng giá lúa không tăng cùng nhịp, không
được hưởng lợi một cách công bằng trong toàn bộ chuỗi giá trị, khi giá giảm thì giá
lúa giảm cùng nhịp, hàng tồn kho khó tiêu thụ, chịu lãi vay…” Như vậy khi giá lúa
gạo tăng hay giảm thì người nông dân lại là người chịu thiệt và chịu thiệt lớn nhất.
Người nông dân phải sống chật vật với nông nghiệp, phải họ rời bỏ quê để ra thành
thị làm thuê. Để nâng cao đời sống cho người nông dân sản xuất nông nghiệp nói

chung và sản xuất lúa gạo nói riêng cần phân tích chi phí và lợi nhuận trong chuỗi
cung ứng lúa gạo, việc phân bổ lao động cho từng tác nhân tham gia trong chuỗi để
mọi người để được hưởng lợi như nhau.
Hiện nay, việc nghiên cứu chuỗi cung ứng lúa gạo đang được rất nhiều cá
nhân, tổ chức quan tâm thế nhưng đến nay vẫn chưa có một nghiên cụ thể nào về
chuỗi cung ứng lúa gạo ở Việt Nam mà chỉ có một số phân tích nhỏ về chuỗi giá trị
xuất khẩu gạo. Nói đến chuỗi là nói đến năng lực cạnh tranh của cả ngành hàng liên
quan đến nhiều dịch vụ, hoạt động. Chuỗi cung ứng lúa gạo không chỉ liên quan đến

6


người nông dân trồng lúa mà nó bao gồm tất cả các hoạt động của các tác nhân
tham gia trong chuỗi như: người nông dân sản xuất lúa, người thu gom lúa, cơ sở
xay xát, bán buôn, bán lẻ, các công ty thu mua lương thực ngoài ra còn có người
cung ứng dịch vụ đầu vào cho nông dân. Chúng ta cần phân tích từng điểm yếu
trong hệ thống chuỗi đó là gì để có các biện pháp cải thiện năng lực cạnh tranh toàn
chuỗi, nâng cao mức sống của người nông dân nghèo.
Hải Hậu – Nam Đinh là huyện có nền kinh tế khá đa dạng, gồm nông nghiệp,
đánh bắt và chăn nuôi thủy hải sản, thủ công mỹ nghệ, làm muối, cây cảnh và du
lịch. Hải Hậu còn được coi là một trong những vùng lúa của Nam Định cũng như
vùng đồng bằng sông Hồng. Hải Hậu khá nổi tiếng với gạo tám, nếp hương, dự…
cung ứng phần lớn cho người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh. Người nông dân Hải
Hậu nhiều kinh nghiệm trong sản xuất lúa gạo. Thế nhưng cũng giống với thực
trạng của sản xuất lúa gạo nói chung, cuộc sống người nông dân ở đây vẫn còn
nghèo chưa được cải thiện nhiều từ việc trồng lúa. Việc phân tích hoạt động, chi phí
và lợi nhuận của các tác nhân tham gia trong chuỗi cung ứng nhằm phân bổ lại lợi
nhuận cho hợp lý nâng cao hoạt động của chuỗi.
Xuất phát từ những thực trạng trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Phân
tích chuỗi cung ứng lúa gạo huyện Hải Hậu – Nam Định”.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích thực trạng chuỗi cung ứng lúa gạo huyện Hải Hậu –
Nam Định, đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng gạo từ đó đề xuất một
số giải pháp nhằm hoàn thiện chuỗi cung ứng.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
 Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về chuỗi cung ứng,
chuỗi cung ứng gạo.
 Phân tích thực trạng chuỗi cung ứng gạo huyện Hải Hậu – Nam Định.
 Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng gạo huyện Hải Hậu –
Nam Định

7


 Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chuỗi cung ứng gạo huyện Hải
Hậu – Nam Đinh
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài hoạt động của chuỗi cung ứng gạo như sản
xuất, thu gom, vận chuyến, bán buôn, bán lẻ…
 Chủ thể nghiên cứu bao gồm các tác nhân trong chuỗi cung ứng bao gồm các
tác nhân tham gia ngành hàng như : người sản xuất, người thu gom, người
xay xát, người bán buôn và bán lẻ.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
 Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên toàn huyện Hải Hậu –
Nam Định.
 Phạm vi về thời gian: Đề tài được tiến hành từ Tháng 1/2009 đến tháng
5/2010, Số liệu điều tra bằng bảng hỏi dự kiến điều tra một lần vào đầu năm
2010 để lấy số liệu năm 2008 – 2009 nhằm phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

 Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu các hoạt động, chi phí lợi nhuận của
các tác nhân tham gia trong chuỗi cung ứng gạo huyện Hải Hậu – Nam Định.
1.4 Câu hỏi nghiên cứu
• Những tác nhân nào tham gia chuỗi cung ứng gạo
• Lợi ích (VA, việc làm) của các tác nhân như thế nào?
• Xác định giá bán, lượng hàng và thông tin giữa các tác nhân?
• Làm thế nào nhằm để phân phối lợi ích giữa các tác nhân tham gia trong
chuỗi cho phù hợp?
• Cần làm gì để giảm bớt chi phí không cần thiết trong chuỗi cung ứng?
• Những yếu tố nào ảnh hưởng hoạt động của chuỗi cung ứng?
1.5 Giả thuyết nghiên cứu
• Những tác nhân trung gian có khối lượng sản phẩm lớn và thông tin đầy đủ
sẽ thu được nhiều lợi nhuận trong chuỗi
• Giảm bớt chi phí trong chuỗi cung ứng làm giảm sự chênh lệch giá giữa
người sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng.

8


• Giảm bớt trung gian hoạt động kém hiệu quả trong chuỗi sẽ giảm chi phí
trong chuỗi cung ứng.
• Các dòng chảy sản phẩm, các dòng chảy thông tin nhanh, đầy đủ, chính xác;
các mối liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi chặt chẽ giúp cho chuỗi hoạt
động hiệu quả hơn.

9


PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Chuỗi cung ứng
a) Nguồn gốc chuỗi cung ứng
Chuỗi cung ứng là một giai đoạn phát của lĩnh vực Logistics (hậu cần). Ban
đầu, logistics được sử dụng như một từ chuyên môn trong quân đội, được hiểu với
nghĩa là công tác hậu cần. Đến cuối thế kỷ 20, Logistics được ghi nhận như là một
chức năng kinh doanh chủ yếu, mang lại thành công cho các công ty cả trong khu
vực sản xuất lẫn trong khu vực dịch vụ. Ủy ban kinh tế và xã hội châu Á Thái Bình
Dương (Economic and Social Commission for Asia and the Pacific – ESCAP) ghi
nhận Logistics đã phát triển qua ba giai đoạn:
 Giai đoạn 1: Phân phối (Distribution)
Đó là quản lý một cách có hệ thống các hoạt động liên quan với nhau nhằm
đảm bảo cung cấp sản phẩm, hàng hóa cho khách hàng một cách hiệu quả nhất. Giai
đoạn này bao gồm các hoạt động nghiệp vụ sau: Vận tải, phân phối, bảo quản hàng
hóa, quản lý kho bãi, bao bì, nhãn mác, đóng gói.
 Giai đoạn 2: Hệ thống Logistics
Giai đoạn này có sự phối kết hợp công tác quản lý của cả hai mặt trên vào
cùng một hệ thống có tên là Cung ứng vật tư và Phân phối sản phẩm.
 Giai đoạn 3: Quản trị dây chuyền cung ứng
Theo ESCAP thì đây là khái niệm mang tính chiến lược về quản trị chuỗi
quan hệ từ nhà cung cấp nguyên liệu – đơn vị sản xuất – đến người tiêu dùng. Khái
niệm quản trị dây chuyền chú trọng việc phát triển các mối quan hệ với đối tác, kết
hợp chặt chẽ giữa nhà sản xuất với nhà cung cấp, người tiêu dùng và các bên liên
quan như các công ty vận tải, kho bãi, giao nhận và các công ty công nghệ thông
tin.
b) Cấu trúc chuỗi cung ứng

10



Một dây truyền cung ứng sản xuất tối thiểu gồm 3 yếu tố: nhà cung cấp, bản
thân đơn vị sản xuất và khách hàng.
Nhà cung cấp là các công ty bán sản phẩm, dịch vụ là nguyên liệu đầu vào
cần thết cho quá trình sản xuất, kinh doanh. Thông thường, nhà cung cấp được hiểu
là đơn vị cung cấp nguyên liệu trực tiếp như vật liệu thô, các chi tiết của sản phẩm,
bán thành phẩm.
Đơn vị sản xuất là nơi sử dụng nguyên liệu, dịch vụ đầu vào, áp dụng các
quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Các nghiệp vụ về quản lý sản xuất
được sử dụng tối đa tại đây nhằm tăng hiệu quả, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo
nên sự thông suốt của dây chuyền cung ứng.
Khách hàng là người sử dụng sản phẩm của đơn vị sản xuất.
c) Khái niệm chuỗi cung ứng
Nói đến chuỗi cung ứng là nói đến tất cả mạng lưới gồm các tổ chức có liên
quan, thông qua các mối liên kết phía trên và phía dưới, trong các quá trình và hoạt
động khác nhau, sản sinh ra giá trị dưới hình thức sản phẩm dịch vụ trong tay người
tiêu dùng cuối cùng. Đã có nhiều quan niệm khác nhau về chuỗi cung ứng.
Theo Lee & Billington (1995) thì chuỗi cung ứng là mạng lưới các phương
tiện phục vụ thu mua nguyên vật liệu thô, chuyển hóa chúng thành những sản phẩm
trung gian, tới sản phẩm cuối cùng và giao sản phẩm đó tới khách hàng thông qua
hệ thống phân phối. Chuỗi cung ứng được thể hiện theo sơ đồ sau:
Nhà cung ứng
Hàng tồn kho

Nhà sản
xuất

Khách hàng
Hàng tồn kho
Khách hàng
Hàng tồn kho


Nhà cung ứng

Hàng tồn kho

Nhà sản
xuất

Khách hàng
Hàng tồnkho

Sơ đồ 2.1 Chuỗi cung ứng (Nguồn: Lee & Billington, 1995)

11


Chuỗi cung ứng là sự liên kết của các công ty để mang những sản phẩm và
dịch vụ cho thị trường (người trích dẫn Michael hugos, 2003).
Chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các hoạt động liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Chuỗi cung ứng không chỉ bao gồm các
nhà sản xuất, các nhà cung cấp mà còn có những người vận chuyển, hệ thống kho
bảo quản, những nhà bán lẻ và cả khách hàng (nguồn: Chopra & Meindl, 2001).
Chuỗi cung ứng là mạng lưới của các phương tiện, cách lựa chọn phân phối
nhằm thực hiện chức năng thu mua nguyên vật liệu, biến đổi chúng thành các sản
phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng, phân phối những sản phẩm cuối cùng đó
tới khách hàng (nguồn: Ganeshan & Harrison, 1995).
Chuỗi cung ứng là môi trường nơi dòng sản phẩm, dịch vụ, thông tin di
chuyển từ nhà cung ứng đầu tiên tới khách hàng cuối cùng và ngược lại (nguồn:
David Sharpe, 2008).
Theo Christopher (1998), chuỗi cung ứng là mạng lưới của các tổ chức liên

quan trực tiếp và gián tiếp tới những quy trình và hoạt động khác nhau nhằm
chuyển giá trị của sản phẩm, dịch vụ tới khách hàng cuối cùng.
Chuỗi cung ứng là mạng lưới của các tổ chức, con người, công nghệ các
hoạt động, thông tin và nguồn lực tham gia vào việc di chuyển sản phẩm dịch vụ từ
các nhà cung cấp tới khách hàng (Từ điển bách khoa toàn thư).
Trong cuốn “The practice of supply chain management: where theory and
application convergy”, tác giả Terry P. Harrison đã định nghĩa chuỗi cung ứng như
sau:
“Chuỗi cung ứng là sự tạo lập chuỗi giá trị thông qua sự kết nối hoạt động
từ các nhà cung cấp của công ty tới những khách hàng của công ty. Cơ sở các hoạt
động của chuỗi cung ứng thể hiện:
Tiếp nhận đầu vào từ các nhà cung cấp → tạo lập giá trị → phân phối sản
phẩm, dịch vụ tới khách hàng”
Chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các doanh nghiệp tham gia, một cách trực
tiếp hay gián tiếp trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng ( giáo trình quản trị chuỗi
cung ứng).

12


Như vậy, chuỗi cung ứng là một hệ thống phức tạp nhưng có mối liên kết
chặt chẽ giữa các thành viên trong việc tạo ra và phân phối các sản phẩm hoàn
chỉnh nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Do đó, nó trở thành chìa khóa tạo
nên sự khác biệt tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
2.1.2 Quản trị chuỗi cung ứng
Sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ và sẵn sàng cung ứng chúng cho khách
hàng đòi hỏi việc xây dựng những mối quan hệ không chỉ với khách hàng, mà còn
với cá nhà cung ứng và những nhà bán lại quan trọng trong chuỗi cung ứng của
công ty. Chuỗi cung ứng này bao gồm những những đối tác tuyến trước và tuyến
sau, bao gồm các nhà cung ứng, các trung gian và thậm chí các khách hàng của các

trung gian. Vì vậy quản trị chuỗi cung ứng là quản lý tất cả các hoạt động dịch vụ,
tác nhân tham gia trong chuỗi cung ứng.
Quản trị chuỗi cung ứng là việc kiểm soát vật tư, thông tin, và tài chính trong
quá trình các yếu tố này dịch chuyển từ nhà cung ứng đến người sản xuất đến người
tiêu dùng cuối cùng. Quản trị chuỗi cung liên quan đến việc điều phối và hợp nhất
các dòng dịch chuyển này bên trong một doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp
với nhau. Mục đích quan trọng nhất của các hệ thống quản trị chuỗi cung ứng nhằm
làm giảm số lượng hàng hóa lưu kho.
Michael hugos trong cuốn “Essential of supply chain management” định
nghĩa quản lý chuỗi cung ứng là sự phối hợp của sản xuất, tồn kho, địa điểm và vận
chuyển giữa các thành viên trong chuỗi cung ứng nhằm đáp ứng nhanh và hiệu quả
các nhu cầu của thị trường.Không chỉ bao gồm các hoạt động như thu mua, phân
phối, bảo trì, quản lý tồn kho mà chuỗi cung ứng có marketting, phát triển sản phẩm
mới, tài chính và dịch vụ khách hàng.
Cũng có những định nghĩa khác nhau như quản trị chuỗi cung ứng là việc kết
hợp một cách hệ thống, chiến lược các chức năng kinh doanh truyền thống và sách
lược giữa các chức năng kinh doanh đó trong phạm vi một công ty và giữa các công
ty trong chuỗi cung ứng nhằm mục đích cải thiện kết quả lâu dài của từng công ty
và toàn bộ chuỗi cung ứng (Mebtzer và cộng sự, 2001).

13


Theo Hartmurt và Christoph quản trị chuỗi cung ứng là chiến thuật kết hợp
các tổ chức đơn vị dọc chuỗi cung ứng và phối hợp dòng nguyên vật liệu, thông tin
và tài chính nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng cũng như tăng cường tính cạnh
tranh của chuỗi cung ứng.
Theo TS.Hau Lee và Billington, quản trị chuỗi cung ứng là việc tích hợp các
hoạt động xảy ra ở các cơ sở của mạng lưới nhằm tạo ra nguyên vật liệu, dịch
chuyển chúng vào sản phẩm trung gian và sau đó đến sản phẩm hoàn thành cuối

cùng, và phân phối sản phẩm đến khách hàng thông qua hệ thống phân phối.
Quản trị chuỗi cung ứng là việc quản lý cung và cầu, xác định nguồn nguyên
vật liệu và chi tiết, sản xuất và lắp ráp, kiểm tra kho hàng và tồn kho, tiếp nhận đơn
đặt hàng và quản lý đơn đặt hàng, phân phối qua các kênh và phân phối đến khách
hàng cuối cùng (Supply chain council).
Quản trị chuỗi cung ứng là tập hợp những phương thức sử dụng một cách
tích hợp và hiệu quả nhà cung cấp, người sản xuất, hệ thống kho bãi và cửa hàng
nhằm phân phối hàng hóa được sản xuất đúng địa điểm, đúng lúc và đúng yêu cầu
về chất lượng, với mục đích giảm thiểu chi phí toàn hệ thống trong khi vẫn thỏa
mãn những yêu cầu về mức độ phục vụ.
Như vậy, muốn quản trị chuỗi cung ứng thành công cần tiếp cận chuỗi cung
ứng như là một thực thể thống nhất, là tập hợp của các hoạt động khác nhau, của
các công ty khác nhau trong việc cung ứng các sản phẩm tới khách hàng.
Tóm lại, quản trị chuỗi cung ứng là sự phối hợp các hoạt động trong chuỗi
cung ứng một cách hiệu quả trên toàn hệ thống trong việc thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng.
2.1.3 Chuỗi giá trị
a) Chuỗi giá trị
Một chuỗi giá trị là một cách tiếp cận hệ thống đối với phát triển kinh tế.
Một chuỗi giá trị là một hệ thống kinh tế bao gồm các nhà vận hành chuỗi, các nhà
cung cấp dịch vụ vận hành và sự liên kết kinh doanh của họ ở các cấp độ vi mô,
đồng thời, bao gồm các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ ở cấp trung. Tất cả các nhà vận
hành đang tạo thêm giá trị cho một sản phẩm cụ thể nào đó trên thị trường theo cách

14


của họ - từ nguyên liệu thô cho đến khi sản phẩm tới tay người tiêu dùng cuối cùng
– đều được coi là một phần của chuỗi giá trị. Đường ranh giới hệ thống của chuỗi
giá trị được xác định bởi sản phẩm cuối cùng và bản thân chuỗi giá trị đã bao gồm

các nhà sản xuất và các doanh nghiệp thực hiện những chức năng cần thiết để đưa
sản phẩm ra thị trường.
Theo Michael Poter chuỗi giá trị là chuỗi của các hoạt động từ khâu đầu tiên
đến khâu cuối cùng của sản phẩm bao gồm các hoạt động chính và các hoạt động bổ
trợ để tạo nên lợi thế cạnh tranh của sản phẩm. Theo đó khi đi qua lần lượt các hoạt
động của chuỗi mỗi sản phẩm nhận được một số giá trị. Các hoạt động chính là các
hoạt động liên quan đến việc chuyển đổi về mặt vật lý, quản lý sản phẩm cuối cùng
để cung cấp cho khách hàng. Các hoạt động bổ trợ nhằm hỗ trợ cho các hoạt động
chính.
Theo Cẩm nang ValueLinks Phương pháp luận để thúc đẩy chuỗi giá trị
( GTZ Eschborn, 2007) định nghĩa về chuỗi giá trị như sau
Một chuỗi giá trị là một hệ thống kinh tế có thể được mô tả như:
• Một chuỗi các hoạt động kinh doanh có liên quan mật thiết với nhau (các
chức năng) từ khi mua các đầu vào cụ thể dành cho việc sản xuất sản phẩm
nào đó, đến việc hoàn chỉnh và quảng cáo, cuối cùng là bán thành phẩm cho
người tiêu dùng.
• Cá doanh nghiệp (nhà vận hành) thực hiện những chức năng này, ví dụ như:
nhà sản xuất, người chế biến, thương gia, nhà phân phối một số sản phẩm cụ
thể. Các doanh nghiệp này được liên kết với nhau bởi một loạt các hoạt động
kinh doanh, trong đó, sản phẩm được chuyển từ các nhà sản xuất ban đầu
đến người tiêu dùng cuối cùng.
• Một mô hình kinh doanh đối với một sản phẩm thương mại cụ thể. Mô hình
kinh doanh này cho phép các khách hàng cụ thể được sử dụng một công
nghệ cụ thể và là một cách điều phối đặc biệt giữa hoạt động sản xuất và
marketing giữa nhiều nhà doanh nghiệp.
Một chuỗi các hoạt động từ cung cấp các dịch vụ đầu vào cho một sản phẩm
cụ thể cho đến sản xuất, thu hái, chế biến, phân phối và tiêu thụ cuối cùng đối với

15



một sản phẩm cụ thể và được hình thành theo nhu cầu của thị trường. Nó là sự sắp
xếp có tổ chức, hợp tác và điều phối giữa người sản xuất, nhà chế biến, các thương
gia, và nhà phân phối liên quan đến một sản phẩm. Chuỗi giá trị là một mô hình thể
chế kinh tế trong đó kết hợp việc chọn lựa sản phẩm và công nghệ thích hợp cùng
với cách thức tổ chức các tác nhân liên quan đến tối ưu hóa giá trị. Như vậy chuỗi
giá trị là một dạng đặc biệt của ngành hàng hay chuỗi cung ứng và chú ý đến sự
phân phối lợi nhuận hợp lý giữa các tác nhân.
b) Phân biệt giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng
Khái niệm cơ bản của chuỗi cung cũng tương tự như chuỗi giá trị. Sự khác
biệt là ở chỗ chuỗi cung nói đến một loạt các chức năng sản xuất (đầu chuỗi) và
marketing (cuối chuỗi) của các doanh nghiệp tư nhân, chủ yếu là công ty đầu mối.
Do đó, quản lý chuỗi cung là một công cụ quản lý kinh doanh hơn là một phần khái
niệm phát triển. Chuỗi cung ứng quan tâm đến các vấn đề hậu cần hơn là việc phát
triển thị trường.
2.1.4 Đặc điểm của chuỗi cung ứng
Chuỗi cung ứng được cấu tạo bởi 5 thành phần cơ bản, các thành phần này là
các nhóm chức năng khác nhau và cùng nằm trong dây chuyền cung ứng: Sản xuất,
vận chuyển, tồn kho, định vị, thông tin.
Sản xuất là khả năng tạo ra và lưu trữ sản phẩm của chuỗi cung ứng. Phần
xưởng, nhà kho là cơ sở vật chất, trang thiết bị chủ yếu của thành phần này. Trong
quá trình sản xuất, các nhà quản trị thường phải đối mặt với vấn đề cân bằng giữa
khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng và hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp.
Vận chuyển là bộ phận đảm nhiệm công việc vận chuyển nguyên vật liệu,
cũng như sản phẩm giữa các nơi trong dây chuyền cung ứng. Ở đây, sự cân bằng
giữa khả năng đáp ứng nhu cầu và hiệu quả công việc được biểu thị trong việc lựa
chọn phương thức vận chuyển.
Tồn kho là việc hàng hóa được sản xuất ra tiêu thụ như thế nào. Chính yếu tố
tồn kho sẽ quyết định doanh thu và lợi nhuận của công ty bạn. Nếu tồn kho ít tức là
sản phẩm của bạn được sản xuất ra bao nhiêu sẽ tiêu thụ hết bao nhiêu, từ đó chứng

tỏ hiệu quả sản xuất của công ty bạn ở mức cao và lợi nhuận đạt mức tối đa.

16


Định vị là việc tìm kiếm các nguồn nguyên vật liệu sản xuất ở đâu? Nơi nào
là địa điểm tiêu thụ tốt nhất? Đây chính là những yếu tố quyết định sự thành công
của dây chuyền cung ứng. Định vị tốt sẽ giúp quy trình sản xuất được tiến hành một
cách nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Về thông tin: Những thông tin gì cần được thu thập? Thông tin gì nên chia
sẻ? Thông tin càng nhanh, càng chính xác sẽ giúp cho các thành viên trong chuỗi
đưa ra những quyết định phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau.
Trả lời những câu hỏi này, các công ty trong chuỗi cung ứng sẽ đưa ra những
quyết định ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của toàn chuỗi. Tuy nhiên để trả lời
được những câu hỏi trên, các doanh nghiệp tham gia chuỗi phải ý thức rõ thị trường
mà họ phục vụ cũng như đối tượng khách hàng mà họ hướng tới. Sự năng động của
chuỗi cung ứng trong việc nắm bắt những tín hiệu thị trường sẽ giúp cho việc thỏa
mãn những nhu cầu khách hàng nhanh chóng hơn và hiệu quả hơn.
Tùy từng giai đoạn các công ty có những mục tiêu khác nhau, thậm chí mâu
thuẫn nhau. Nhưng xét cho cùng, bất kỳ công ty nào cũng theo đuổi mục tiêu lợi
nhuận, chuỗi cung ứng cũng theo đuổi mục tiêu lợi nhuận của toàn chuỗi. Lợi
nhuận của chuỗi cung ứng là tổng lợi nhuận được chia sẻ cho các thành viên xuyên
suốt chuỗi chứ không chỉ ở một giai đoạn riêng lẻ nào trong chuỗi. Nguồn tạo ra lợi
nhuận của chuỗi cung ứng là từ các khách hàng cuối cùng. Điều này cũng làm sáng
tỏ hơn cho câu hỏi tại sao cần tiếp cận quản lý chuỗi cung ứng một cách hệ thống.
Một chuỗi cung ứng có nhiều thành viên tham gia. Chuỗi cung ứng đơn giản
nhất bao gồm công ty, các nhà cung cấp và các khách hàng của công ty.
Nhà cung cấp

Công ty


Khách hàng

Sơ đồ 2.2: Chuỗi cung ứng giản đơn (Micheal Hugos, 2003)
Chuỗi cung ứng mở rộng ngoài ba thành viên trên còn có thêm bà thành viên
khác đó là nhà cung cấp của các nhà cung cấp, khách hàng của khách hàng, và toàn
bộ các công ty cung cấp dịch vụ cho các công ty trong chuỗi cung ứng. Các công ty
cung cấp dịch vụ này sẽ cung cấp dịch vụ hậu cần, tài chính, tìm hiểu thị trường,

17


thiết kế sản phẩm và công nghệ thông tin cho các công ty khác trong chuỗi cung
ứng.
Nhà cung
ứng chuỗi

Nhà sản
xuất

Công ty

Nhà cung cấp
dịch vụ

Khách
hàng

Khách
hàng cuối

cùng

Dịch vụ cung cấp thuộc
các lĩnh vực như:
- Hậu cần
- Tài chính
- Nghiên cứu thị trường
- Thiết kế sản phẩm
- Công nghệ thông tin

Sơ đồ 2.3: Chuỗi cung ứng mở rộng (Micheal Hugos, 2003)
Cụ thể hơn, dọc theo một chuỗi cung ứng bắt đầu từ các công ty. Các công ty
này chính là nhà sản xuất, chế biến, phân phối, nhà bán lẻ, khách hàng và khách
hàng của khách hàng.
Nhà sản xuất

Nhà phân phối

Nhà bán lẻ

Khách hàng

Sơ đồ 2.4: Thành viên chuỗi cung ứng (Micgeal Hugos, 2003)
Nhà sản xuất: Nhà sản xuất, chế biến là các công ty làm ra sản phẩm . Nhà
sản xuất ở đây gồm các nhà sản xuất ra nguyên vật liệu (nhà cung ứng nguyên vật
liệu) và nhà sản xuất ra sản phẩm.
Nhà phân phối: là các cá nhân, công ty mua lượng lớn sản phẩm từ các nhà
sản xuất và bán các sản phẩm đó. Họ chịu trách nhiệm phân phối sản phẩm đến tay
khách hàng khi họ muốn và đến nơi họ cần. Đây là thành viên gần gũi với khách
hàng, nắm bắt, theo dõi nhu cầu của khách hàng. Không chỉ thực hiện những chiến

dịch khuyến mại, các nhà phần phối còn thực hiện các chức năng như quản lý vận

18


hành các kho hàng, vận chuyển các sản phẩm, hỗ trợ khách hàng và dịch vụ khách
hàng.
Nhà bán lẻ: thực hiện chức năng dữ trữ sản phẩm và bán các sản phẩm với
lượng bán nhỏ hơn. Đây là thành viên gần gũi với khách hàng nhất (khách hàng
cuối cùng). Tổng hợp những thông tin về khách hàng từ nhà bán lẻ sẽ giúp những
nhà phân phối cũng như các công ty nắm bắt tốt hơn những nhu cầu của khách hàng
trên thị trường.
Khách hàng: Là những đối tượng mua các sản phẩm của công ty. Một khách
hàng có thể mua sản phẩm của công ty và bán cho khách hàng khác và sử dụng nó.
Nhà cung cấp dịch vụ: có chức năng cung cấp các dịch vụ cho các nhà sản
xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ, khách hàng. Sự xuất hiện của các nhà cung cấp
dịch vụ trên chuỗi cung ứng sẽ làm các hoạt động hiệu quả hơn bởi đôi khi những
dịch vụ mà những nhà cung cấp cung ứng có mức giá thấp hơn hẳn so với việc các
thành viên của chuỗi tự làm.
Như vậy, ranh giới của một chuỗi cung ứng rất linh hoạt, ranh giới của một
chuỗi cung ứng kéo dài từ nhà sản xuất (nhà sản xuất nguyên vật liệu) tới khách
hàng của khách hàng của họ.
Có ba dòng chảy xuyên suốt toàn chuỗi cung ứng. Đó là dòng chảy của sản
phẩm, của thông tin và tài chính. Các dòng chảy này tạo ra chi phí của chuỗi cung
ứng. Khách hàng là nguồn doanh thu duy nhất của chuỗi cung ứng.
Sự phối hợp chặt chẽ của dòng chảy sản phẩm, thông tin và tài chính là vô
cùng quan trọng trong chuỗi cung ứng. Đặc biệt là vai trò cầu nối của dòng chảy
thông tin bới nó ảnh hưởng lớn tới việc đáp ứng các nhu cầu khách hàng đúng lúc.
Tại một cửa hàng bán lẻ, khách hàng sẽ được cung cấp các sản phẩm, giá cả và sự
sẵn sàng, đầy đủ về thông tin (sản phẩm, nhà sản xuất, khuyến mãi…) và ngược lại

khách hàng sẽ thanh toán tiền sản phẩm mà họ mua. Nhà bán lẻ sẽ gửi thông tin liên
quan đến việc bán hàng, đơn đặt hàng tới các nhà phân phối để họ chuyển hàng tới.
Các cửa hàng bán lẻ sẽ chuyển tiền cho nhà phân phối sau khi nhận được hàng. Nhà
phân phối cũng đổi cho nhà bán lẻ những thông tin về sản phẩm, giá cả…Vòng tuần
hoàn bắt đầu với việc nhận những đơn đặt hàng của khách hàng và kết thúc khi

19


khách hàng thanh toán đơn đặt hàng của họ. Cứ như vậy, dòng sản phẩm, tài chính
và thông tin được luân chuyển trong chuỗi cung ứng.
Bất kỳ chuỗi cung ứng nào cũng cần cân nhắc giữa tính đáp ứng nhanh và
tính hiệu quả. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay nếu chỉ tập trung vào tính hiệu quả
mà bỏ qua tính đáp ứng nhanh các nhu cầu của khách hàng thì các công ty, các
chuỗi cung ứng không thể thành công. Cùng sự phát triển vượt bậc của khoa học
công nghệ, các công ty ngày càng chú trọng, chuyên môn hóa vào các sản phẩm mà
nó thực hiện tốt nhất để cạnh tranh được với đối thủ khác. Chính điều này đã thúc
đẩy các công ty khác nhau liên kết lại với nhau cùng thực hiện các hoạt động trong
chuỗi cung ứng như sự liên kết của các công ty chịu trách nhiệm sản xuất với các
công ty chịu trách nhiệm sản xuất với các công ty chuyên về vận chuyển, phân phối,
bán lẻ.
2.1.5 Những yếu tố ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng
Các yếu tổ ảnh đến chuỗi cung ứng liên quan đến các hoạt động dịch vụ, các
tác nhân tham gia cũng như các dòng chảy thông tin, sản phẩm, tài chính trong
chuỗi. Bao gồm như sản xuất, tồn kho, vận chuyển, vị trí và thông tin.
Về sản xuất: Phương tiện sản xuất là các nhà máy và nhà kho. Quyết định cơ
bản của các công ty khi sản xuất là làm thế nào để cân đối giữa tính đáp ứng nhanh
và tính hiệu quả. Để đáp ứng nhanh các nhu cầu công ty phải xây dựng nhà máy và
kho thừa công suất, nhưng điều này lại làm sản xuất kém hiệu quả khi lãng phí
nguồn lực và chứa đựng nhiều rủi ro bởi nhu cầu luôn thay đổi.

Các nhà máy có thể được xây dựng theo hai hướng: Tâm điểm sản phẩm và
tâm điểm chức năng. Theo tâm điểm sản phẩm, công ty sẽ thực hiện các công đoạn
từ chế tạo tới lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Theo tâm điểm chức năng, công ty sẽ
chuyên về một chức năng cụ thể thay vì về một sản phẩm sẵn có.
Kho hàng cũng được thiết kế thích ứng theo các phương pháp khác nhau như
lưu kho đơn vị, cho phép lấy và đóng gói hiệu quả hơn có thể sử dụng phương pháp
lưu kho theo công năng, hoặc để nâng cao hiệu suất của chuỗi cung ứng có thể sử
dụng lưu kho chéo. Lưu kho chéo là phương pháp lưu kho mà Wal-mart đã sử dụng.
Theo phương pháp này các kho hàng chứa quy trình chứ không chứa sản phẩm.

20


Hàng tồn kho: Hàng tồn kho không chỉ là những sản phẩm cuối cùng được
lưu trữ tại các kho hàng, mà nó còn bao gồm nguyên vật liệu cho sản xuất cũng như
các sản phẩm trung gian. Do đó, tất cả các thành viên trong chuỗi cung ứng đều
nắm giữ lượng hàng tồn kho nhất định.
Hàng tồn kho cũng chịu ảnh hưởng từ mâu thuẫn giữa tính đáp ứng nhanh và
tính hiệu quả. Để hiệu quả, mục tiêu của các công ty là giảm chi phí hàng tồn kho.
Nhưng để đáp ứng nhanh nhu cầu khách hàng, các công ty phải tăng thêm chi phí
dành cho hàng tồn kho. Có ba quyết định cơ bản về tồn trữ hàng tồn kho. Đó là
hàng tồn kho chu kỳ, hàng tồn kho an toàn và hàng tồn kho thời vụ.
Hàng tồn kho theo chu kỳ là lượng hàng tồn kho cần thiết để thỏa mãn nhu
cầu sản phẩm trong kỳ giữa những lần thu mua. Tuy nhiên việc không thể dự báo
chính xác nhu cầu sản phẩm đã khiến các công ty phải tồn kho thêm để dự phòng
trong trường hợp nhu cầu tăng cao và vì vậy, đẩy chi phí tồn kho, chi phí vận
chuyển hàng hóa tăng. Các công ty sẽ cân nhắc giữa chi phí tăng lên với phần
doanh thu bị mất nếu không tồn kho để đưa ra những quyết định của mình. Tất
nhiên, các công ty đều không ưa thích phương thức tồn kho này. Tại những thời
điểm nhất định trong năm dự báo nhu cầu sẽ tăng cao, các công ty còn lựa chọn

hàng tồn kho theo thời vụ.
Vị trí: Liên quan đến quyết định về tính đáp ứng nhanh và hiệu quả của các
công ty. Để đáp ứng nhanh công ty phải hoạt động tại nhiều vị trí (về mặt địa lý)
khác nhau, gần với khách hàng dễ dàng cho việc đáp ứng nhu cầu của họ. Nhưng để
hiệu quả công ty lại hoạt động tại một vài vị trí để giảm thiểu chi phí. Do đó, việc
lựa chọn các vị trí có tác động lớn tới chi phí và đặc trưng, sự phân phối sản phẩm
của chuỗi cung cấp cũng như việc tìm kiếm và “giữ chân” khách hàng.
Vận chuyển: Tại các địa điểm khác nhau trong chuỗi cung ứng có những
cách thức vận chuyển khác nhau. Người quản lý chuỗi cung ứng cần lập ra những lộ
trình khác nhau để đưa sản phẩm từ khu sản xuất tới mạng lưới các nhà phân phối,
bán lẻ thông qua các phương tiện vận chuyển. Việc lựa chọn các phương tiện vận
chuyển, con đường vận chuyển ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí và từ đó gián tiếp
ảnh hưởng tới lợi nhuận toàn chuỗi. Nguyên tắc chung trong vận chuyển sản phẩm

21


là giá trị càng cao thì càng nhấn mạnh tính đáp ứng nhanh, giá trị càng thấp thì càng
nhấn mạnh tính hiệu quả.
Thông tin: Thông tin là yếu tố then chốt trong việc ra quyết định của tất cả
các thành viên trong chuỗi cung ứng. Nó được xem là yếu tố kết nối các hoạt động
về sản xuất, hàng tồn kho, vị trí, vận chuyển trong chuỗi. Nắm bắt thông tin giúp
công ty dự đoán và lên kế hoạch thỏa mãn nhu cầu khách hàng trong tương lai. Bất
kỳ chuỗi cung ứng nào cũng phải cân nhắc giữa tính đáp ứng nhanh và tính hiệu
quả, nếu có được thông tin tốt các công ty có thể so sánh được những chi phí, lợi
nhuận liên quan tới quyết định các vấn đề trên, đồng thời so sánh giữa chi phí để có
được thông tin và lợi ích có được từ nguồn thông tin đó. Thông tin nhanh, chính
xác, đầy đủ sẽ giúp thực hiện mục tiêu lợi nhuận của toàn chuỗi cung ứng.
2.1.6 Định nghĩa các tác nhân
Tác nhân là một là một “tế bào” sơ cấp với các hoạt động kinh tế là trung

tâm, hoạt động độc lập và tự quyết hành vi của mình. Tác nhân có thể là những hộ
hay những doanh nghiệp… tham gia trong các ngành hàng thông qua hoạt động
kinh tế của họ.
Trong một chuỗi cung ứng có thể bao gồm nhiều kênh hoạt động. Các kênh
này thể hiện mối quan hệ giữa các tác nhân tham gia thị trường hàng hóa đó, bao
gồm người sản xuất, người thu gom, người chế biến, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ
và người tiêu dùng. Theo GS.TS Đỗ Kim Chung và cộng sự (2009) các kênh thị
trường có thể có các tác nhân tham gia sau đây:
 Người sản xuất
Người sản xuất bao gồm nông dân, trang trại, các doanh nghiệp, hợp tác xã,
nông lâm trường trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp. Ở các nước đang phát
triển, nông dân chiếm vị trí trọng yếu trong việc cung cấp ra sản phẩm nông nghiệp.
Người sản xuất, nhận được tín hiệu thị trường tiến hành đầu tư kinh doanh, đến vụ
thu hoạch, bán sản phẩm của mình cho người thu gom, các đại lý, các tổ chức thu
mua, hoặc người tiêu dùng cuối cùng, phục vụ cho chế biến, trao đổi thương mại
hay tiêu dùng trực tiếp.
 Người thu gom

22


Người thu gom có thể là tư thương, các tổ chức thu mua của các doanh
nghiệp (tham gia xuất khẩu, chế biến nông sản), các hợp tác xã. Tùy theo tính chất
của từng loại sản phẩm nông nghiệp, điều kieenhj thụ trường và quan hệ kinh tế
(như canh tác hợp đồng) mà người thu gom có thể là tư thương hay doanh nghiệp.
Với nông sản(như thóc, gạo, lợn gà…), ở cá nước đang phát triển, tư thương có vai
trò vô cùng quan trọng. Tư thương phản ứng nhanh nhạy với sự biến đổi thị trường.
Cơ chế vận hành trong thu mua của tư thương thương thường thích hợp hơn với nền
nông nghiệp phân tán, đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Với nông sản đòi hỏi phải chế biến (như bông, cà phê, cá, tôm…), người thu

gom là các doanh nghiệp, thường ký hợp đồng giao sau với nông dân. Nông dân căn
cứ vào hợp đồng đã ký, thực hiện canh tác – gọi là canh tác hợp đồng. Các doanh
nghiệp bao tiêu sản phẩm đã sản xuất ra. Đây là hình thức khá phổ biến ở những
nước có nền nông nghiệp phát triển.
Thu gom là quá trình mà trong đó các khối lượng nhỏ một loại hàng hóa nhất
định được tập trung về một trung tâm để tiến hành các hoạt động marketing tiếp
theo. Việc thu gom nông sản hàng hóa nhằm đảm bảo các yêu cầu sau: a) đáp ứng
được đầy đủ khối lượng hàng hóa theo yêu cầu của thị trường; b) đảm bảo có một
lượng đủ lớn về sản phẩm để cho các doanh nghiệp, các cá nhân tham gia vào bán
buôn, bán lẻ thực hiện kinh doanh marketing; c) giúp cho nông dân sản xuất nhỏ,
nhất là những người ở xa nhiều thành phần kinh tế tiến hành, có thể là tư thương,
các công ty, các doanh nghiệp của Nhà nước hay tập thể thực hiện. Tùy theo chủng
loại nông sản hàng hóa mà việc thu gom có thể do thành phần kinh tế này hay thành
phần kinh tế khác chiếm ưu thế.
 Người chế biến
Người chế biến bao gồm các tổ chức hay cá nhân tham gia vào việc chế biến
hay sơ chế sản phẩm trước khi bán cho người bán buôn hay bán lẻ. Trong nhiều
trường hợp, người thu gom cũng có thể là người chế biến. Trong nền nông nghiệp
phát triển, người chế biến thường là các doanh nghiệp hay các hợp tác xã. Tuy
nhiên, cũng không loại trừ các hộ kinh doanh khác ở nông thôn và thành thị.

23


Nông sản hàng hóa được chia thành hai nhóm: loại tiêu dùng trực tiếp và loại
phải qua chế biến. Trong đó, loại phải qua chế biến (bao gồm sơ chế và chế biến
tinh) chiếm tỷ trọng chủ yếu. Với các loại sản phẩm đó, quá trình marketing cần
phải chuyển chúng thành các sản phẩm phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. Mặt
khác, tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp làm cho việc cung các nông sản hàng
hóa ra thị trường cũng mang tính thời vụ. Lượng sản phẩm của nông sản hàng hóa

nào đó có thể rất dồi dào ở thị trường vào lúc này nhưng lại khan hiếm vào lúc
khác. Do vậy, việc chế biến là rất cần thiết để giải quyết tình trạng cung thừa lúc thu
hoạch và cầu thừa lúc khan hiếm. Mặt khác việc chế còn có tác dụng làm tăng chất
lượng sản phẩm trước khi bán và duy trì được sản phẩm trong thời gian dài. Chỉ có
chế biến mới nâng cao được giá trị sản phẩm và thỏa mãn được yêu cầu của người
tiêu dùng. Việc chế biến nông sản hàng hóa là toàn bộ các hoạt động có tính công
nghiệp có liên quan đến nhau nhằm thay đổi những hình dạng cơ bản của sản phẩm
như chuyển nông sản thành sản phẩm hàng hóa, sản phẩm tươi sống, sản phẩm nấu
chín, sản phẩm đồ hộp hay đóng túi cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
Việc chế biến có thể do doanh nghiệp tư nhân, nhà nước hay tập thế đảm nhận. Tùy
theo chủng loại sản phẩm, tính chất công nghệ đòi hỏi trong chế biến và trang thiết
bị cho chế biến mà thành phần kinh tế này hay kinh tế khác thực sự chiếm vị trí then
chốt.
 Người bán buôn
Người bán buôn là những người mua sản phẩm từ người thu gom hay từ
người chế biến, trong một số trường hợp, từ người sản xuất để bán sản phẩm cho
người bán lẻ. Thông thường, người bán buôn là các đại lý, siêu thị, các doanh
nghiệp. Quy mô sản phẩm kinh doanh cảu người bán buôn thuuwongf lớn, chiếm vị
trí quan trọng trong điều tiết thị trường.
Hoạt động bán buôn bao gồm tất cả các hoạt động nhằm bán hàng và dịch vụ
cho những người mua về để bán lại hoặc để kinh doanh.
 Người bán lẻ
Người bán lẻ mua sản phẩm từ bán buôn, hay người chế biến, trong một số
trường hợp có thể từ người sản xuất và bán sản phẩm trực tiếp cho người tiêu dùng

24


cuối cùng. Người bán lẻ có thể bao gồm các diaau thị , tư thuuwongf buôn bán nhỏ
và cả người sản xuất. Xã hội càng phát triển, sự tham gia bán lẻ của các siêu thị

càng nhiều. Sản phẩm bán lẻ không thuần túy là nông phẩm tươi sống mà sẽ là nông
sản thực phẩm (những nông sản chế biến phục vụ cho tiêu dùng trực tiếp).
Hoạt động bán lẻ là tất cả những hoạt động có liên quan đến việc bán hàng
hóa hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu thụ cuối cùng để họ sử dụng cho bản thân
chứ không phải kinh doanh. Có nhiều tổ chức – nhà sản xuất, nhà bán buôn, nhà
bán lẻ - thực hiện các chức năng bán lẻ, nhưng phần lớn công việc bán lẻ là do
những nhà bán lẻ chuyên nghiệp thực hiện. Việc bán lẻ có thể thực hiện qua nhân
viên bán trực tiếp, bưu điện, điện thoại hay các máy bán lẻ tự động.
 Người tiêu dùng cuối cùng
Người tiêu dùng cuối cùng là những mua sản phẩm và dịch vụ từ người bán
lẻ nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ. Người tiêu dùng cuối cùng bao gồm những người
tiêu dùng của xã hội với các nghề nghiệp khác nhau, thu nhập khác nhau và có hành
vi tiêu dùng khác nhau. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu nông sản thực phẩm càng
nhiều và chất lượng càng cao, đòi hỏi các loại nông sản phải được chế biến đạt tiêu
chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Trên thực tế, thị trường một sản phẩm và dịch vụ rất đa dạng và phức tạp.
Dòng lưu chuyển hàng hóa có thể phải trải qua tất cả cá tác nhân trên, nhưng cũng
có thể rút ngắn tới mức chỉ có quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng cuối
cùng, tùy theo sự phát triển của thị trường ở vùng đó và sản phẩm đó.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trên thế giới
Trên thế giới cây lúa được hơn 250 triệu hộ nông dân trồng, là lương thực
chính của 1.3 tỷ người nghèo nhất trên thế giới, là sinh kế chủ yếu của nông dân.
Là nguồn cung cấp năng lượng lớn nhất cho con người, bình quân 180 – 200 kg/
người/ năm tại các nước Châu Á, khoảng 10 kg/ người/ năm tại các nước châu Mỹ.
Nhu cầu gạo tẻ thơm trên thế giới liên tục tăng mạnh về cả số lượng và chất
lượng, vì vậy chương trình chọn lọc và đánh giá nguồn gen lúa tẻ thơm Quốc tế đã
được tổ chức thông qua chương trình INGER từ năm 1996 (Vũ Đức Thọ, 2008).

25



×