Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Đánh giá mức bằng lòng trả cho công tác quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt của các hộ dân tại khu vực phường đại kim hoàng mai hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.71 KB, 93 trang )

Phần I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ô nhiễm môi sinh là một trong những mối lo ngại hàng đầu của nhân
loại hiện nay. Và nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, dân số tại các vùng
đô thị, trung tâm công nghiệp càng tăng nhanh thì môi trường càng bị đe doạ.
Với tình trạng môi trường sống bị các chất hóa học hay sinh học làm ô nhiễm
gây ảnh hưởng đến sức khỏe và sự sống của muôn loài mà nạn nhân chính so với
vô số nạn nhân của nó là con người và chính con người cũng là thủ phạm gây ra
nó. Và tổ chức y tế thế giới (WHO) đưa ra số liệu: hàng năm có khoảng 5 triệu
người (trong đó có 4 triệu trẻ em) chết vì các bệnh liên quan tới rác trên hành
tinh chúng ta. ở Việt Nam, ô nhiễm do rác gây ra còn nguy hại hơn nhiều quốc
gia khác. Trong khi đó, lâu nay tồn tại tâm lý thờ ơ với những nguy cơ từ rác.
Ở các thành phố, nước thải sinh hoạt đã trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận
như sông, hồ, kênh, mương mà không có hệ thống xử lý tập trung. Mặt khác,
những cơ sở sản xuất chẳng những đã không xử lý nước thải mà ngay cả phần
lớn các cơ sở y tế và bệnh viện vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải. Ngoài ra
còn có một lượng rác thải rắn không nhỏ khác trong thành phố có nguy cơ gây ô
nhiễm đã không thu gom hết được v.v… là những nguồn quan trọng gây ra ô
nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành
phố lớn là rất nặng gây ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống con người: ô nhiễm môi
trường gây nên bậnh tật, làm giảm sức khoẻ cộng đồng, chiếm đất đai để chôn
lấp làm bãi rác, làm mất cảnh quan khu dân cư, đô thị…Đến năm 2005 Hà Nội
có hơn 850 nghìn tấn rác thải và đến năm 2020 con số này sẽ lên tới 1 triệu 600
nghìn tấn, đây là dự đoán mà Sở KHCN&MT Hà Nội đưa ra. Con số thực tế lúc
đó nhiều khả năng sẽ còn cao hơn. Người dân chưa có thói quen phân loại rác
thải tại nhà, nếu có ý thức cho rác vào túi mới đi vứt, thì cũng dồn nhiều loại rác

1


vào một túi. Tiền phí dịch vụ thu dọn rác quá thấp so với thực tế, và tất nhiên là


tiền xử lý rác thải lấy từ ngân sách Nhà nước.
Khu vực Đại Kim cũng nằm trong thực trạng trên. Đây là khu vực có tốc
độ phát triển kinh tế nhanh, mật độ dân số tăng vì vậy một lượng lớn rác thải gây
ảnh hưởng xấu đến môi trường. Nguyên nhân là chủ yếu là do người dân chưa
có ý thức được mối nguy hại của rác thải tới môi trường và sức khoẻ của họ nên
việc xả thải còn bừa bãi, không đúng nơi quy định. Bên cạnh đó việc thu gom và
xử lý rác thải do các cơ quan chức năng thực hiện vẫn chưa được tốt cũng là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng môi trường bị ảnh hưởng. Chính vì
vậy cần có những giải pháp để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người dân
cũng cũng như các bộ phận có liên quan tới môi trường khu vực nhằm hạn chế
mức độ ô nhiễm môi trường do rác thải tại khu vực Đại Kim. Xuất phát từ thực
tế trên chúng tôi nghiên cứu đề tài “Đánh giá mức bằng lòng trả cho công tác
quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt của các hộ dân tại khu vực phường Đại
Kim - Hoàng Mai - Hà Nội”.
1.1 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CUẢ ĐỀ TÀI
1.1.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng công tác thu gom và quản lý rác thải
rắn sinh hoạt tại khu vực phường Đại Kim đề tài đánh giá mức bằng lòng trả
cho công tác quản lý rác thải của các hộ dân tại khu vực phường Đại Kim Hoàng Mai - Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả và chất
lượng môi trường.
1.1.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề môi trường và rác
thải gây ô nhiễm môi trường.
- Phản ánh thực trạng ô nhiễm môi trường, nguyên nhân, ảnh hưởng,
thuận lợi và khó khăn trong công tác quản lý thu gom rác thải tại khu vực
phường Đại Kim - Hoàng Mai - Hà Nội.

2



- Phân tích đánh giá mức chi trả cho công tác quản lý rác thải tại địa
bàn nghiên cứu.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
môi trường và quản lý thu gom rác thải tại khu vực.
1.2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.2.1 Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề về rác thải ô nhiễm môi trường của khu vực
phường Đại Kim. Chủ đề nghiên cứu trực tiếp là những hộ dân sống tại địa
bàn nghiên cứu.
1.2.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung:
Đánh giá mức chi trả cho công tác quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt
tại khu vực phường Đại Kim.
Xây dựng mục tiêu và đưa ra một số giải pháp chủ yếu để giảm thải
mức ô nhiễm môi trường.
- Phạm vi về không gian
Nghiên cứu đánh giá mức chi trả tại khu vực phường Đại Kim - Hoàng
Mai - Hà Nội.
- Phạm vi về thời gian
Đề tài thực hiện dựa vào thu thập tài liệu có liên quan đến các nội dung
nghiên cứu từ năm 2007- 2009.

3


Phần II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Một số lý luận cơ bản về môi trường và chất thải
2.1.1.1 Khái niệm cơ bản về môi trường
Môi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách

khác nhau. Có một số định nghĩa sau:
Một định nghĩa nổi tiếng của S.V.Kalesnik (1959-1970): “Môi trường
chỉ là một bộ phận của trái đất bao quanh con người, mà ở một thời điểm nhất
định xã hội loài người có quan hệ tương hỗ trực tiếp với nó, nghĩa là môi
trường có quan hệ một cách gần gũi nhất với đời sống và hoạt động sản xuất
của con người”
Một số định nghĩa khác của viện sĩ I.P Gheraximov (1972) đã đưa ra
định nghĩa môi trường như sau: “ Môi trường bao quanh là khung cảnh của
lao động, của cuộc sống riêng tư và nghỉ ngơi của con người”, trong đó môi
trường tự nhiên là cơ sở cần thiết cho sự sinh tồn của nhân loại.
Trong quyển “Địa lý hiện tại, tương lai. Hiểu biết về quả đất, hành tinh
của chúng ta, Magnard. P, 1980”, đã nêu ra khá đầy đủ khái niệm môi trường:
“ Môi trường là tổng hợp ở một thời điểm nhất định - các trạng huống vật lý,
hoá học, sinh học và các yếu tố xã hội có khả năng gây ra một tác động trực
tiếp hay gián tiếp, tức thời hay theo kỳ hạn, đối với các sinh vật hay đối với
các hoạt động của con người”.
Trong tuyên ngôn của UNESCO năm 1981, môi trường được hiểu là
“Toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung
quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình, đã
khai thác các tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn các nhu
cầu của con người”.

4


“Luật bảo vệ môi trường” đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam khoá IX, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 27/12/1993 định nghĩa khái niệm
môi trường như sau: “ Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật
chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh
hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên

nhiên” (Điều 1. Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam).
Để thống nhất về mặt nhận thức chúng ta sử dụng định nghĩa theo Luật
bảo vệ môi trường được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kỳ họp thứ tám thông qua ngày 29/11/2005 định nghĩa: “ Môi trường
bao gồm yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người có ảnh hưởng
tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”.
Ngày nay người ta đã thống nhất với nhau về định nghĩa: “ Môi trường
là các yếu tố vật chất tự nhiên hay nhân tạo, lý học, hoá học, sinh học cùng
tồn tại trong một không gian xung quanh con người. Các yếu tố đó có quan hệ
mật thiết, tương tác lẫn nhau và tác động lên các cá thể sinh vật hay con người
để cùng tồn tại và phát triển. Tổng hoà của các chiều hướng phát triển của
từng nhân tố này quyết định chiều hướng phát triển của cá thể sinh vật của hệ
sinh thái và xã hội con người”.
2.1.1.2 Khái niệm môi trường sống
Đối với các cơ thể sống thì môi trường sống là tổng hợp những điều
kiện bên ngoài như vật lý, hoá học, sinh học có liên quan đến sự sống. Nó có
ảnh hưởng đến đời sống, sự tồn tại và phát triển của các cơ thể sống. Những
điều kiện đó chỉ có trên trái đất, trình độ khoa học hiện nay chưa xác định
được các hành tinh nào khác trong vũ trụ có môi trường phù hợp cho sự sống.
Môi trường sống của con người là tổng hợp các điều kiện vật lý, hoá
học, sinh học, xã hội bao quanh con người và có ảnh hưởng đến sự sống và
phát triển của từng cá nhân, từng cộng đồng và toàn bộ loài người trên hành

5


tinh. Như vậy, nếu so sánh giữa môi trường sống và môi trường sống của con
người thì môi trường sống của con người đòi hỏi những điều kiện ràng buộc
nghiêm ngặt hơn. Như vậy, trên hành tinh trái đất không gian môi trường
sống của con người cũng bị thu hẹp hơn.

Không gian sống của con người biểu hiện qua chất lượng cuộc sống.
khi không gian đó không đầy đủ cho yêu cầu cuộc sống thì chất lượng cuộc
sống bị đe doạ. Từ môi trường, con người khai thác tài nguyên để sản xuất ra
các sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống của mình. Ngoài ra môi
trường còn đem lại cho con người các giá trị tinh thần: cảnh quan, thoải mái
về tinh thần, nâng cao thẩm mỹ,… nghĩa là môi trường đã đem lại cho con
người nguồn phúc lợi.
2.1.1.3 Khái niệm về ô nhiễm môi trường
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất
thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức
khỏe con người, đến sự phát triển của sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng
môi trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải),
lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hóa chất hoặc tác nhân vật lý, sinh
học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được xem là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm
lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác
động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
Ô nhiễm sơ cấp: là ô nhiễm nguồn do chất thải từ nguồn thải trực tiếp
vào môi trường gây ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm thứ cấp: là ô nhiễm được tạo thành từ ô nhiễm sơ cấp đã biến
đổi qua trung gian rồi mới thải vào môi trường.

6


Nhiễm bẩn: là trường hợp môi trường xuất hiện các chất lạ làm thay đổi
thành phần vi lượng, hoá học, sinh học của môi trường nhưng chưa đến mức
làmt thay đổi tính chất chất lượng của môi trường thành phần.
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh
con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại phát triển của con

người và sinh vật. Ảnh hưởng của môi trường đối với con người rất đa dạng,
có thể tốt, có thể xấu. Một trong những ảnh hưởng sâu sắc nhất cần được tính
đến đó là những ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người. Các yếu tố gây ô
nhiễm có thể được tích luỹ lâu dài trong môi trường, ví dụ kim loại nặng, dư
lượng thuốc bảo vệ thực vật..., cũng có thể làm lan truyền trong môi trường
mà không được lưu lại như tiếng ồn, độ rung... Như vậy, trên bình diện sức
khỏe, khái niệm “ô nhiễm môi trường” là một khái niệm mềm và mờ, đó
không phải là khái niệm cứng và rạch ròi nên hay gây tranh luận trong cộng
đồng và là một khe hở để người gây ô nhiễm tìm cách trốn tránh trách nhiệm
hoặc kéo dài thời gian điều tra đánh giá mức độ và nguyên nhân ô nhiễm. Để
xác định ô nhiễm môi trường, chỉ có số liệu của những phòng phân tích được
Nhà nước đầu tư và chứng nhận đủ khả năng phân tích mới có cơ sở pháp lý
để yêu cầu trách nhiệm của phía gây ô nhiễm. Những số liệu phân tích của
các phòng thí nghiệm khác không có sự ủy quyền của Nhà nước (ví dụ như
của một số trường đại học, Viện nghiên cứu, Trung tâm nghiên cứu) chỉ có
giá trị cảnh báo và nghiên cứu.
Và khái niệm ô nhiễm môi trường được nhiều nhà khoa học định nghĩa:
Dưới góc độ sinh học khái niệm này chỉ tình trạng môi trường trong đó
chỉ số hoá học, lý học của nó thay đổi theo chiều hướng xấu đi.
Dưới góc độ kinh tế học, ô nhiễm môi trường là sự thay đổi không có
lợi cho môi trường sống về các tính chất vật lý, hoá học, sinh học mà qua đó
có thể gây tác hại tức thời hay lâu dài đến sức khoẻ con người, các động thực
vật hoặc các điều kiện sống khác.

7


2.1.2 Khái niệm về chất thải
Chất thải ra môi trường là các chất thải sau sản xuất hay tiêu dùng của
hoạt động kinh tế được đưa trực tiếp vào môi trường, khi vượt quá khả năng hấp

thụ của môi trường chúng sẽ làm thay đổi chất lượng môi trường ở vùng xung
quanh, gây ra thiệt hại cho con người và sinh vật trong vùng bị ảnh hưởng.
Chất thải là những vật chất, trong một quá trình sản xuất nào đó không
còn khả năng sử dụng nữa (giá trị sử dụng bằng không) và bị loại ra từ quá
trình sản xuất đó. Quy trình này có thể là quy trình sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp, hoạt động du lịch, giao thông vận tải. Chất thải ra từ hoạt động
đời sống, từ khu dân cư và cả các hoạt động du hành vũ trụ cũng đều là chất
thải. Chất thải của một quá trình sản xuất này chưa hẳn đã phải là chất thải
của quá trình sản xuất khác, thậm chí nó còn có thể là nguyên liệu cho quá
trình sản xuất tiếp theo. Chất thải có thể ở dạng khí, lỏng hoặc rắn. Chất thải
rắn còn được gọi là rác, ngay trong vũ trụ cũng có chất thải gọi là rác vũ trụ,
đó là những mảnh vỡ của các vệ tinh, các mảnh tên lửa bị loại bỏ.
Rác và chất thải tự bản thân nó có thể chưa gây ô nhiễm hoặc mới ở
mức làm bẩn môi trường, nhưng qua tác động của các yếu tố môi trường, qua
phân giải, hoạt hoá mà chất thải mới trở nên ô nhiễm và gây độc. Rác hữu cơ
thì bị lên men gây thối và độc. Nước thải chứa hoá chất làm ô nhiễm đất, ô
nhiễm nước mặt, nước ngầm, chất thải phóng xạ gây ô nhiễm phóng xạ, hầu
như ở đâu có sinh vật sống là ở đấy có chất thải, hoặc ở dạng này hoặc ở dạng
khác. Vì vậy, chỗ nào càng tập trung sinh vật và con người và hoạt động của
họ càng cao thì chất thải càng nhiều.
2.1.2.1 Nguồn phát sinh chất thải rắn
Những nguồn phát sinh chất thải rắn chủ yếu là:

8


- Hộ gia đình: rác thải phát sinh từ những thực phẩm thừa, carton,
plastic, vải, da, gỗ vụn, thuỷ tinh, kim loại, tro bếp, lá cây, các chất thải đặc
biệt (đồ điện, điện tử hỏng, pin, lốp xe,…) và các chất thải độc hại.
- Thương mại: Rác phát sinh từ các nhà kho, quán ăn, chợ, văn phòng,

khách sạn, trạm xăng chủ yếu là đồ ăn thừa, dầu mỡ, giấy báo…
- Cơ quan (trường học, bệnh viện, cơ quan hành chính…) Rác thải ở
đây giống như rác thải thương mại.
- Xây dựng: các công trình mới, tu sửa từ nhà ở đến công viên, trường học,
bệnh viện, khách sạn chủ yếu là vôi vữa bê tông, gạch, thép, cốt pha…
- Dịch vụ công cộng: rửa đường, rác du lịch (rác công viên, bãi biển,
các danh lam thắng cảnh…)
- Công nghiệp: công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ đều phát sinh ra rác
thải, chất thải như giấy vụn, …
- Nông nghiệp: các hoạt động nông nghiệp cũng là nguồn phát sinh
chất thải như đốt tro, thuốc trừ sâu,…
2.1.3 Phân loại chất thải chất thải rắn
Rác thải được phân loại theo nhiều cách khác nhau:
+ Theo bản chất nguồn tạo thành, rác thải được phân thành các loại:

9


Bệnh Viện, Trường
học,Cơ quan
Dịch vụ
Công cộng

Người Dân

Rác thải
Xây Dựng

Thương Mại


Nông Nghiệp,
HĐXL rác thải

Khu CN, nhà
máy XN
Hình 1: Phân nguồn rác thải

- Rác sinh hoạt: là chất thải rắn được sản sinh trong sinh hoạt của con
người, nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư sinh sống trên địa bàn.
- Rác thải ở bệnh vện, cơ quan, trường học: là chất thải được sản sinh
trong quá trình học tập ở nhà trường, quá trình làm việc trong cơ quan, rác
thải trong bệnh viện chủ yếu là rác thải qua quá trình chữa và điều trị bệnh
cho bệnh nhân, rác thải này đặc biệt nguy hại có nhiều khả năng lây lan nếu
như không ngăn ngừa và xử lý tốt.
- Rác thải từ dịch vụ thương mại: là loại rác thải sản sinh trong quá
trình trao đổi hàng hoá giữa người với người.
- Rác thải công nghiệp: là chất thải rắn của các cơ sở sản xuất (từ cá thể
thủ công đến công nghiệp nhà máy).
- Rác thải xây dựng : là các phế thải như cát đá, bê tông, vôi vữa… do
các hoạt động phá vỡ công trình, xây dựng công trình.

10


- Rác thải nông nghiệp là những chất thải được thải ra từ các hoạt
động nông nghiệp. Ví dụ: trồng trọt chăn nuôi, thu hoạch các loại cây trồng,
các sản phẩm chế biến từ sữa…
Rác thải sinh hoạt chiếm tỷ lệ lớn nhất trong ba loại rác thải trên. Ta
biết rằng lượng rác thải sinh hoạt thải ra phụ thuộc vào hai yếu tố chính đó là
sự phát triển kinh tế và tỷ lệ gia tăng dân số.

+ Theo mức độ nguy hại rác thải được phân thành:
- Rác thải nguy hại: bao gồm các loại hoá chất dễ cháy gây phản ứng
độc hại, chất thải sinh hoạt để thối rữa, các chất dễ cháy nổ hoặc các chất
phóng xạ, các chất nhiễm khuẩn lây lan…có nguy cơ đe doạ sức khoẻ con
người và sinh vật.
- Rác thải y tế nguy hại: là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất
có những đặc tính nguy hại trực tiếp hoặc có khả năng tương tác với các chất
khác gây nguy hại tới sức khoẻ cộng đồng và môi trường. Theo quy chế quản
lý chất thải y tế, các loại chất thải y tế nguy hại được phát sinh từ các hoạt
động chuyên môn trong các bệnh viện, trạm y tế.
- Rác thải không nguy hại: là những loại chất thải không chứa các
chất và hợp chất gây nguy hại trực tiếp và có khả năng tương tác thành phần.
2.1.4 Tác động của rác thải đến môi trưòng
* Rác làm ô nhiễm môi trường đất
Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả các hoạt động của con người lam
thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của các quần
xã sống trong đất.
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật
cạn, là nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn
hóa của con người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng

11


tài nguyên đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung
cấp lương thực thực phẩm cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số
và tốc độ phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện
tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái,
diện tích đất bình quân đầu người. Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy
thoái tài nguyên đất là rất đáng lo ngại.

Các chất thải hữu cơ còn được phân huỷ trong môi trường đất trong hai
điều kiện yếm khí và háo khí, khi có độ ẩm thích hợp qua hàng loạt sản phẩm
trung gian cuối cùng tạo ra các chất khoáng đơn giản, các chất H20, CO2.
Nếu là yếm khí thì sản phẩm chủ yếu là CH4, H2O, CO2 gây độc cho môi
trường. Với một lượng vừa phải thì khả năng làm sạch của môi trường đất
khiến rác không trở thành ô nhiễm nhưng với một lượng rác quá lớn thì môi
trường đất sẽ trở nên quá tải và bị ô nhiễm. Ô nhiếm này sẽ cũng với ô nhiễm
kim loại nặng, chất độc hại theo nước trong đất chảy xuống mạch nước ngầm,
làm ô nhiễm nước ngầm. Khi nước ngầm bị ô nhiễm thì không còn cách gì
cứu chữa được.
*Rác làm ô nhiễm môi truờng nước:
Các chất thải rắn, nếu là chất thải hữu cơ, trong môi trường nước sẽ bị
phân huỷ một cách nhanh chóng. Phần nổi lên mặt nước sẽ có quá trình
khoáng hoá chất hữu cơ để tạo ra các sản phẩm trung gian sau đó là những
sản phẩm cuối cùng là chất khoáng và nước. Phần chìm trong nước sẽ có quá
trình phân giải yếm khí để tạo ra các hợp chất trung gian và sau đó là những
sản phẩm cuối cùng như CH4, H2S, H2O, CO2. Tất cả các chất trung gian
đều gây mùi thối và độc nhất. Bên cạnh đó còn bao nhiêu vi trùng và siêu vi
trùng làm ô nhiễm nguồn nước.
Nếu rác thải là những chất kim loại thì nó gây nên hiện tượng ăn mòn
trong môi trường nước. Sau đó quá trình ôxy hoá có ôxy và không có ôxy

12


xuất hiện, gây nhiễm bẩn cho môi truờng nước, nguồn nước. Những chất thải
độc như Hg, Pb hoặc các chất thải phóng xạ còn nguy hiểm hơn.
* Rác làm ô nhiễm môi trường không khí:
Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan
trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra

sự tỏa mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa do bui.
Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế
giới chứ không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang
có nhiều biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật.
Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí
đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải
khác nhau, làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng.
Hàng năm có:
- 1,53 triệu tấn SiO2
- Hơn 1 triệu tấn niken
- 700 triệu tấn bụi
- 1,5 triệu tấn asen
- 900 tấn coban
- 600.000 tấn kẽm (Zn), hơi thuỷ ngân (Hg), hơi chì (Pb) và các chất
độc hại khác.
Các chất thải rắn này thường có bộ phận có thể bay hơi và mang theo
mùi làm ô nhiễm không khí. Cũng có chất thải có khả năng thăng hoa và phát
tán vào không khí gây ô nhiễm trực tiếp. Cũng có loại rác, trong điều kiện
nhiệt độ và độ ẩm thích hợp (35 độ C và độ ẩm 70 – 80 %) sẽ có quá trình
biến đổi nhờ hoạt động của vi sinh vật. Kết quả của quá trình là gây ô nhiễm
không khí.

13


*Nước rò rỉ từ bãi rác và tác hại của chúng:
Ở những bãi rác và những đống rác lớn mà trong rác có một lượng
nước nhất định hoặc mưa xuống làm nước ngấm vào rác thì tạo ra một loại
nước rò rỉ. Trong nước rò rỉ chứa những chất hoà tan, những chất lơ lửng,
chất hữu cơ và nấm bệnh. Khi nước này ngấm vào đất làm ô nhiễm môi

trường đất trầm trọng. Mặt khác, nó cũng làm ô nhiễm nguồn nước thổ
nhưỡng và nước ngầm.
2.1.5 Lý luận về quản lý và xử lý rác thải
2.1.5.1 Khái niệm và nội dung công tác quản lý chất thải
Theo nghị định số 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn thì: hoạt
động quản lý chất thải rắn bao gồm các hoạt động quy hoạch quản lý, đầu
tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn, hoạt động phân loại, thu gom, lưu
giữ vận chuyển, tái sử dụng tái chế và xử lý chất thải rắn nhằm ngăn ngừa
giảm thải những tác động có hại đối với môi trường và sức khoẻ của con
người. Quản lý chất thải là các hoạt động phân loại rác, thu gom vận
chuyển, tái sản xuất, tái chế và cuối cùng là xử lý và tiêu huỷ. Mỗi công
đoạn đều có vai trò quan trọng, có tính quyết định trong công việc tạo lập
một hệ thống quản lý chất thải hiệu quả nhằm giảm thiểu rủi ro đối với môi
trường và sức khoẻ con người.
Mặc dù những năm gần đây hoạt động của nhiều công ty môi trường
đô thị tại địa phương đã có những tiến bộ, phương thức tiêu huỷ chất thải
được cải tiến nhưng chất thải vẫn là mối hiểm hoạ đối với sức khoẻ con người
và môi trường.

14


* Xử lý rác thải
Nguồn Psinh CT

Gom nhặt, tách và lưu trữ tại nguồn

Thu gom

Tách, xử lý & tái

chế

Chung chuyển,& vận
chuyển

Tiêu huỷ
Hình 2 : Những hợp phần chức năng của một hệ thống quản lý chất thải

- Hệ thống thu gom và xử lý rác thải
Thu gom ở trong nhà, trong công xưởng, nhà máy sản xuất.
Hệ thống thu gom rác ở bên ngoài bằng các thùng đựng rác và hệ thống
gom rác để đổ vào các xe chở rác. Tuy nhiên hệ thống thu gom rác ở từng
vùng, từng miền, từng nước sẽ khác nhau.
+ Ở Cộng hoà Liên bang Đức người ta thu gom chất thải và rác thải
bằng cách ở mỗi tụ điểm rác, người ta để ba thùng nhựa có bánh xe, mỗi
thùng đựng một loại rác nhất định: giấy vụn, chai lọ thuỷ tinh và các tạp bẩn.
Người xả rác bỏ mỗi loại rác vào một túi nilon mỏng chuyên dụng bán sẵn.

15


Người công nhân thu gom rác có mức lương cao hơn mức lương của công nhân
đi làm ở trong các nhà máy. Các công ty sản xuất vật dụng vệ sinh công cộng, kể
cả các túi đựng rác, được giảm hoặc miễn thuế. Nhà nước bù lỗ nâng đỡ những
nhà máy chế biến rác, làm cho ngành này phát triển để bảo vệ môi trường.
+ Ở Hàn Quốc mỗi hộ gia đình bỏ rác vào một túi nhựa đặc biệt có sẵn,
một loại túi nhựa có khả năng tự huỷ sinh học. Lệ phí thu gom có thể tính vào
trong giá thể tích rác, có thể có chênh lệch lệ phí giữa các vùng dân cư, chênh
lệch này được quyết định bởi chính quyền địa phương.
- Hệ thống vận chuyển rác

Hệ thống vận chuyển gồm nhiều phương tiện khác nhau: ngoài trục
đường lớn, thành phố thì có những xe côngtennơ vận chuyển, còn trong những
hẻm nhỏ thì có những xe đẩy thô xơ và có nhân viên thu gom rác bằng phương
pháp thủ công. Ở những nước tiên tiến phát triển thì họ có cả một hệ thống thu
gom rác đặc biệt như hệ thống xe chuyên thu gom, quét rác, vận chuyển.
Các phương pháp xử lý rác thải
- Ủ rác thành phân bón hữu cơ
Ủ rác hữu cơ thành phân bón là một phương pháp phổ biến ở các quốc
gia đang phát triển. Ủ rác sinh hoạt có thành phần hữu cơ có thể phân huỷ
được còn tiến hành ngay ở các nước phát triển (quy mô hộ gia đình) để bón
vườn cây cho nhà mình. Phuơng pháp này giảm được đáng kể khối lượng rác
ngoài ra còn tạo ra của cải vật chất giúp ích cho công tác cải tạo đất.Công
nghệ ủ được chia thành hai loại:
+ Ủ hiếu khí
Ủ hiếu khí là công nghệ được sử dụng rộng rãi vào khoảng hai thập kỉ
gần đây, đặc biệt ở các nước đang phát triển như Việt Nam, Trung Quốc.
Công nghệ này dựa trên hoạt động của các vi khuẩn hiếu khí với sự có mặt

16


của ôxy. Các vi khuẩn hiếu khí có trong thành phần rác khô thực hiện trong
quá oxy hoá cacbon thành đioxitcarbon (CO2). Thường thì chỉ sau hai ngày,
nhiệt độ rác ư tăng lên khoảng 45 độ C. Nhiệt độ này đạt được chỉ với điều
kiện duy trì môi trường tối ưu cho vi khuẩn hoạt động, quan trọng nhất là
không khí và độ ẩm.
Sự phân huỷ hiếu khí diễn ra khá nhanh, chỉ sau hai đến bốn tuần là rác
được phân huỷ hoàn toàn. Các vi khuẩn gây bệnh và côn trùng bị huỷ diệt do
nhiệt độ ủ nhiệt dâng cao. Bên cạnh đó mùi hôi cũng bị huỷ nhờ quá trình ủ
hiếu khí. Độ ẩm được duy trì tối ưu 40 – 55%, ngoài khoảng nhiệt độ này quá

trình phân huỷ sẽ bị chậm lại.
+ Ủ yếm khí
Công nghệ ủ yếm khí được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ (chủ yếu quy mô
nhỏ). Quá trình ủ yếm khí này nhờ vào sự hoạt động của các vi khuẩn yếm
khí. Công nghệ này không đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu tốn kém, song nó có
nhược điểm sau:
Thời gian phân huỷ lâu thường 4-12 tháng. Các vi khuẩn gây bệnh luôn
tồn tại cùng với quá trình phân huỷ vì nhiệt độ phân huỷ thấp. Các khí sinh ra
từ quá trình phân huỷ yếm khí là khí mêtan và khí sulphuahydro gây ra mùi
hôi khó chịu.
Mặc dù vậy, phải thừa nhận phương pháp ủ yếm khí là một biện pháp
xử lý rác thải rẻ tiền nhất. Sản phẩm phân huỷ có thể kết hợp rất tốt với phân
hầm cầu và phân gia súc (đôi khi cả than bùn) cho ta phân hữu cơ với hàm
lượng dinh dưỡng cao tạo độ xốp cho đất.
- Đổ thành đống hay bãi rác lộ thiên
Đây là phương pháp cổ điển đã được loài người áp dụng từ rất lâu. Từ
thời Hy Lạp và La Mã cổ đại người ta đã biết đổ rác bên ngoài tường các
thành luỹ lâu đài và ở cuối hướng gió. Cho đến nay phương pháp này vẫn

17


được áp dụng ở nhiều nước khác nhau trên thế giới nhưng phương pháp này
có nhiều nhược điểm sau:
Tạo cảnh quan khó coi, gây cảm giác khó chịu khi con người thấy hay
bắt gặp chúng. Và đống rác thải này là môi trường thuận lợi cho các loài động
vật gậm nhấm, các loài côn trùng, các vi sinh vật gây bệnh sinh sôi, nảy nở
gây nguy hiểm cho sức khoẻ con người. Các bãi rác lộ thiên bị phân huỷ lâu
ngày sẽ rỉ nước tạo nên vùng lầy lội, ẩm ướt và từ đó hình thành các các dòng
nước rò rỉ chảy thấm vào các tầng đất bên dưới, gây ô nhiễm nguồn nước

ngầm, hoặc tạo thành dòng chảy tràn, gây ô nhiễm nguồn nước mặt. Bãi rác lộ
thiên sẽ gây ô nhiễm không khí do quá trình phân huỷ rác tạo thành các khic
có mùi hôi thối, mặt khác các bãi rác lộ thiên còn có thêm hiện tượng “cháy
ngầm” hay có thể cháy thành ngọn lửa và tất cả các quá trình trên sẽ dẫn đến
nạn ô nhiễm không khí.
Có thể nói, đây là phương pháp không tốn chi phí xử lý mà chỉ tốn kém
trong việc thu gom và vận chuyển rác từ nơi phát sinh đến bãi rác. Tuy nhiên
phương pháp này lại đòi hỏi một diện tích bãi thải lớn, do vậy ở các thành phố
đông dân cư và quỹ đất khan hiếm thì nó lại trở thành phương pháp đắt tiền
cộng với những nhược điểm nêu trên.
- Bãi chôn rác vệ sinh
Phương pháp này được nhiều đô thị trên thế giới áp dụng trong quá
trình xử lý rác thải. Ví dụ ở Hoa Kỳ có trên 80% lượng rác thải đô thị được xử
lý bằng phương pháp này, hoặc ở nước Anh, Nhật Bản,…người ta cũng hình
thành bãi chôn rác thải vệ sinh theo kiểu này.
Phương pháp này được thực hiện bằng nhiều cách, mỗi ngày trải rác
thành lớp mỏng sau đó nén ép chúng lại bằng các loại xe cơ giới, sau cùng là
trải lên các lớp bị nén chặt một lớp mỏng khoảng 15cm. Công việc này cứ thế
tiếp tục như vậy. Phương pháp này có nhiều ưu điểm:

18


Do bị nén chặt và phủ đất lên trên nên loài côn trùng, chuột bọ, ruồi
muỗi khó có thể sinh sôi nảy nở. Và các hiện tượng cháy ngầm hay cháy bùng
khó có thể xảy ra, ngoài ra còn giảm thiểu được mùi hôi thối, ít gây ô nhiễm
không khí. Góp phần làm giảm nạn ô nhiễm nước ngầm và nước mặt. Chi phí
điều hành cho các bãi chôn rác không quá cao. Các bãi chôn sau khi bị phủ
đầy sẽ có thể xây dựng thành các công viên giáo dục, làm nơi sinh sống và
phát triển của các loài động thực vật, qua đó góp phần tăng cường tính đa

dạng sinh học cho các đô thị. Nơi đây các thế hệ trẻ có thể học hỏi về thế giới
sinh vật và các vấn đề sinh thái. Tuy nhiên việc hình thành các bãi chôn rác vệ
sinh cũng có một số nhược điểm sau:
Các bãi chôn đòi hỏi diện tích đất đai lớn. Một thành phố đông dân cư
với lượng rác thải lớn thì diện tích đất sử dụng làm bãi chôn càng lớn. Các lớp
đất phủ ở bãi chôn rác thường hay bị gió thổi mòn và phát tán đi xa. Các bãi
chôn thường tạo ra các khi mêtan hoặc khí hydrogen sufide độc hại có khả
năng gây cháy nổ hay gây ngạt. Tuy nhiên người ta có thể thu hồi khí mêtan
làm khí đốt và cung cấp nhiệt cho sinh hoạt.
- Đốt rác
Đốt rác ở đây được hiểu là đốt có sự kiểm soát các chất thải rắn có thể
đốt được. Tuy nhiên nó không chỉ đơn giản là việc đốt một bãi rác ngoài trời.
Đốt rác là một phương pháp được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Thông
thường người ta, người ta xây dựng các lò đốt chuyên dụng, nhiệt độ trong lò
có thể lên đến hàng nghìn độ C, có thể đốt cháy cả kim loại, thuỷ tinh…Xử lý
rác thải bằng cách đốt trong lò này có nhiều ưu điểm :
Đốt cháy hay tiêu huỷ các loại côn trùng, sinh vật gây bệnh, các chất
gây ô nhiễm. Diện tích xây dựng các nhà đốt rác thường nhỏ hơn nhiều diện
tích các bãi chôn rác. Các lò đốt có thể làm giảm khối lượng của rác thải từ
80-90%, số tro hay các chất còn sót lại có thể chôn ở bãi chôn thậm chí thải

19


bỏ xuống biển, đại dương. Các lò đốt có thể xây dựng không xa các thành phố
(trong khi các bãi chôn thường phải xây dựng cách khá xa các đô thị) do đó
chi phí vận chuyển rác được giảm đi. Nhiệt phát ra trong quá trình đốt rác
được thu hồi, để cung cấp cho nhà máy hay các khu dân cư đô thị. Các lò đốt
sẽ ít gây ô nhiễm đất, kể cả ô nhiễm không khí nếu được trang bị các thiết bị
xử lý bụi và khí thải. Các lò đốt có thể xử lý được các chất thải rắn có chu kì

phân huỷ rất lâu dài như: vỏ xe, đệm cao su, các loại thiết bị đồ dùng gia
đình…Bên cạnh các ưu điểm trên, phương pháp đốt rác có những nhược điểm
khá cơ bản như: chi phí thiết bị máy móc và xây dựng nhà máy khá cao, chi
phí vận chuyển các lò đốt rác thường cao so với các bãi chôn, nhiều chất thải
có thể tái thu hồi và tái chế bị đốt cháy cả. Tính trung bình cứ 10 tấn rác thải
bị đốt sẽ tạo ra 1 tấn tro và các chất còn sót lại, tuy nhiên chúng lại là những
chất thải độc hại vì chứa các kim loại độc hại…
- Chôn rác ở dưới biển
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chôn rác dưới biển có nhiều điều lợi.
Rác được đưa đến các bến cảng và được các xà lan chở đem chôn dưới biển
với độ sâu có thể lên tới hàng nghìn feets. Độ sâu tối thiểu là 100 feets, nhằm
tránh tình trạng lưới đánh cá dưới biển bị vướng mắc. Phương pháp này vừa
giải quyết được vấn đề về chất thải, vừa đồng thời tạo nên nơi trú ẩn cho các
loài sinh vật biển.
- Phương pháp nhiệt phân
Đây là cách xử lý rác thải tương tự như chúng ta làm than hầm nghĩa là
sử dụng nhiệt đốt bên ngoài để loại trừ dần không khí trong rác. Phương pháp
này có nhiều điểm thuận lợi sau:
Quá trình nhiệt phân là 1 quá trình kín nên ít tạo ra khí thải gây ô
nhiễm. Có thể thu hồi nhiều vật chất sau khi nhiệt phân. Ví dụ:1 tấn rác thải
đô thị ở Hoa Kỳ sau khi nhiệt phân có thể thu lại 2 gallons dầu nhẹ, 5 gallons

20


hắc ín và nhựa đường, 25 pounds chất ammonium sufude, 230 pounds than,
133 gallons chất lỏng chứa rượu. Tất cả các chất kể trên đều có thể tái sử
dụng làm nguyên liệu.
2.1.6 Lý luận phương pháp định giá tài nguyên môi trường
Để định giá tài nguyên môi trường thì có rất nhiều phương pháp định

giá khác nhau được sử dụng, các phương pháp này cũng được phân loại theo
nhiều cách khác nhau.(hình 3)
Định giá hàng hoá, dịch vụ môi trường

Có giá thị trường

Giá hoàn hảo

Không có giá thị trường

Giá bị bóp
méo

Giá bóng

Có yếu tố thay
thế

Thay thế
trực tiếp

Chi phí thay thế
(RC); giá thay
thế (POS); chi
phí cơ hội (OC);
chi phí vốn con
người (HCA);
giá chi phí (CP)

Không có yếu

tố thay thế

Thay thế
gián tiếp

Chi phí du lịch
(TCM); giá
hưởng thụ
(HPM); chênh
lệch lương
(WD); giá trị dư
(RV); giá trị ẩn
(IV)

Tạo dựng thị
trường (CVM);
thị trường nhân
tạo (AM)

Hình 3: Một số phương pháp định giá tài nguyên môi trường

21


Thông thường những hàng hoá dịch vụ môi trường chịu nhiều ảnh hưởng
của các yếu tố ngoại vi và đa số các giá trị bị bóp méo. Nghĩa là giá không phản
ánh đúng thực chất giá trị của hàng hoá và dịch vụ. Tuỳ thuộc vào sự ảnh hưởng
của các yếu tố ngoại vi như: chính sách, độc quyền… Do đó, để phản ánh đúng
giá trị của hàng hoá và dịch vụ cần sử dụng các giá bóng.
Nếu thị trường là hoàn hảo và những yếu tố ngoại vi thể hiện được bản

chất của hàng hoá, dịch vụ, giá này có thể được biểu hiện trong nền kinh tế, tức
là có giá thị trường và phản ánh giá trị thực của hàng hoá, dịch vụ môi trường.
Tuy nhiên, đối với nhiều loại hàng hoá và dịch vụ môi trường thường
không có giá thị trường hoặc giá cả đã bị bóp méo. Để định giá những ảnh
hưởng của môi trường, người ta có thể dùng sự thay thế trực tiếp, nghĩa là dựa
trên cơ sở ước tính giá cả hoặc sự thay thế gián tiếp. Chẳng hạn như tìm hiểu
giá trị của môi trường tại một khu danh lam thắng cảnh qua vé vào cổng,…
Trong trường hợp không có yếu tố thay thế, buộc ta phải điều tra mức sẵn
lòng trả trực tiếp bằng phương pháp tạo dựng thị trường (CVM).
2.1.7 Lý luận về phương pháp tạo dựng thị trường (Contingent Valuation
Method – CVM) xác định mức sẵn lòng chi trả của người dân về thu gom
và xử lý rác thải
- CVM là một phương pháp cho phép ước lượng giá trị của một hàng
hoá dịch vụ môi trường. Phương pháp này được tiến hành bằng cách hỏi các cá
nhân có liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới hàng hoá dịch vụ môi trường.
Những cá nhân được hỏi về mức WTP (Willingneess to pay) của họ cho một sự
thay đổi trong cung cấp hàng hoá dịch vụ môi trường và mức này thường được
thu thập thông qua phiếu điều tra. Về thực chất CVM tạo ra một thị trường giả
định trong đó cá nhân mẫu điều tra được coi như các phần tham gia vào thị
trường có thể sử dụng hay không sử dụng nguồn tài nguyên môi trường.

22


Thông thường với phương pháp này sẽ có hai giả định về sự thay đổi
hàng hóa môi trường. Nếu môi trường được cải thiện hay giảm thiểu, các cá
nhân được hỏi sẽ bằng lòng chi trả cho việc cải thiện đó không và nếu có thì
mức bằng lòng trả là bao nhiêu. Ngược lại, nếu môi trường bị ảnh hưởng thì họ
sẽ có bằng lòng trả để tránh thiệt hại đó hay không và nếu có thì mức bằng lòng
trả là bao nhiêu.

Cơ sở của phương pháp CVM chính là lý thuyết độ thoả dụng ngẫu
nhiên (RUT_ Random Unility Throry). Theo lý thuyết này xác suất của việc
một cá nhân lựa chọn một loại hàng hoá trong nhóm các loại hàng hoá phụ
thuộc vào độ thoả dụng của hàng hoá đó với độ thoả dụng của hàng hoá khác
(Morrison và cộng sự năm 1996). Hay nói cách khác cá nhân (q) sẽ lựa chọn
phương án (i) thay vì phương án (j) khi và chỉ khi U iq > Ujq (i ≠ j є A), trong đó
A là tập hợp các lựa chọn.
Theo lý thuyết này, độ thoả dụng của một loại hàng hoá được cho là phụ
thuộc vào các thành tố quan sát được như vectơ của các thuộc tính hàng hoá
(x), đặc điểm cá nhân (s), cũng như các thành tố không quan sát được (e). Các
thành tố (e) được xử lý như là các đại lượng ngẫu nhiên và được giả định tuân
theo quy luật phân bổ nào đó.
Độ thoả dụng của hàng hoá (i) có thể biễu diễn như sau:
Uiq = V(sq,xiq) + eiq

(2.1)

Trong đó: Uiq: Độ thoả dụng của hàng hoá (i) của cá nhân (q)
V: Hàm độ thoả dụng gián tiếp
sq: véctơ đặc điểm của cá nhân (q)
xiq: véctơ thuộc tính hàng hoá trong phương án (i)
eiq: thành tố không quan sát được
Xác suất của việc lựa chọn phương án (i) thể hiện:

23


P(i/i,jєA) = P[(Viq + eiq) > (Vjq + ejq)]

(2.2)


Trong đó: P: xác suất
P(i/i,jєA) chính là xác suất lựa chọn phương án (i) thay vì
phương án (j) trong tập hợp A.
Theo như trên, xác suất mà một cá nhân chọn (i) thay vì (j) tương ứng
với xác suất của độ thoả dụng V đã định cộng với độ thỏa dụng ngẫu nhiên (e)
đối với (i) lớn hơn (j).
Hay nói cách khác, xác suất ngẫu nhiên của một cá nhân từ mẫu điều
tra sẽ chọn phương án (i) tương đương với xác suất mà hiệu số giữa độ thoả
dụng ngẫu nhiên của (i) và (j) nhỏ hơn hiệu số giữa độ thoả dụng đã định của
(i) và (j) nghĩa là:
P(i/i,j єA) = P[(Viq – Vjq) > (ejq – eiq)]

(2.3)

Mức sẵn lòng trả của người được điều tra có thể bị ảnh hưởng bởi các
yếu tố hoặc các biến khác nhau bao gồm: đặc điểm kinh tế xã hội của người
được hỏi như thu nhập (I), trình độ học vấn (E), và một số biến đo lường “số
lượng” của chất lượng môi trường (q) (Hanley và Spash 1993;56). Nói cách
khác mức WTP có thể biểu diễn bằng hàm số của các biến này như sau:
WTP = f(Ii,Ai,Ei,qi)
Trong đó:

(2.4)

i: là chỉ số quan sát hay số người được điều tra
f: Hàm phụ thuộc của mức WTP vào các biến I,A,E,q
I: Là biến thu nhập
A: Là biến tuổi
E: là biến trình độ văn hoá

q: Biến đo lường “số lượng” của chất lượng môi trường

24


Thông qua hàm hồi quy, chúng ta phân tích ảnh hưởng của các yếu tố
khác nhau với mức WTP.
* Trình tự áp dụng phương pháp tạo dựng thị trường (CVM)
Để tìm hiểu WTP của các cá nhân đối với một thay đổi trong hàng hoá
dịch vụ môi trường cần triển khai các bước:
Mô tả viễn cảnh và giải thích những ảnh hưởng do sự thay đổi trong
hàng hoá và dịch vụ môi trường.
Cá nhân được hỏi sẽ được nhận biết viễn cảnh đưa ra trong đó có các
lựa chọn liên quan đến hàng hoá dịch vụ môi trường.
Dựa vào những thông tin được cung cấp ở trên người được hỏi ý kiến
có liên quan đến WTP của họ, từ đó có thể suy ra phần giá trị gắn với sự thay
đổi trong cung cấp hàng hoá dịch vụ đã đưa ra trong câu hỏi.
Trình tự các bước được thể hiện qua hình 4:

25


×