Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Đánh giá hiệu quả canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải- tỉnh Yên Bái.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 146 trang )

S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

đại học thái nguyên
tr-ờng đại học kinh tế và quản trị kinh doanh
-------------------------------------------------

TRNG TUN LINH



NH GI HIU QU CANH TC TRấN T DC
HUYN M CANG CHI- TNH YấN BI




Luận văn Thạc sĩ kinh tế










Thỏi Nguyờn, nm 2009


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
-------------------------------------------------
TRƯƠNG TUẤN LINH



ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CANH TÁC TRÊN ĐẤT DỐC Ở
HUYỆN MÙ CANG CHẢI- TỈNH YÊN BÁI

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 - 31 - 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Chí Thiện








Thái Nguyên, năm 2009
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH


TRƯƠNG TUẤN LINH



ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CANH TÁC TRÊN ĐẤT DỐC Ở
HUYỆN MÙ CANG CHẢI- TỈNH YÊN BÁI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
MÃ SỐ: 60- 31- 10



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ






Thái Nguyên, năm 2009

Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH






Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS TRẦN CHÍ THIỆN



Phản biện 1: ……………………………………………………….

Phản biện 2: ……………………………………………………….




Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn họp tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Vào hồi…….giờ…..ngày……tháng…….năm 2009.





Có thể tìm hiểu Luận văn tại Trung tâm Học liệu- Đại học Thái Nguyên
và Thư viện Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh.
1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế được
trong sản xuất nông nghiệp. Thật vậy, ngành nông nghiệp không thể sản xuất
nếu không có đất đai. Đất đai được gọi là tư liệu sản xuất đặc biệt vì nó vừa là

đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Đất đai là đối tượng lao động vì
nó chịu sự tác động của con người trong quá trình canh tác. Đất đai là tư liệu
lao động vì nó phát huy tác dụng như một công cụ lao động. Con người dùng
đất đai để trồng cây và chăn nuôi tạo ra thu nhập. Như vậy sẽ không có sản
xuất nông nghiệp nếu không có đất, và chỉ có thông qua đất, các tư liệu sản
xuất mới tác động đến cây trồng. Sử dụng đất đai đúng hướng còn quyết định
đến hiệu quả của sản xuất.[40]
Theo Dữ liệu năm 2005 của Dự án Dân số thế giới của Liên hợp quốc,
thì hiện nay tổng diện tích đất trên toàn thế giới là 134.682.000km
2
, với dân
số gần 7 tỷ người và mật độ dân số là 48 người/km
2
. Diện tích đất đưa vào sản
xuất trồng trọt vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất tự nhiên. Tuy
vậy trong nhiều thập kỷ qua đất vẫn phải tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của gần 7 tỷ người. Và hàng năm một tỷ lệ dân số
lớn khoảng 10% vẫn đang trong tình trạng thiếu ăn hoặc bị nạn đói đe doạ,
nhất là ở các quốc gia đang phát triển ở Châu Phi và Châu Á.
Việt Nam với diện tích tự nhiên là 331.689 km
2
xếp thứ 55 trong tổng
số hơn 200 nước trên thế giới. Nhưng với dân số lớn khoảng 87 triệu người
(thứ 12) và mật độ dân số đông 254 người/km
2
(thứ 46) nên bình quân đất tự
nhiên theo đầu người thấp, chỉ khoảng 0,48ha/người, bằng 1/6 mức bình quân
thế giới.
2


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, quá trình đô thị hoá
và công nghiệp hoá đã làm cho diện tích đất nông nghiệp giảm đi nhanh chóng.
Đặc biệt là những diện tích có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Đất đồi núi (phần lớn là đất dốc) chiếm 3/4 diện tích đất tự nhiên của
Việt Nam. Do thiếu đất sản xuất nên nông dân miền núi vẫn phải canh tác trên
đất có độ dốc cao, dẫn đến việc đất bị xói mòn rất mạnh và năng suất cây
trồng giảm nhanh. Kết quả là đất bị thoái hoá, năng suất cây trồng thấp nên
cuộc sống của nông dân rất thấp và bấp bênh. Hiện tượng du canh du cư còn
phổ biến. Mặc dù còn nhiều trở ngại, vùng đất dốc có rất nhiều tiềm năng
phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển và tồn tại
của loài người, nhất là khi hiệu ứng nhà kính thể hiện rõ ảnh hưởng của nó,
tức là khi mực nước biển dâng cao và có thể nhấn chìm những vùng châu thổ
rộng lớn. Đó là chưa nói đến chức năng điều hoà khí hậu mà các vùng đồi
núi chiếm vị trí quan trọng nhất.
Ở Việt Nam, trong điều kiện đô thị hoá, công nghiệp hoá diễn ra mạnh
mẽ, diện tích đất nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm, để đảm bảo được
việc cung cấp lương thực cho khu vực miền núi phía Bắc, đòi hỏi khu vực này
phải phát triển sản xuất lương thực ngày càng cao.
Mù Cang Chải là một huyện miền núi khó khăn, hẻo lánh của tỉnh Yên
Bái, đại bộ phận dân chúng là người Mông. Trong những năm gần đây đời
sống của bà con dần ấm no, đầy đủ đó là một phần nhờ vào hiệu quả của quá
trình canh tác hợp lý trên đất dốc của đồng bào. Ở Việt Nam tuy đã có rất nhiều
nghiên cứu về canh tác trên đất dốc nhưng cũng chưa có một công trình nào
nghiên cứu sâu về canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải. Vì vậy, nghiên
cứu đề tài “ Đánh giá hiệu quả canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải-
tỉnh Yên Bái” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cho mục tiêu phát triển
3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp miền núi trung du trên cơ sở phát huy
lợi thế của vùng nói riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1 Mục tiêu chung
Đề tài nhằm chỉ ra mô hình canh tác trên đất dốc tối ưu, góp phần đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội cho huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái nói
riêng và các khu vực trong cả nước có cùng điều kiện nói chung.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá được lý luận và thực tiễn về canh tác trên đất dốc.
- Đánh giá được thực trạng và hiệu quả canh tác bền vững trên đất dốc
của người dân huyện Mù Cang Chải.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, cũng như
nhân rộng mô hình canh tác hiệu quả trên đất dốc cho huyện Mù Cang Chải.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Kết quả canh tác trên đất dốc của các hộ gia đình trên địa bàn huyện
Mù Cang Chải – Yên Bái
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu tại huyện Mù
Cang Chải tỉnh Yên Bái. Địa điểm nghiên cứu là tại hai xã La Pán Tẩn và xã
Chế Cu Nha, nơi có đặc điểm đại diện và điển hình nhất cho phương thức
canh tác hợp lý trên đất dốc của huyện Mù Cang Chải, cũng như của vùng núi
phía Bắc Việt Nam.
- Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu số liệu thứ cấp qua 03 năm
2006 – 2008 ; thu thập số liệu sơ cấp năm 2008.
4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Phân tích, đánh giá hiện trạng hiệu quả
kinh tế, xã hội, môi trường đồng thời đề tài còn nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các

phương thức canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải- tỉnh Yên Bái.
5. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 03 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chƣơng 2: Thực trạng canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải-
tỉnh Yên Bái
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế trên đất dốc huyện
Mù Cang Chải- tỉnh Yên Bái
5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1.1 Tổng quan về đất dốc và canh tác bền vững trên đất dốc
a) Khái niệm về đất dốc
Đất dốc là tất cả các loại đất có độ dốc từ 1
o
trở lên. Do đó, đất dốc
thường chịu tác động của các hiện tượng xói mòn rửa trôi, dẫn đến sự thoái
hoá đất, làm đất nghèo kiệt về dinh dưỡng, về cấu trúc, giảm độ pH, tăng hàm
lượng các chất gây độc hại cho đất và làm cho đất bị chết về sinh học. Hầu hết
diện tích đất dốc bị thoái hoá và bị chua, nhiều diện tích bị bỏ hoang hoá vì
mất khả năng sản xuất nông lâm nghiệp. Đây thực sự là điều khó khăn để tạo
ra một nền nông nghiệp bền vững trên đất dốc [17].
b) Canh tác bền vững trên đất dốc
Canh tác bền vững trên đất dốc là phương thức lựa chọn và bố trí các
loại cây trồng sao cho hiệu quả kinh tế thu được từ mô hình là cao nhất và ổn

định qua nhiều năm (www.khuyennongvn.gov.vn).
* Tính bền vững trong quản lý sử dụng đất dốc
Từ lâu những người làm nông nghiệp đã hiểu rằng môi trường sống lâu
dài của con người tuỳ thuộc rất nhiều vào việc giữ gìn, quản lý đất, nước và
dinh dưỡng địa quyển vì nó rất có hạn. Thật vậy, đất bị xói mòn, diện tích
canh tác ngày càng thu hẹp do qúa trình công nghiệp hoá, chất lượng đất (độ
phì nhiêu) giảm dần không chỉ tước mất cơ hội kiếm sống của người nông dân
mà còn đe doạ cuộc sống của toàn xã hội về lương thực và thực phẩm.
6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tác động phụ thuộc qua lại của môi trường tự nhiên và xã hội chi phối
quản lý sử dụng đất bền vững. Khái niệm tính bền vững của một hệ thống
quản lý sử dụng đất rộng lớn hơn là bền vững về độ phì nhiêu, nó bao gồm 3
phương diện: bền vững về kinh tế, sự chấp nhận của xã hội và bền vững về
môi trường.
Trong lịch sử canh tác đất đã từng có 3 hệ thống được công nhận có sức
sản xuất ổn định tuy mức hiệu quả có khác nhau, đó là:
Hệ luân phiên cây trồng bỏ hóa một vụ
Hệ chăn thả gia súc luân phiên
Hệ canh tác lúa nước.
Các hệ thống này tồn tại khá lâu và được xem như là một mô hình sản
xuất trong điều kiện đòi hỏi mức đầu tư thấp, hưởng lợi thấp và điều kiện tự
nhiên (đất, nước…) còn dồi dào.
Nhưng ngày nay với những biến đổi lớn lao trên toàn cầu, khu vực, mỗi
quốc gia thậm chí từng địa phương thì các hệ canh tác đó không thể tồn tại
bền vững ở khắp nơi như xưa nữa. Ở các vùng núi cao, nếu chỉ xét đơn thuần
về mặt kinh tế trên đơn vị diện tích thì không có hệ thống cây trồng nào sinh
lợi bằng trồng cây thuốc phiện. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế cao không thôi rõ
ràng không thể tồn tại được trước áp lực xã hội đòi hỏi loại khử căn nguyên

làm huỷ hoại sức khỏe con người.
Từ đó ta có thể thấy rằng tính bền vững của sử dụng đất phải được xem
xét đồng bộ các mặt kinh tế - xã hội và môi trường.
Ở cấp thực địa đồng ruộng thì “một hệ thống canh tác được coi là bền
vững” khi nó không ngừng thoả mãn các nhu cầu của người dân mà không
làm thoái hoá nền dự trữ cơ bản của họ.
7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Để đánh giá sử dụng đất dốc, một khung đánh giá quản lý đất dốc bền
vững đã được các nhà khoa học đề xuất từ năm 1991 trong đó 5 thuộc tính
của khái niệm bền vững được xem xét là:
Tính sản xuất hiệu quả
Tính an toàn
Tính bảo vệ
Tính lâu bền
Tính chấp nhận
Rõ ràng quản lý bền vững đất đai phải bao gồm một tổ hợp (vì các giới
hạn của dự trữ nguồn lực, tác động đến môi trường, tính kinh tế đa dạng sinh
học và tính hợp pháp), bao gồm tổ hợp các công nghệ, chính sách và hoạt
động nhằm phù hợp các nguyên lý kinh tế - xã hội với các quan điểm môi
trường để đồng thời duy trì và nâng cao được sản lượng (hiệu quả sản xuất),
giảm được rủi ro (an toàn) bảo vệ được tiềm năng nguồn lực tự nhiên, ngăn
ngừa thoái hóa đất và ô nhiễm môi trường nước. Hiệu quả là lợi ích lâu dài
(lâu bền) được xã hội chấp nhận phù hợp với lợi ích của các bên tham gia
quản lý, lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng. Các thuộc tính của khái niệm bền
vững nêu trên có mối quan hệ với nhau, sử dụng đất được coi là bền vững khi
quá trình sử dụng đó duy trì được sự cân bằng động và sự bảo toàn lâu dài
theo thời gian.
* Những tiêu chí và chỉ tiêu cơ bản để đánh giá tính bền vững đối với sử dụng

đất dốc ở Việt Nam
- Bền vững về kinh tế : Năng suất trên mức bình quân vùng, năng suất tăng
dần, đạt tiêu chuẩn sản phẩm tiêu thụ tại địa phương và xuất khẩu; giá trị sản
xuất trên chi phí đạt trên 1,5 lần; ít mất trắng do hạn và sâu bệnh, có thị
trường ổn định, dễ bảo quản và vận chuyển.
8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Chấp nhận xã hội với 6 tiêu chí:
+ Đáp ứng nhu cầu của hộ về lương thực, thực phẩm, về tiền mặt và nhu
cầu khác.
+ Phù hợp với năng lực nông hộ về đất đai, lao động, vốn và kỹ năng sản xuất.
+ Người lao động tự quyết công việc đồng áng, không áp đặt và được hưởng
lợi ích thoả đáng.
+ Giảm nặng nhọc cho phụ nữ, không làm trẻ em mất cơ hội học hành.
+ Phù hợp luật pháp hiện hành ( Luật Đất đai và Luật Bảo vệ rừng, mặt nước).
+ Được cộng đồng nông thôn công nhận phù hợp tập quán, văn hoá dân tộc.
- Bền vững về sinh thái có 4 tiêu chí:
+ Giảm thiểu xói mòn, thoái hoá đất dưới mức cho phép, tăng độ phì nhiêu
cho đất hoặc ít ra cũng duy trì, bảo toàn độ phì nhiêu.
+ Tăng độ che phủ (che phủ trên 35% quanh năm).
+ Bảo vệ nguồn nước: Duy trì và tăng nguồn sinh thuỷ, không gây ô nhiễm
nguồn nước.
+ Nâng cao, đa dạng hoá sinh học của hệ sinh thái, tỷ lệ cây dài ngày cao nhất
có thể được, khai thác tối đa các loài bản địa, bảo toàn và làm phong phú
quỹ gien.
* Những nguyên tắc đánh giá tính bền vững
Bền vững là một khái niệm động, bền vững ở nơi này có thể không bền
vững ở nơi khác, bền vững ở thời điểm này, có thể không bền vững ở thời
điểm khác. Đo lường trực tiếp tính bền vững là một khó khăn nhưng sự đánh

giá đó có thể thực hiện được dựa vào những biểu hiện và chiều hướng của các
quá trình chi phối đến chức năng một hệ canh tác nhất định, ở một địa phương
cụ thể.
9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Những nguyên tắc chung là:
+ Tính bền vững được đánh giá cho một kiểu sử dụng đất nhất định,
một mô hình sản xuất nhất định, cho một đơn vị lập địa cụ thể, cho một hoạt
động điều hành, cho một thời hạn xác định.
+ Dựa trên quy trình và dữ liệu khoa học, những chỉ số và tiêu chuẩn phản
ánh nguyên nhân và kết quả, các tiêu chí và chỉ tiêu phải phản ánh hết được các
mặt bền vững và không bền vững của một hệ thống sử dụng đất. Nếu thoả mãn
hết các chỉ tiêu thì tính bền vững của một hệ thống đạt mức tối đa. Song trong
thực tế không có được một hệ thống lý tưởng như vậy, mỗi một hệ thống chỉ đạt
được một số mặt nào đó ở một mức độ nhất định tuỳ theo từng mục tiêu của mỗi
kiểu sử dụng đất, các tiêu chí và chỉ tiêu cũng có ý nghĩa khác nhau, cấp độ quan
trọng khác nhau và nhận được sự đánh giá khác nhau khi xem xét cho từng
trường hợp [24].
c) Kỹ thuật canh tác bền vững trên đất dốc
Dựa vào quan niệm lâu đời của nông dân vùng cao và quan điểm đổi
mới trong sử dụng và quản lý đất dốc. Những tiến bộ mới trong canh tác và
bảo vệ đất dốc đã tự khẳng định tính ưu việt của nó và được đông đảo nông
dân các dân tộc vùng cao chấp nhận, nhân rộng với tốc độ nhanh.
Dùng tàn dư thực vật che phủ bề mặt
Từ thực nghiệm quy mô nhỏ, kỹ thuật che phủ đất dốc bằng tàn dư thực
vật đã và đang được phổ biến rộng rãi, được bà con các dân tộc miền núi phía
Bắc áp dụng có hiệu quả.
Tạo lớp che phủ đất bằng lớp thực vật sống.
Kiến thiết tiểu bậc thang kết hợp che phủ đất và làm đất tối thiểu

Kinh nghiệm làm ruộng bậc thang ở miền núi đã có từ lâu, nhưng chỉ
áp dụng được ở nơi có tầng đất dày và độ dốc thấp cộng với đầu tư công lao
động lớn. Đối với những sườn núi có độ dốc cao, tầng đất mỏng thì tạo tiểu
10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
bậc thang kết hợp che phủ đất và chọc lỗ gieo thẳng mà không làm đất là một
kỹ thuật rất có hiệu quả, nâng cao năng suất cây trồng, bảo vệ và tăng độ phì
cho đất. Tiểu bậc thang được kiến tạo bề mặt từ 30-40cm và nên trồng các
loại cây thích hợp để bảo vệ bờ bậc thang, có thể kết hợp trồng cỏ để làm thức
ăn gia súc, trồng cây họ đậu qua đông để bảo vệ và cải tạo đất.
Trồng xen cây họ đậu vào nương sắn
1.1.1.2. Hiệu quả và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
a) Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một tiêu chí trong đánh giá tính bền vững quản lý sử
dụng đất. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, phản ánh về mặt chất
lượng của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi các nguồn lực sản
xuất có hạn, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của xã hội ngày càng gia tăng và
đa dạng thì nâng cao hiệu quả kinh tế là một xu thế khách quan và bức xúc
của sản xuất xã hội.
Bản chất của hiệu quả xuất phát từ mục đích của sản xuất và sự phát
triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, đó là thỏa mãn ngày càng cao (tăng số
lượng và chất lượng) về nhu cầu vật chất xã hội. Đánh giá kết quả sản xuất là
đánh giá về mặt số lượng còn đánh giá hiệu quả của sản xuất là xem xét tới
mặt chất lượng của quá trình sản xuất đó.
Như vậy, hiệu quả là một phạm trù kinh tế xã hội phản ánh mặt chất
lượng của hoạt động kinh tế và là đặc trưng của mọi hình thái kinh tế xã hội. Bởi
thế, để có một quan điểm hoàn chỉnh về hiệu quả kinh tế, chúng tôi xuất phát từ
luận điểm kinh tế học của Các Mác
«

Quy luật tiết kiệm thời gian trong khi sử
dụng các nguồn lực xã hội
»
[35] và những luận điểm của lý thuyết hệ thống cho
rằng nền sản xuất xã hội là một hệ thống các yếu tố sản xuất và các quan hệ vật
chất hình thành giữa con người và con người trong quá trình sản xuất.
11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Nội dung và bản chất của hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế- xã hội phản ánh mặt chất của
các hoạt động sản xuất kinh doanh và là đặc trưng cho mọi hình thái xã hội.
Bản chất của hiệu quả kinh tế có thể được hiểu như sau :
+ Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan nhưng nó không
phải là mục đích cuối cùng của sản xuất. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII đã chỉ rõ
«
Nền kinh tế đa thành phần nước ta ( gồm thành phần
kinh tế Nhà nước, thành phần kinh tế hợp tác, thành phần kinh tế cá thể, dân
chủ) hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa
»
.
+ Hiệu quả kinh tế là quan hệ so sánh, đo lường cụ thể quá trình sử
dụng các yếu tố sản xuất (đất đai, vốn, lao động, khoa học kỹ thuật, tiến bộ
quản lý…) để tạo ra khối lượng sản phẩm lớn hơn với chất lượng cao
hơn.[36]
+ Hiệu quả kinh tế phải được gắn liền với kết quả của những hoạt động
sản xuất cụ thể trong các doanh nghiệp, nông hộ và nền sản xuất xã hội ở
những điều kiện xác định về thời gian và hoàn cảnh kinh tế xã hội.[36]
+ Hiệu quả kinh tế phải lượng hóa được cụ thể việc sử dụng các yếu tố

đầu vào (chi phí) và các yếu tố đầu ra (kết quả) trong quá trình sản xuất ở
từng đơn vị, ngành, nền sản xuất xã hội trong từng thời kỳ nhất định các
doanh nghiệp với mục đích là tiết kiệm lợi nhuận tối đa trên cơ sở khối lượng
sản phẩm hàng hóa nhiều nhất với các chi phí tài nguyên và lao động thấp
nhất. Do đó hiệu quả kinh tế liên quan trực tiếp đến yếu tố đầu vào và yếu tố
đầu ra của quá trình sản xuất.
Như vậy việc đánh giá hiệu quả phải được xem xét một cách toàn diện,
cả về mặt thời gian và không gian trong mối liên hệ giữa hiệu quả chung của
nền kinh tế quốc dân với hiệu quả của từng bộ phận của các đơn vị, xí nghiệp;
hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và có quan hệ mật
12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thiết với nhau như một thể thống nhất không tách rời nhau. Đứng trên góc độ
nền kinh tế quốc dân thì hiệu quả của xã hội phải gắn liền với hiệu quả của
toàn xã hội, trên cả mặt kinh tế và xã hội. Gắn chặt hiệu quả của các đơn vị
kinh tế với hiệu quả toàn xã hội là đặc trưng riêng thể hiện tính ưu việt của
nền kinh tế thị trường dưới CNXH.[25].
b) Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội phản ánh mối quan hệ giữa kết quả hữu ích về mặt xã
hội và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nó đánh giá chủ yếu về mặt xã
hội của hoạt động sản xuất. Các loại hiệu quả có liên quan chặt chẽ với hiệu
quả kinh tế và biểu hiện mục tiêu hoạt động của con người.
c) Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường là hiệu quả của việc làm thay đổi môi trường do
hoạt động sản xuất gây ra như : xói mòn, ô nhiễm đất, không khí, bệnh
tật…Việc xác định hiệu quả môi trường là tương đối khó.
Trong 03 loại hiệu quả trên thì hiệu quả kinh tế đóng vai trò quyết định
và nó được đánh giá đầy đủ khi kết hợp với hiệu quả xã hội và môi trường.
d) Hiệu quả canh tác trên đất dốc

* Đặc điểm đánh giá hiệu quả sản xuất đất dốc
Để đánh giá hiệu quả kinh tế toàn diện và đầy đủ, ta căn cứ vào mối
quan hệ giữa lượng sản phẩm đầu ra tính bình quân trên mỗi đơn vị diện tích
canh tác hoặc gieo trồng với các mức chi phí đầu vào khác nhau.
Hiệu quả kinh tế của việc canh tác trên đất dốc phụ thuộc vào hiệu quả
của từng loại cây trồng vật nuôi, công thức luân canh hay phương thức sản
xuất trên phần diện tích đó.
Mỗi loại đất có khả năng sản xuất khác nhau, do đó việc đánh giá hiệu
quả sử dụng đất phải được nghiên cứu riêng cho từng loại đất.
* Một số nhân tố chung nhất ảnh hưởng tới hiệu quả canh tác trên đất dốc
13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Nhóm nhân tố chủ quan của bản thân người sản xuất:
+ Quyết định sử dụng đất để sản xuất cái gì ? (sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ gì ?) số lượng bao nhiêu và khi nào sản xuất ?
+ Quyết định sản xuất như thế nào? Với những tài nguyên sẵn có (đất,
nước) áp dụng hệ thống canh tác nào vừa để đảm bảo được tính bền vững của
đất đai vừa áp dụng được những công nghệ tiên tiến trên cơ sở nguồn lực lao
động và vốn có thể có được ?
+ Quyết định sản xuất cho ai ? Sản phẩm gì để tiêu dùng nội bộ, sản
phẩm gì để bán ra thị trường đều phải tính toán trong một mô hình sử dụng
đất bền vững và có hiệu quả.
+ Tổ chức sản xuất ra sao? Ngành sản xuất phải tính đến khả năng và
nguồn lực của mình để sản xuất sản phẩm hàng hóa mà xã hội cần, quyết định
tự mình (lao động gia đình) đảm nhận, khi cần thuê mướn nhân công, hay là
liên kết theo nhóm, tổ để có quy mô sản xuất thích hợp, có khối lượng hàng
hóa để tiêu thụ ở thị trường có lợi nhất (Tủ sách gia đình, 2004).
+ Tổ chức sản xuất theo công nghệ sản xuất nào? Công nghệ sản xuất
tiên tiến lẽ tất nhiên phải áp dụng đến đâu lại phụ thuộc vào nguồn lực (nội

lực, ngoại lực) và khả năng tiếp nhận công nghệ mới.
- Nhóm nhân tố khách quan
+ Nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên :
> Đặc điểm lý hoá tính của
> Nguồn nước và chế độ nước
> Địa hình và thổ nhưỡng
> Vị trí địa lý
+ Nhân tố thuộc điều kiện kinh tế- xã hội
> Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông lâm
14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
> Thị trường tiêu thụ sản phẩm
> Các quan hệ về sở hữu và sử dụng đất nông lâm nghiệp.
> Trình độ và tập quán sản xuất của chủ sở hữu đất
> Sự phát triển của các ngành kinh tế khác vì giữa các ngành kinh tế đó
có mối quan hệ hai chiều vừa tạo điều kiện vừa thúc đẩy nhau phát triển.
> Môi trường chính sách khuyến khích nông lâm nghiệp phát triển.
> Phân vùng quy hoạch và bố trí sản xuất nông lâm nghiệp giúp cho
việc khai thác sản xuất một cách triệt để, hiệu quả tài nguyên đất theo hướng
CNH- HĐH nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
> Ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông lâm nghiệp.
Tóm lại, quá trình quản lý sử dụng đất bền vững và có hiệu quả chịu sự
tác động bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Vấn đề quan trọng là các
bên liên quan có nhận thức đúng các yếu tố này, lợi dụng mặt tích cực, hạn
chế tác động tiêu cực làm chủ thời cơ trong quản lý kinh doanh sản xuất để
đạt được hiệu quả kinh tế cao cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
* Hệ thống các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
- Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế
+ Giá trị gia tăng = Giá trị sản xuất - Chi phí trung gian

VA = GO - IC
+ Giá trị sản xuất/ ha canh tác ( gieo trồng) = Năng suất đất đai
+ Giá trị sản xuất/ 1 đơn vị chi phí trung gian
+ Giá trị sản xuất/ 1 ngày lao động
- Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xã hội
+ Số trẻ em đi học, số trẻ em tham gia lao động
+ Điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chât
+ Hỗ trợ của chính quyền, chất lượng cuộc sống
+ Chất lượng và mức độ tự chủ về nguồn nước
15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
+ Dịch vụ khuyến nông, chăm sóc y tế…
1.1.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.1.2.1. Hoạt động của con người đến quá trình hình thành đất đồi núi
Kể từ khi loài người bắt đầu chuyển đổi cuộc sống từ hái lượm sang
trồng trọt và chăn nuôi, những tác động sản xuất nông nghiệp rồi sau đó là
lâm nghiệp đã là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình hình thành
và phát triển của các loại đất của mỗi quốc gia. Dưới các hoạt động khai phá,
đất, trồng tỉa, tưới nước, bón phân, thu hoạch bằng các biện pháp thô sơ đến
kỹ thuật máy móc hiện đại, các chất hoá học, nhằm thu được những sản phẩm
nông nghiệp nhiều và tốt nhất cho mình, con người đã tạo ra những loại đất
khác với bản chất thiên nhiên của chúng theo cả hai hướng tích cực và tiêu
cực. Bao quát chung các loại đất của Việt Nam cũng cho thấy hầu hết các
loại đất vùng đồng bằng, vùng duyên hải và vùng đồi núi thấp đã được con
người khai phá sử dụng lâu đời và triệt để. Đặc biệt trong những thập kỷ qua,
con người đã tấn công mạnh mẽ và ồ ạt lên những vùng đồi núi cao và dốc ở
khắp các tỉnh vùng đồi núi nước ta do sức ép tăng dân số và nhu cầu đời sống
ngày một gia tăng.
Những tác động tích cực

- Trải qua hàng nghìn năm sản xuất nông nghiệp, với kinh nghiệm
truyền thống và đặc biệt với những bước tiến của khoa học nông nghiệp hiện
đại của những thập kỷ qua, nhiều loại đất đã được sử dụng hợp lý, được bảo
vệ, cải tạo và bồi dưỡng để duy trì và tăng độ màu mỡ tăng khả năng sản xuất,
trong đó có diện tích đất đáng kể của vùng đồi núi.
- Trên các vùng đồi núi, chính sách định canh định cư, chống phát
nương, đốt rẫy, du canh, kiến thiết ruộng bậc thang, xây dựng đường, băng
đồng mức chống xói mòn trên sườn đồi dốc, trồng cây phân xanh, cây phủ đất
16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
giữ ẩm...đã tạo nên những loại hình sử dụng đất bền vững và bảo vệ đất dốc
có hiệu quả. Các loại rừng đầu nguồn được bảo vệ, diện tích rừng trồng đã
phủ xanh một phần diện tích đất trống đồi núi trọc, trả lại môi trường tự nhiên
cho đất rừng, phục hồi chất hữu cơ cho đất. Sự phát triển gần đây của các
trang trại nông lâm kết hợp, vườn quả, đồng cỏ chăn thả trên các diện tích đất
trống đồi núi trọc, đất đã bị thoái hoá nghiêm trọng, bị xói mòn rửa trôi thực
sự khẳng định vai trò và khả năng bảo vệ và cải tạo đất tích cực của con
người. Những hoạt động tích cực trên đã góp phần bảo vệ và tăng cường độ
màu mỡ của đất, tăng khả năng sản xuất của đất và thiết thực bảo vệ môi trường
sinh thái của đất.
Tác động tiêu cực
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng đất, con người cũng đã gây ra biết
bao tác hại cho đất và môi trường sinh thái của đất, đặc biệt nước ta đã trải
qua hàng ngàn năm sản xuất nông nghiệp lạc hậu và chiến tranh tàn phá dữ
dội, ngay cả việc tàn phá rừng của vùng đồi núi.
- Trên đất vùng đồi núi: Tập quán du canh du cư, di cư tự do, phá rừng,
đốt nương bừa bãi đã gây nên mất rừng, xói mòn rửa trôi đất nghiêm trọng.
Nạn ngập lụt, lũ ống, lũ quét về mùa mưa, khô hạn, cháy rừng vào mùa khô
đã trở thành mối hiểm hoạ của nhiều vùng như ở Tây Bắc, Đông Bắc, Tây

Nguyên. Hiện nay, loại đất kết von đá ong hoá, xói mòn trơ sỏi đá xuất hiện
phổ biến ở nhiều vùng đồi núi. Diện tích đất trống đồi núi trọc quá nhiều, diện
tích rừng chỉ còn khoảng 30%, quá thấp so với quy định (của quốc tế là 40%).
- Việc đốt phá rừng đầu nguồn của vùng đồi núi cũng ảnh hưởng đến
chế độ nước của các loại đất vùng đồng bằng, mùa mưa đất bị ngập lụt, úng
nghiêm trọng, mùa khô thì thiếu nước, hạn chế diện tích trồng vụ đông và vụ
xuân, đất bị bạc màu, chai cứng.
17

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Do sức ép dân số ngày càng tăng, nhất là ở vùng đồng bằng và duyên
hải, việc mở mang và phát triển đô thị, khu công nghiệp, một diện tích lớn đất
trồng trọt bị chuyển đổi thành đất thổ cư, đất xây dựng làm hình thái đất bị
xáo trộn, tính chất đất bị thay đổi, thoái hoá.
1.1.2.2. Kinh nghiệm canh tác trên đất dốc ở một số quốc gia trên thế giới
* Kinh nghiệm của thế giới
Hiện nay tài nguyên đất trên thế giới có khoảng 13.500 triệu ha, trong
đó hơn 1000 triệu ha (chiếm 14,7%) đất đồi núi có khả năng sản xuất nông
lâm nghiệp. Đó là nguồn tài nguyên lớn mang tính chiến lược quốc gia của
nhiều nước vì giá trị sản phẩm nông lâm nghiệp lớn, đồng thời đó còn là
những vùng đất nuôi sống hàng trăm triệu người và bảo vệ môi trường sinh
thái cho nhân loại.
Đất đồi núi nói chung có độ màu mỡ cao nếu mới được khai phá hoặc
được sử dụng hợp lý. Tuy nhiên, độ màu mỡ của đất đồi núi phụ thuộc nhiều
vào thành phần đá mẹ, độ dốc, thảm thực vật hoặc rừng che phủ hoặc vào dòng
chảy của nước mưa. Đã từ lâu qua quá trình chặt phá rừng, khai thác đất trồng
trọt, người ta đã phát hiện đất đồi núi rất nhanh chóng bị suy thoái do hiện
tượng đất bị xói mòn rửa trôi. Vì vậy từ thế kỷ 18 bắt đầu xúc tiến các công
trình nghiên cứu các biện pháp chống xói mòn bảo vệ đất dốc (Volni,1870; các
giáo sư trường Đại học Pardin Mỹ, từ 1951 đến 1958, các nghiên cứu quốc tế

của nhiều nước 1980, chương trình IBSRAM, CIAT, thập kỷ 90).
Để bảo vệ đất dốc, nhiều nước trên thế giới sử dụng cây cỏ 3 lá vào hệ
thống cây trồng, hoặc đưa cây đậu tương vào trồng xen với ngô, hoặc trồng
theo đường đồng mức.
Từ những năm thập kỷ 80-90, hệ thống nông lâm kết hợp và đa dạng
hoá cây trồng trên đất đồi núi đã được thử nghiệm và lan rộng khắp nơi bởi
18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tính ưu việt về sử dụng đất bền vững và hiệu quả của hệ thống này. Năm
1983, ICRAF đã đưa ra định nghĩa khá hoàn hảo về hệ thống nông lâm kết
hợp: ''Đó là hệ thống sử dụng đất bao gồm các cây gỗ lâu năm và các cây
nông nghiệp hàng năm hoặc cây thức ăn gia súc, hoặc cả hai trên cùng một
mảnh đất đồng thời hay luân phiên với mục đích cho sản phẩm tối đa và duy
trì sản xuất lâu bền do bảo vệ và tăng cường được độ màu mỡ đất.
Bên cạnh những nghiên cứu kỹ thuật về sử dụng hiệu quả và bảo vệ
chống suy thoái đất dốc, ngày nay sử dụng đất đồi núi bền vững còn đặc biệt
chú trọng đến khía cạnh phát triển kinh tế và xã hội vùng đồi núi nhằm đảm
bảo một hệ thống sử dụng đất bền vững cho đất dốc nói riêng và đất vùng đồi
núi nói chung. Nhóm công tác về "Khung đánh giá đất dốc bền vững
(Nairobori, 1991) đã nêu lên quan điểm" Quản lý bền vững đất đai bao gồm tổ
hợp các công nghệ, chính sách và các hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý
kinh tế xã hội với các quan tâm môi trường để đồng thời (a) duy trì hoặc nâng
cao sản lượng (hiệu quả sản xuất), (b) giảm rủi ro sản xuất (an toàn), (c) bảo vệ
tiềm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thoái hoá đất và nước (bảo vệ), (d)
có hiệu quả lâu dài (lâu bền) và (e) được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận).
* Kinh nghiệm của các nước Đông Nam Á
Diện tích đất đồi núi ở khu vực Đông Nam Á được phân bố ở tất cả các
nước trong khu vực, trong đó nhiều nhất là ở Việt Nam (chiếm 75% tổng diện
tích toàn quốc) và ở Lào (chiếm 73% tổng diện tích toàn quốc). Phần lớn diện

tích đất đồi núi được sử dụng cho lâm nghiệp ( bảo tồn rừng tự nhiên hoặc
trồng rừng khai thác, rừng sinh thái) cũng như được khai thác trồng các loại
cây công nghiệp, cây ăn quả dài ngày. Một phần nhỏ diện tích đất đồi núi
dạng thung lũng, dốc thấp, bình nguyên, cao nguyên (địa hình thấp, khá bằng
phẳng hoặc lượn sóng, thuận lợi cho canh tác thì được sử dụng trồng hoa màu
lương thực. Đại bộ phận hệ thống canh tác vùng đồi núi là canh tác nước trời,
19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trừ diện tích lúa nước hai vụ dạng ruộng bậc thang hoặc diện tích trồng rau
ven bãi bồi các sông suối là sử dụng nước tưới.
Intosh J.L.Mc. (1990) [38] cũng đã chỉ ra những nhân tố kiềm chế sự
phát triển sản xuất hoa màu trên đất dốc. Đất dốc Đông Nam Á khác nhau rất
nhiều về địa hình, độ phì tự nhiên, tính chất lý hoá và sinh học. Sự mất độ phì
nhanh chóng là biểu hiện rõ nhất, thường đất khai hoang đưa vào sản xuất sau
2 – 3 năm thì mất độ phì vốn có và khả năng sản xuất. Nguyên nhân là sau khi
thảm thực vật bị phá bỏ, đất được cày bừa xới xáo, chất hữu cơ bị oxy hoá
nhanh và quá trình rửa trôi xảy ra mạnh. Trên đất dốc, đất có thành phần sét
cao giữ được độ phì tốt hơn đất cát. Do đó trong quá trình canh tác, việc bảo
vệ độ phì và cải thiện độ phì bằng cách dùng phân chuống, phân xanh và đặc
biệt là sử dụng cây họ đậu để cải thiện tính chất đất là yếu tố quan trọng quyết
định đến năng suất cây trồng.
“Sử dụng, quản lý đất dốc Châu Á” là tên gọi một mạng lưới của Tổ
chức quốc tế về nghiên cứu và quản lý đất dốc (IBSRAM) (Sajjapongse
A.,1993) [41]. Tổ chức này đã thực hiện nghiên cứu, quản lý đất dốc để phát
triển nông nghiệp ở 7 nước Châu Á: Indonesia, Malaisia, Philippines, Thái Lan,
Trung Quốc và Việt Nam. Thực trạng chung của các nước này là canh tác trên
đất dốc không hợp lý làm cho đất bị xói mòn rửa trôi dẫn đến thoái hoá.
Kết quả nghiên cứu bước đầu của IBSRAM cho thấy canh tác trên đất
dốc phải có mô hình cây trồng và kỹ thuật phù hợp để vừa thu được năng suất

cao vừa bảo vệ đất dốc, bảo vệ môi trường. Một yếu tố quan trọng mà các
nghiên cứu trong hệ thống này đề cập là các biện pháp kỹ thuật muốn được
nông dân áp dụng phải là biện pháp có hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, với
các hộ dân nghèo thì cần phải xem xét mức đầu tư tiền mặt cho phù hợp.
* Kinh nghiệm của Indonesia
20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Theo nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống canh tác trên đất dốc của
Intosh J.L.Mc. (1990) [38] ở Indonesia và nhiều nơi khác những vùng đất
nông nghiệp rộng lớn chỉ thích hợp cho hoa màu cạn, tài nguyên đất dốc chưa
được sử đúng mức và trong nhiều trường hợp còn bị lãng phí. Ở Indonesia có
khoảng 15 – 20 triệu ha đất dốc địa hình lượn sóng nhẹ có thể trồng hoa màu
nhưng chưa được khai thác sử dụng có hiệu quả.
Samfujika (1996) [32] nghiên cứu biện pháp chống xói mòn ở
Indonesia cho thấy phương pháp làm ruộng bậc thang rất hiệu quả trong việc
hạn chế xói mòn, rửa trôi nhưng rất tốn công. Vì vậy họ đã nghiên cứu các
biện pháp khác. Một trong những biện pháp đó là làm đất tối thiểu, lên luống
và ủ đất. Tuy nhiên, mỗi phương pháp đều có những mặt hạn chế.
Nghiên cứu của Bell L.C. (1986) [34] sử dụng phân xanh, phân chuồng
và các loại phân hữu cơ hoặc chế, phụ phẩm nông nghiệp đã làm tăng lân dễ
tiêu cho cây dễ hấp thụ, đồng thời làm giảm độ độc nhôm và sắt. Trong dung
dịch đất, các axits hữu cơ tạo phức với kim loại Al, Fe. Chúng tồn tại ở dạng
phức hữu cơ – nhôm, hữu cơ - sắt trong dung dịch đất không độc đối với
cây trồng.
1.1.2.3. Tình hình canh tác trên đất dốc ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết, diện tích đất đồi núi nước ta chiếm gần 3/4 diện
tích toàn quốc, khoảng 23,9 triệu ha, do vậy, sử dụng đất đồi núi sản xuất
nông lâm nghiệp chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế. Canh tác
trên đất dốc với hình thức canh tác nương rẫy là một hình thức sản xuất nông

nghiệp nguyên thuỷ của vùng nhiệt đới, giữ vị trí quan trọng trong đời sống
vật chất và tâm linh của con người, là biểu hiện của mối quan hệ gắn bó giữa
con người và thiên nhiên. Ở nước ta, phần lớn diện tích đất canh tác nương
rẫy được tiến hành trên đất có độ dốc > 25
0
với cây trồng chủ yếu là cây
21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
lương thực như lúa nương, ngô, sắn. Do đó canh tác nương rẫy vẫn còn là
hình thức canh tác phổ biến và quan trọng của nhiều nhóm dân tộc sinh sống
ở vùng cao, nơi mà cuộc sống ở đó còn nhiều khó khăn, an toàn lương thực
vẫn còn là vấn đề khó giải quyết; sản xuất nông nghiệp ít được đầu tư, chưa
được quan tâm và còn phụ thuộc nhiều vào việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên sẵn có.
Tình hình đất canh tác nương rẫy có nhiều biến động theo các thời kỳ
phát triển của đất nước. Giai đoạn 1943 đên 1960 rừng Việt Nam vẫn còn
nhiều (tỷ lệ che phủ đạt 43,8%), rừng chưa được quản lý. Đây là giai đoạn
hưng thịnh nhất của nền nông nghiệp du canh thế kỷ XX. Người dân tự do
phát rừng làm rẫy nên đời sống đồng bào no đủ. Giai đoạn sau 1960, dân số
tăng nhanh nên đời sống của người dân miền núi trở lên khó khăn, thiếu đói
hơn giai đoạn trước. Thiếu lương thực, đồng bào bắt đầu gia tăng việc phát
rừng, đốt nương làm rẫy và nạn phá rừng trở nên trầm trọng. Đến năm 1990
thì diện tích đất trống đồi núi trọc của nước ta lên đến đỉnh điểm là 11,768
triệu ha (35,7% đất tự nhiên), do thiếu đất canh tác nên thời gian bỏ hóa bị rút
ngắn và hiện tượng du canh vẫn tiếp tục xảy ra. Giai đoạn sau 1990, nhờ có sự
đầu tư tái trồng rừng của Chính phủ và việc áp dụng rộng rãi các kỹ thuật tiến
bộ trong thâm canh đất thung lũng và đất ruộng bậc thang nên sức ép khai
thác đất dốc đã giảm, độ che phủ rừng dần được phục hồi. Năm 2003, theo số
liệu của tổng cục thống kê thì diện tích đất có rừng đã đạt 12,05 triệu ha

(36,5% đất tự nhiên). Tuy nhiên, ở nhiều nơi, do không có đất bằng nên nông
dân miền núi vẫn phải dựa vào đất dốc để sản xuất lương thực và vẫn mang
đậm phương thức canh tác nương rẫy truyền thống.
Từ những năm của thập kỷ 80 và 90 đến nay, các chương trình nghiên
cứu và sử dụng đất đồi núi tập trung vào các dự án đánh giá đất và xây dựng

×