Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần sản xuất và kinh doanh vật tư thiết bị VVMI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.32 KB, 97 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành
cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, Ban chủ nhiệm
khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh cùng toàn thể các thầy cô giáo đã tận tình
chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt bốn năm học vừa qua.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Lê Thị Thu
Hương và thầy giáo T.S Nguyễn Quốc Chỉnh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ
em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của
mình.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc công ty cổ phần sản xuất
và kinh doanh vật tư thiết bị - VVMI và toàn thể cán bộ công nhân viên trong
công ty, cùng bạn bè và người thân đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian làm
khóa luận tốt nghiệp của mình.
Do còn hạn chế về trình độ chuyên môn và thời gian thực tập có hạn nên
khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự
góp ý của các thầy cô giáo và các bạn bè để khóa luận tốt nghiệp của mình
được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 06 năm 2011
Sinh viên

Giáp Thị Hảo

i


MỤC LỤC
- Trình độ phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng của tiến bộ khoa
học kỹ thuật..........................................................................................................16
- Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin của doanh nghiệp.....................................17
- Nhân tố tổ chức quản lý doanh nghiệp..............................................................18


* Nhóm nhân tố khách quan....................................................................................19

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….94

ii


DANH MỤC BẢNG BIỂU
- Trình độ phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng của tiến bộ khoa
học kỹ thuật..........................................................................................................16
- Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin của doanh nghiệp.....................................17
- Nhân tố tổ chức quản lý doanh nghiệp..............................................................18
* Nhóm nhân tố khách quan....................................................................................19

iii


DANH MỤC HÌNH
- Trình độ phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng của tiến bộ khoa
học kỹ thuật..........................................................................................................16
- Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin của doanh nghiệp.....................................17
- Nhân tố tổ chức quản lý doanh nghiệp..............................................................18
* Nhóm nhân tố khách quan....................................................................................19

iv


I. MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là mục tiêu hướng đến và là thước đo
sự thành công cho mỗi tổ chức kinh tế, mỗi hộ gia đình. Tìm giải pháp nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là vấn đề muôn thuở mà các nhà quản lý kinh
tế cũng như nhà đầu tư cần quan tâm. Đặc biệt, trong cơ chế thị trường hiện
nay, khi mà sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra ngày càng mạnh mẽ,
mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì đều phải vận động bằng
chính nội lực của mình thì mới có thể đứng vững được ở trên thương trường
cạnh tranh đầy khốc liệt.
Cho tới nay, đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề hiệu quả sản xuất kinh
doanh trên cả mặt lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên những nghiên cứu, đánh giá
một cách có hệ thống và toàn diện trên cơ sở khoa học để tìm ra giải pháp hữu
ích cho một doanh nghiệp cụ thể vẫn chưa được quan tâm nhiều.
Công ty cổ phần sản xuất và kinh doanh vật tư thiết bị - VVMI, là công
ty con trực thuộc công ty TNHH một thành viên mỏ Việt Bắc – TKV, trực
thuộc Tập đoàn công nghiệp - than khoáng sản, hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất và kinh doanh vật tư phục vụ cho ngành than đã nhiều năm nay. Được sự
hỗ trợ của tổng công ty, của tập đoàn cùng với kinh nghiệm kinh doanh nhiều
năm nay công ty đã có được những thành công nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được công ty đang phải đối đầu với sự biến động tiêu cực
của nền kinh tế thế giới nói chung và trong nước nói riêng, những thách thức
mới do những biến đổi liên tục trong chính sách của nhà nước nói chung và
tổng công ty, tập đoàn nói riêng. Hơn nữa, từ cuối năm 2008 Việt Nam đã phải
hứng chịu những tác động của suy thoái kinh tế khiến cho hàng loạt các doanh
nghiệp gặp phải khó khăn, thậm chí có nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc
đứng trước bờ vực phá sản. Đứng trong môi trường chung cũng gặp phải không
ít những khó khăn. Công ty cổ phần sản xuất và kinh doanh vật tư thiết bị VVMI cũng phải chịu hoàn cảnh chung như các doanh nghiệp khác. Hoạt động
1


sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng gặp phải nhiều khó khăn cả về đầu

vào lẫn đầu ra, lợi nhuận của công ty bị ảnh hưởng nghiêm trọng và lâm vào
tình trạng giảm liên tục trong 3 năm trở lại đây. Vậy đâu là giải pháp giúp công
ty nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm thoát khỏi tình trạng khó
khăn hiện nay để ngày một phát triển.
Xuất phát từ thực tiễn trên em thực hiện nghiên cứu đề tài “Một số biện
pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần sản xuất
và kinh doanh vật tư thiết bị - VVMI", với mục tiêu hướng đến trên cơ sở
những phân tích về hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian
vừa qua để tìm ra những giải pháp mới phù hợp nhằm giúp công ty nâng cao
được hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời gian tới.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá đúng thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty cổ
phần sản xuất và kinh doanh vật tư thiết bị - VVMI, từ đó đề ra các biện pháp
chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
- Đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh cho công ty trong thời gian tới.

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng hiệu quả sản xuất kinh
doanh của công ty, các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
của công ty và các biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh cho công ty.


2


1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Tập trung hệ thống hóa cơ sở lý luận, đánh giá
đúng thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty và đề xuất một số
biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho Công ty
cổ phần sản xuất và kinh doanh vật tư thiết bị - VVMI.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại địa bàn của công ty ở tổ 26 – Thị
trấn Đông Anh – Huyện Đông Anh – TP. Hà Nội và các thị trường tiêu thụ
sản phẩm của công ty.
- Phạm vi thời gian: Thời gian thực hiện đề tài từ 27/12/2010 –
27/5/2011.,Đề tài thực hiện nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty từ năm 2008 đến 2010.

1.4.

Kết quả nghiên cứu dự kiến

- Hệ thống hóa được cơ sở lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Đánh giá đúng thực trạng của hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
- Một số biện pháp hữu ích giúp công ty nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh trong giai đoạn sắp tới.

3


II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Tổng quan tài liệu

2.1.1. Lý luận chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
2.1.1.1. Khái niệm

Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, để tồn tại
và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh phải có lãi. Để đạt được hiệu
quả cao nhất trong sản xuất và kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định
phương hướng mục tiêu trong đầu tư, biện pháp sử dụng các điều kiện sẵn có
về các nguồn nhân tài, vật lực. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần nắm được các
nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy
hiệu quả sản xuất kinh doanh là gì?
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh. Tuỳ
theo từng lĩnh vực nghiên cứu mà người ta đưa ra các quan điểm khác nhau
về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Dưới đây là một số quan điểm về hiệu quả
kinh doanh:
Theo nhà kinh tế học người Anh, Adam Smith, cho rằng: "Hiệu quả là
kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, doanh thu tiêu thụ hàng hoá"[1].
Theo quan điểm này, Adam Smith đã đồng nhất hiệu quả với chỉ tiêu phản
ánh kết quả sản xuất kinh doanh. Hạn chế của quan điểm này là kết quả sản
xuất kinh doanh có thể tăng lên do chi phí sản xuất tăng hay do mở rộng sử
dụng các nguồn lực sản xuất. Nếu với cùng một kết quả sản xuất kinh doanh
có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này cũng có hiệu quả. Quan
điểm này chỉ đúng khi kết quả sản xuất kinh doanh tăng với tốc độ nhanh hơn
tốc độ tăng của chi phí đầu vào của sản xuất. Do vậy, quan điểm này chưa
phản ánh chính xác về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Quan điểm thứ hai cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỉ lệ giữa
phần tăng thêm của phần kết quả và phần tăng thêm của chi phí"[1]. Quan
điểm này đã xác định hiệu quả trên cơ sở so sánh tương đối giữa kết quả đạt
4



được với phần chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Nhưng xét trên quan niệm
của triết học Mác-Lênin thì sự vật hiện tượng đều có quan hệ ràng buộc có tác
động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một các riêng lẻ [2]. Hơn nữa sản
xuất kinh doanh là một quá trình tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với các yếu
tố có sẵn. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm kết quả sản xuất kinh
doanh thay đổi. Hạn chế của quan điểm này là nó chỉ xem xét hiệu quả trên cơ
sở so sánh phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí, và nó
không xem xét đến phần chi phí và phần kết quả ban đầu. Do đó, quan điểm
này chỉ đánh giá được hiệu quả của phần kết quả sản xuất kinh doanh mà
không đánh giá được toàn bộ hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Quan điểm thứ ba cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu
số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó"[1]. Quan niệm này có
ưu điểm là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Nó gắn
được kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng
các yếu tố sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên quan điểm này chưa phản ánh
được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí. Để phản ánh trình
độ sử dụng các nguồn lực chúng ta phải cố định một trong hai yếu tố hoặc
kết quả đầu ra hoặc chi phí bỏ ra, nhưng trên thực tế thì các yếu tố này không
ở trạng thái tĩnh mà luôn biến đổi và vận động.
Quan điểm thứ tư cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn
yêu cầu quy luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng quỹ tiêu dùng với tư
cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong doanh nghiệp"[1].
Quan điểm này có ưu điểm là bám sát mục tiêu tinh thần của nhân dân.
Nhưng khó khăn ở đây là việc xác định mức độ thỏa mãn của con người. Bởi
vì, mỗi con người có một mức độ thỏa mãn về cuộc sống riêng nếu không
muốn nói là nó rất đa dạng và phong phú và cũng có vô số các chỉ tiêu để
phản ánh mức độ thỏa mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống nhân dân.
Quan điểm thứ năm cho rằng: "Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng
(hoặc quá trình) kinh tế, là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng

các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác
5


định. Từ khái niệm khái quát này có thể hình thành công thức biểu diễn khái
quát phạm trù hiệu quả kinh tế như sau:
H = K/C
Với: -H là hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (quá trình) kinh tế nào
đó
- K là kết quả thu được từ hiện tượng (quá trình kinh tế đó)
- C là chi phí toàn bộ đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Như vậy, có thể khái niệm ngắn gọn: hiệu quả kinh tế phản ánh chất
lượng hoạt động kinh tế và được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và
chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Theo quan điểm này hiệu quả kinh tế đã đánh giá được tốt trình độ sử
dụng nguồn lực ở mọi điều kiện “động” của hoạt động kinh tế. Quan niệm
hiệu quả kinh tế như vậy thì hoàn toàn có thể lượng hóa được hiệu quả kinh tế
trong sự vận động và biến đổi không ngừng của các hoạt động kinh tế, không
phụ thuộc vào quy môvà tốc độ biến động khác nhau của chúng.
Từ các quan điểm về hiệu quả kinh doanh, hiệu quả kinh tế nói trên có
thể đưa ra một khái niệm đầy đủ về hiệu quả sản xuất kinh doanh là: Hiệu quả
sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và tiền vốn) nhằm đạt
được mục tiêu mà doanh nghiệp đã xác định.

2.1.1.2. Vai trò và sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh đối với doanh nghiệp
* Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Mục tiêu bao trùm và lâu dài của mọi doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận,
tối ưu hoá lợi nhuận trên cơ sở nguồn lực sẵn có. Để đạt được mục tiêu này

doanh nghiệp sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Hiệu quả sản xuất kinh
doanh là một trong những công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị đánh giá các
phương án thực hiện nhằm đạt lợi nhuận tối ưu cho doanh nghiệp. Việc xem
6


xét, đánh giá tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ cho biết sử
dụng các nguồn lực vào các hoạt động kinh doanh ở mức độ nào cho phù hợp
mà còn cho phép nhà quản trị phân tích, tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện
pháp quản trị kinh doanh thích hợp trên cả hai phương diện: tăng kết quả và
giảm chi phí sản xuất kinh doanh, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Với tư
cách là một công cụ đánh giá và phân tích kinh tế, phạm trù hiệu quả sản xuất
kinh doanh không chỉ được sử dụng ở giác độ tổng hợp, đánh giá chung trình
độ sử dụng tổng hợp đầu vào trên phạm vi toàn doanh nghiệp mà còn được sử
dụng để đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận
cấu thành của doanh nghiệp. Bản chất của hiệu quả kinh doanh chỉ rõ trình độ
sử dụng nguồn lực vào kinh doanh: Trình độ sử dụng nguồn lực kinh doanh
càng cao, các doanh nghiệp càng có khả năng tạo ra kết quả cao trong cùng
một nguồn lực đầu vào hoặc tốc độ tăng của kết quả lớn hơn so với tốc độ
tăng của việc sử dụng nguồn lực đầu vào. Do đó, trên phương diện lý luận và
thực tiễn phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng
trong việc so sánh đánh giá phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu
nhất đưa ra phương pháp đúng đắn nhất để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận. Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh không những là mục tiêu, mục
đích của các nhà kinh tế, các nhà kinh doanh mà còn là một phạm trù để phân
tích đánh giá trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào nói trên.
* Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai sẽ không phải lựa
chọn cách kết hợp các yếu tố đầu vào nếu như nguồn tài nguyên không hạn

chế. Người ta có thể sản xuất vô tận, hàng hóa, sử dụng thiết bị máy móc,
nguyên vật liệu, lao động một cách tùy ý nếu như nguồn tài nguyên là vô tận.
Nhưng thực tế, mọi nguồn tài nguyên trên trái đất như đất đai, khoáng sản,
hải sản, lâm sản,… là một phạm trù hữu hạn và ngày càng khan hiếm, cạn
kiệt do sự khai thác và sử dụng của con người. Khi tiến hành lựa chọn
phương án sản xuất kinh doanh mỗi quốc gia, doanh nghiệp, hộ gia đình luôn
luôn đối diện với hai mặt của một vấn đề.
7


Một mặt, dân số thế giới liên tục gia tăng. Theo số liệu thống kê vào
ngày 20/10/2010, dân số thế giới ước lượng là 6.877.200.000 người. Như vậy,
mốc 7 tỷ người sẽ được chạm tới vào năm 2011. Dự đoán đến năm 2050, dân
số thế giới là 9,51 tỷ[3]. Điều này cho thấy, nhu cầu tiêu dùng vật phẩm của
con người ngày càng gia tăng. Thêm vào đó, nhu cầu của mỗi cá nhân là
không giới hạn. Qua đây đã chứng minh được rằng nhu cầu tiêu dùng vật
phẩm của con người là một phạm trù không có giới hạn: Không có giới hạn ở
sự phát triển các loại cầu và ở từng loại cầu cũng không có giới hạn – càng
nhiều, càng phong phú, càng có chất lượng cao càng tốt.

Hình ảnh 2.1: Dân số thê giới ngày càng gia tăng
Mặt khác, các nguồn lực đầu vào lại là phạm trù hữu hạn và ngày càng
khan hiếm theo cả nghĩa tuyệt đối và tương đối của nó. Như vậy, các nguồn
lực đầu vào đã khan hiếm lại càng khan hiếm hơn. Khan hiếm đòi hỏi và bắt
buộc con người phải nghĩ đến việc lựa chọn kinh tế, khan hiếm tăng lên dẫn
đến vấn đề lựa chọn kinh tế tối ưu ngày càng được đặt ra một cách nghiêm
túc và gay gắt hơn[4]. Nhưng khan hiếm mới chỉ là điều kiện cần của sự lựa
chọn kinh tế. Trong điều kiện không khan hiếm nguồn lực thì con người đã
lựa chọn phương án phát triển kinh tế theo chiều rộng, tức tăng trưởng kết
quả sản xuất dựa trên cơ sở gia tăng, mở rộng các yếu tố sản xuất như tư liệu

sản xuất, đất đai,…
8


Điều kiện đủ cho sự lựa chọn kinh tế là cùng với sự phát triển của kỹ
thuật sản xuất thì càng ngày người ta càng tìm ra nhiều phương pháp khác
nhau để tạo ra sản phẩm. Kỹ thuật sản xuất phát triển cho phép với cùng
nguồn lực đầu vào nhất định người ta có thể tạo ra nhiều sản phẩm đầu vào
khác nhau để chế tạo ra rất nhiều loại sản phẩm. Điều này cho phép các
doanh nghiệp có khả năng lựa chọn kinh tế, lựa chọn sản xuất kinh doanh sản
phẩm (cơ cấu sản phẩm) tối ưu. Trong khi đó, theo định nghĩa ở trên thì hiệu
quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và tiền vốn)
nhằm đạt được mục tiêu đã định. Do vậy, sự lựa chọn và kết hợp các yếu tố
đầu vào đúng đắn sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả sản xuất kinh doanh
cao nhất, thu được nhiều lợi ích nhất. Giai đoạn phát triển kinh tế theo chiều
rộng đã kết thúc và nhường chỗ cho sự phát triển kinh tế theo chiều sâu: sự
tăng trưởng kết quả sản xuất kinh doanh chủ yếu nhờ vào việc cải tiến các
yếu tố sản xuất về mặt chất lượng, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
mới, công nghệ mới, hoàn thiện công tác quản trị và cơ cấu kinh tế …, nâng
cao chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói một cách khái quát là
nhờ vào sự nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Như vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh tức là nâng cao khả năng sử
dụng các nguồn lực có hạn trong sản xuất, đạt được theo sự lựa chọn tối ưu.
Trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh là điều kiện không thể thiếu đối với bất kỳ hoạt động sản
xuất kinh doanh nào, bởi vì:
- Thứ nhất, hoạt động kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường, môi
trường cạnh tranh gay gắt, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều
kiện, là cơ sở để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì sự

tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt và vị trí của doanh
nghiệp trên thị trường. Mà hiệu quả sản xuất kinh doanh lại là nhân tố trực
tiếp đảm bảo cho sự tồn tại và xác định vị trí đứng cho doanh nghiệp trên thị
trường. Trên cơ chế thị trường, việc giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản
xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào dựa trên quan hệ cung cầu,
9


giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác [4]. Các doanh nghiệp phải tự ra các
quyết định kinh doanh của mình, tự hạch toán lãi lỗ, lãi nhiều hưởng nhiều,
lãi ít hưởng ít, không có lãi sẽ đi đến phá sản. Lúc này, mục tiêu lợi nhuận trở
thành một trong những mục tiêu quan trọng nhất, mang tính sống còn của sản
xuất kinh doanh. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp
phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt, trong cuộc cạnh tranh đó có nhiều doanh nghiệp trụ vững, phát triển sản
xuất nhưng cũng không ít doanh nghiệp đã thua lỗ, giải thể, phá sản. Để có
thể trụ lại được trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải nâng cao
chất lượng hàng hóa, giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy tín … nhằm đạt tới
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải có được lợi nhuận và
đạt được lợi nhuận càng cao càng tốt. Do vậy, đạt hiệu quả kinh doanh và
nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề được quan tâm của doanh
nghiệp và trở thành điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại trên thị
trường. Tuy nhiên mục tiêu của các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở sự tồn
tại. Bởi vì sự tồn tại luôn luôn đi kèm với sự phát triển mở rộng của doanh
nghiệp, đòi hỏi phải có sự tích lũy đảm bảo cho quá trình sản xuất mở rộng
theo đúng quy luật phát triển. Nên mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp là ngày
một mở rộng và phát triển vững chắc trên thị trường. Do vậy, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp xác lập
một vị thế lớn mạnh của mình trên thị trường và ngày một phát triển hơn.
- Thứ hai, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố thúc đẩy

sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu
cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh
doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Khi thị
trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng
gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là sự cạnh tranh về
mặt hàng mà cạnh tranh về mặt chất lượng, giá cả mà còn phải cạnh tranh
nhiều yếu tố khác nữa như sự cạnh tranh về thương hiệu, cạnh tranh nguồn
cung ứng các nguyên liệu đầu vào và cạnh tranh ngay cả trong dịch vụ chăm
sóc hàng … Mục tiêu của doanh nghiệp là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố
10


làm cho doanh nghiệp mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể làm cho doanh
nghiệp bị triệt tiêu trên thị trường. Để đạt được mục tiêu là tồn tại và phát
triển mở rộng thì doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị
trường. Do đó doanh nghiệp cần phải có hàng hóa, dịch vụ chất lượng tốt, giá
cả hợp lý. Mặt khác hiệu quả sản xuất kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm
giá thành, tăng khối lượng hàng hóa, chất lượng, mẫu mã không ngừng được
cải thiện nâng cao ....
- Thứ ba, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là nhân tố
cơ bản tạo ra sự thắng lợi cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh
doanh trên thị trường. Bởi vì, khi doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả sản
xuất kinh doanh cũng có nghĩa là trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của
doanh nghiệp đã đạt đến mức cao và đạt được kết quả cao dựa trên sự kết hợp
các yếu tố đầu vào với chi phí thấp. Do vậy, phần lợi nhuận mà doanh nghiệp
tạo ra cũng tăng lên góp phần vào tích lũy cho tái sản xuất và mở rộng của
doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp ngày một phát triển lớn mạnh hơn.
Muốn tạo ra sự thắng lợi trong cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải
không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Chính sự nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và

khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp.

2.1.1.3. Bản chất và đặc điểm của hiệu quả sản xuất kinh doanh
* Bản chất
Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh đã khẳng định bản chất của
hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó chính là phản ánh
mặt chất lượng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn lực (lao động, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu và tiền
vốn) để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp – mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Vậy, hiệu quả sản xuất
kinh doanh là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh? Trong thực tế, nhiều
lúc người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như là mục tiêu cần đạt đến và

11


trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như công cụ để nhận
biết “khả năng” tiến tới mục tiêu cần đạt được là kết quả.
Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh ở trên đã khẳng định bản
chất hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo khái niệm này,
hiệu quả sản xuất kinh doanh đã phản ánh được tình hình sử dụng các nguồn
lực của doanh nghiệp để đạt mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận.
* Đặc điểm của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh có 3 đặc điểm chính sau:
- Thứ nhất: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế
càng cao chứng tỏ doanh nghiệp có trình độ khai thác các nguồn lực cao.
Trình độ khai thác các nguồn lực của doanh nghiệp vừa được đánh giá trên
mức độ tổng hợp vừa được đánh giá ở mức độ bộ phận. Hiệu quả sản xuất

kinh doanh phán ánh được trình độ khai thác các nguồn lực đầu vào ở cả
mức độ tổng hợp và mức độ bộ phận.
- Thứ hai: Hiệu quả sản xuất kinh doanh được thể hiện bằng nhiều chỉ
tiêu, từ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp tới chỉ tiêu đánh giá hiệu quả bộ
phận. Do được thể hiện bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau từ chỉ tiêu tổng hợp
đến chỉ tiêu bộ phận nên hiệu quả sản xuất kinh doanh mới có thể đánh giá
được trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào của doanh nghiệp
- Thứ ba: Hiệu quả sản xuất kinh doanh bị chi phối bởi nhiều yếu tố.
Bao gồm cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan của doanh nghiệp. Mỗi
nhân tố tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh là khác nhau. Nhưng sự
tác động của các nhân tố này có mối liên hệ với nhau và tác động một cách
tổng hợp nên hiệu quả sản xuất kinh doanh.

2.1.1.4. Phân loại hiệu quả sản xuất kinh doanh
Có 4 cách chủ yếu để phân loại hiệu quả sản xuất kinh doanh:
* Căn cứ vào nội dung và bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh

12


Theo cách phân loại này, hiệu quả kinh doanh được phân thành 4 loại:
- Hiệu quả kinh tế: Phản ánh mối quan hệ tương quan giữa kết quả hữu
ích thu được về mặt kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Nó gắn liền với
một phương án sản xuất và đánh giá trình độ sản xuất chủ yếu về mặt kinh tế.
- Hiệu quả xã hội: Phản ánh mối quan hệ tương quan giữa kết quả hữu
ích thu được về mặt xã hội và chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Nó đánh giá
trình độ sản xuất chủ yếu về đáp ứng nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, việc lượng
hóa các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả xã hội còn gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu
phản ánh bằng các chỉ tiêu mang tính định tính như tiết kiệm thời gian cho
cùng một đơn vị sản xuất, tạo công ăn việc làm để giải quyết lượng lao động

dư thừa trong nông thôn và nâng cao sức khỏe, tinh thần, trình độ hiểu biết
cho người lao động và cộng đồng, thực hiện công bằng xã hội giữa người giàu
và người nghèo, phụ nữ và nam giới. Từ đó sẽ góp phần xóa đói giảm nghèo
và góp phần phát triển lành mạnh xã hội.
- Hiệu quả kinh tế xã hội: Phản ánh mối quan hệ tương quan giữa kết
quả hữu ích thu được về mặt kinh tế - xã hội và chi phí bỏ ra để đạt kết quả
đó. Nó gắn liền với một phương án sản xuất và đánh giá trình độ sản xuất
tương đối toàn diện cả về kinh tế và xã hội.
- Hiệu quả môi trường: Là hiệu quả của việc làm thay đổi môi trường
do hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp tác động tới môi trường theo cả chiều hướng tích cực và tiêu
cực. Khi doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc phát
triển bền vững, thân thiện với môi trường thì hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiêp sẽ có những tác động tích cực tới môi trường. Nhưng khi
doanh nghiệp chỉ quan tâm tới lợi nhuận thu về mà không có các biện pháp để
bảo vệ môi trường thì doanh nghiệp sẽ gây nên những tác động tiêu cực tới
môi trường từ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vậy hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp tác động như thế nào để đạt được hiệu quả
về môi trường. Để xác định được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp có đạt hiệu quả môi trường hay không thì cần phải đánh giá tác động
môi trường của từng dự án, cơ sở sản xuất kinh doanh tới môi trường. Tuy

13


nhiên, việc đánh giá tác động môi trường là không dễ dàng. Bởi vì, đánh giá
tác động môi trường cần dựa trên các tiêu chuẩn môi trường mà một trong số
đó là tiêu chuẩn môi trường xung quanh. Tiêu chuẩn này rất khó đánh giá.
Bởi vì, thật khó xác định sự tác động của một đơn vị doanh nghiệp hay dự án
nào đó trong trong cùng một khu vực tới môi trường là bao nhiêu. Do vậy,

việc xác định hiệu quả môi trường của từng doanh nghiệp với môi trường là
rất khó khăn[5][6].
* Căn cứ vào phạm vi xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh
Theo cách phân loại này, hiệu quả kinh doanh được phân thành 4 loại:
- Hiệu quả của nền kinh tế quốc dân: Là hiệu quả tính chung cho nền
sản xuất xã hội.
- Hiệu quả kinh tế ngành: Là hiệu quả kinh tế được tính cho từng
ngành sản xuất như công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thương mại, dịch
vụ …
- Hiệu quả kinh tế vùng: Là hiệu quả tính cho từng vùng sinh thái
(vùng đồng bằng, vùng núi…)
- Hiệu quả kinh tế của đơn vị kinh tế: Là hiệu quả kinh tế cho từng loại
hình kinh tế (doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại…)
* Căn cứ vào các giai đoạn của hoạt động sản xuất kinh doanh
Theo cách phân loại này, hiệu quả kinh doanh được phân thành 3 loại:
- Hiệu quả của giai đoạn sản xuất: Là hiệu quả được xác định trong
giai đoạn sản xuất sản phẩm.
- Hiệu quả của giai đoạn chế biến: Là hiệu quả được xác định trong
giai đoạn chế biến sản phẩm.
- Hiệu quả của giai đoạn lưu thông: Là hiệu quả được xác định trong
quá trình lưu thông sản phẩm.
* Căn cứ theo yếu tố tác động
Theo các phân loại này, hiệu quả kinh doanh được phân thành 2 loại:
- Hiệu quả sử dụng nguồn lực: Là hiệu quả sử dụng các nguồn lực
tham gia vào sản xuất kinh doanh như đất đai, vốn, lao động, tài sản cố
định…

14



- Hiệu quả chính sách nhà nước: Là hiệu quả do tác động của các cơ
chế chính sách vĩ mô của nhà nước như: Trợ giá, các quy định trong quá trình
sản xuất kinh doanh…

2.1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp
* Nhóm nhân tố chủ quan.
- Yếu tố lao động: Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, lực lượng
lao động tác động trực tiếp lên hiệu quả kinh doanh theo một số nhân tố sau.
+ Trình độ lao động: Nếu lực lượng lao động của doanh nghiệp có trình
độ tương ứng sẽ góp phần quan trọng trong việc vận hành có hiệu quả yếu tố
vật chất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Cơ cấu lao động: Thông thường cơ cấu lao động được phân theo các
yếu tố về tuổi, giới tính, tính chất công việc, trình độ lao động. Một doanh
nghiệp có cơ cấu lao động theo tuổi, giới tính, trình độ lao động phù hợp với
cơ cấu lao động theo công việc thì doanh nghiệp sẽ đạt được hiệu quả sử
dụng lao động. Đạt được hiệu quả sử dụng lao động sẽ góp phần giúp cho
doanh nghiệp đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do vậy, để đạt được
hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt nhất thì doanh nghiệp cần có một cơ cấu lao
động hợp lý, phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Ý thức, tinh thần, trách nhiệm, kỷ luật của người lao động: Đây là
yếu tố cơ bản quan trọng để phát huy nguồn lao động trong kinh doanh. Vì
vậy, chỉ có thể đạt được hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp chừng nào
tạo được đội ngũ lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao.
- Yếu tố vốn.
Vốn là yếu tố quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh, mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần phải có vốn. Bất cứ doanh nghiệp nào
khi tiến hành sản xuất kinh doanh phải có vốn để mua nguyên vật liệu, trang
thiết bị, trả lương cho công nhân…Hơn thế nữa, vốn có ảnh hưởng gián tiếp tới
lợi nhuận của công ty, khi lượng vốn càng tăng thì doanh nghiệp có cơ hội mở


15


rộng quy mô sản xuất, tuyển dụng thêm lao động, sản xuất gia tăng. Đây là
điều kiện thúc đẩy sự gia tăng của kết quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời là
một trong các yếu tố làm gia tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khả năng huy
động và sử dụng vốn của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Trình độ phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng của tiến bộ khoa
học kỹ thuật.
Sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật và tiến bộ khoa học kỹ thuật
vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức cho doanh nghiệp. Sự phát triển cơ sở
vật chất kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản
xuất kinh doanh tạo ra rất nhiều cơ hội cho doanh nghiệp. Ví dụ như, cơ hội
để doanh nghiệp nắm bắt thông tin về thị trường, nguồn cung ứng cũng như
thông tin về đối thủ cạnh tranh một cách nhanh chóng, thuận tiện với chi phí
thấp hơn. Nói chung khi áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật không những
giúp cho doanh nghiệp tối thiểu hóa chi phí mà còn giúp cho doanh nghiệp đa
dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm. Khi chi phí sản xuất kinh
doanh được tối thiểu hóa, sản phẩm đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã, sản phẩm
sẽ nâng cao được kết quả sản xuất kinh doanh. Với chi phí được tối thiểu hóa,
kết quả sản xuất kinh doanh lại tăng lên làm cho hiệu quả sản xuất kinh
doanh tăng lên. Tuy nhiên, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng như con dao hai
lưỡi đối với doanh nghiệp. Khi tiến bộ khoa học kỹ thuật phát triển một cách
nhanh chóng thì sẽ làm cho doanh nghiệp sớm bị lạc hậu về máy móc, công
nghệ cũng như kỹ thuật sử dụng cho sản suất kinh doanh. Như vậy, nếu
không thường xuyên cập nhật tiến bộ khoa học kỹ thuật thì doanh nghiệp sẽ
bị lạc hậu, sản phẩm sản xuất ra sẽ không đủ đáp ứng yêu cầu của người tiêu
dùng về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm cũng như chủng loại sản

phẩm. Nhưng nếu như thường xuyên thay đổi, ứng dụng các khoa học kỹ
thuật mới vào sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng chi
phí lớn hơn cho việc này và chi phí khấu hao vô hình tăng lên. Khi chi phí
khấu hao vô hình tăng đồng nghĩa với chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên.

16


Một khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ làm cho hiệu quả sản xuất kinh
giảm xuống.
- Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin của doanh nghiệp
Thông tin ngày nay được coi là đối tượng lao động của các nhà kinh
doanh, và nền kinh tế thị trường là kinh tế thông tin hàng hoá. Để kinh doanh
thành công trong điều kiện cạnh tranh trong nước và quốc tế ngày càng phát
triển, các doanh nghiệp cần có thông tin chính xác về thị trường, người mua,
người bán, đối thủ cạnh tranh, tình hình cung-cầu hàng hoá, giá cả... Thông
tin hữu ích cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không chỉ
dừng lại ở những thông tin kể trên. Doanh nghiệp cần tìm hiểu một cách cặn
kẽ các thông tin về luật pháp, chính sách của địa phương nơi doanh nghiệp
hoạt động, chính sách của nhà nước và luật pháp,chính sách của các quốc gia
có liên quan tới thị trường đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp. Bởi vì, những
quy định của luật pháp, chính sách có liên quan tới lĩnh vực kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ tởi hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Việc tìm hiểu kỹ càng các thong tin này sẽ giúp cho
doanh nghiệp có các định hướng, kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp và
có hiệu quả nhất. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần tổng hợp những thành
công cũng như thất bại của các doanh nghiệp trong và ngoài nước để rút ra
bài học kinh nghiệm cho mình.
Mới có thông tin thì chưa đủ để đảm bảo cho thành công của doanh
nghiệp. Muốn đạt được thành công thì doanh nghiệp cần có được các thông

tin chính xác một cách kịp thời. Thông tin chính xác kịp thời là cơ sở vững
chắc cho doanh nghiệp đưa ra các phương án kinh doanh kịp thời, hợp lý, xây
dựng chiến lược kinh doanh dài hạn cũng như hoạch định các chương trình
kinh doanh ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp không quan tâm đến thông tin,
không thường xuyên nắm bắt thông tin kịp thời thì doanh nghiệp dễ đi đến
thất bại.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nếu doanh nghiệp có
được thông tin chính xác về các hoạt động cũng như phương hướng sản xuất

17


kinh doanh của đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ đưa ra được những
phương án đối phó để giành thế “thượng phong” trên thương trường.
Qua đây có thể thấy được tầm quan trọng của thông tin đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào. Do vậy, nhiệm vụ
của các nhà quản trị doanh nghiệp hiện nay là tổ chức một hệ thống thông tin
trong doanh nghiệp hợp lý, nhạy bén trước thông tin về thị trường, đối thủ
cạnh tranh nhưng cũng cần bảo mật thông tin kinh doanh của doanh nghiệp
mình một cách thận trọng. Bởi nếu nắm bắt tốt thông tin về thị trường, về đối
thủ cạnh tranh nhưng không bảo mật được thông tin về các kế hoạch kinh
doanh, dự án của mình thì doanh nghiệp sẽ không tạo được sự đột phá trên thị
trường và có thể dẫn tới thất bại và đi đến phá sản doanh nghiệp.
- Nhân tố tổ chức quản lý doanh nghiệp
Trong kinh doanh nhân tố quản trị kinh doanh có vai trò vô cùng quan
trọng: Quản trị doanh nghiệp có vai trò định hướng cho doanh nghiệp một
hướng đi đúng trong hoạt động kinh doanh. Quản trị doanh nghiệp có tác
động tới hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các khâu: lập kế hoạch, tổ
chức, điều khiển (lãnh đạo) và kiểm tra của nhà quản trị. Thông qua các khâu
nói trên hay nói cách khác là bằng các chức năng của mình nhà quản trị định

hướng cho doanh nghiệp một hướng đi đúng đắn và có hiệu quả nhất.
Nếu như không có một mục tiêu, mục đích cụ thể thì việc lựa chọn con
đường để đi không còn quan trọng nữa. Chức năng hoạch định xác định các
mục tiêu, xây dựng chiến lược để thực hiện các mục tiêu đó và phát triển các
kế hoạch để kết hợp và phối hợp các hoạt động với nhau và phát triển các kế
hoạch.
Sau khi đã có một mục tiêu cụ thể, đưa ra các chiến lược để thực hiện
các mục tiêu đó thì nhà quản trị tiến hành sắp xếp công việc để đạt được
những mục tiêu của doanh nghiệp mình. Đây chính là chức năng tổ chức của
nhà quản trị. Chức năng này bao gồm xác định nhiệm vụ phải thực hiện,
người thực hiện các nhiệm vụ đó, cách thức phân nhóm các nhiệm vụ, ai sẽ
phải báo cáo cho ai và cấp nào sẽ ra quyết định. Thông qua chức năng này,
18


nhà quản trị sẽ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty hoạt động
một cách hợp lý và hiệu quả.
Trong bất kỳ một tổ chức nói chung hay một doanh nghiệp cụ thể nói
riêng đều cần những người lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo giỏi. Một doanh
nghiệp có một người lãnh đạo giỏi sẽ tạo ảnh hưởng tốt tới từng nhân viên
trong công ty, lựa chọn các kênh thông tin có hiệu quả nhất nhay giải quyết
các vấn đề nảy sinh một cách nhanh nhất, hợp lý nhất và hiệu quả nhất. Yếu
tố này góp phần cho hoạt động sản xuất kinh doanh đi đúng hướng và hiệu
quả.
Sau khi các mục tiêu được xác lập, các kế hoạch được hoạch định, cơ
cấu tổ chức được xác định và tiến hành thực hiện các kế hoạch dự án sản xuất
kinh doanh thì các sai sót vẫn có thể xuất hiện. Do vậy, để đảm bảo cho hoạt
động sản xuất kinh doanh đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao nhất thì cần phải
giám sát và đánh giá kết quả công việc. Quá trình đánh giá và giám sát phải
được so sánh với các mục tiêu đã được xác lập trước đó.

* Nhóm nhân tố khách quan
Môi trường kinh doanh là một tập hợp các lực lượng bên ngoài mà mọi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều chịu sự tác động của chúng. Do
vậy, ngoài chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan bên trong doanh nghiệp
thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty còn chịu sự ảnh hưởng không nhỏ
của các nhân tố môi trường kinh doanh của doanh nghiệp mình. Môi trường
kinh doanh của doanh nghiệp rất sinh động và hoàn toàn bất định. Những biến
đổi của môi trường kinh doanh có thể gây ra những bất ngờ lớn, những hậu quả
nặng nề. Do vậy, khi tìm hiểu về các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ là rất thiếu sót nếu không đề cập tới sự ảnh
hưởng của môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh gồm có môi trường
vi mô hay còn gọi là môi trường ngành và môi trường vĩ mô. Môi trường vi mô
bao gồm những lực lượng có quan hệ trực tiếp với bản thân doanh nghiệp; môi
trường vĩ mô bao gồm những lực lượng trên bình diện xã hội rộng lớn hơn có
ảnh hưởng tới môi trường vi mô.

19


- Môi trường ngành: Trong mỗi ngành kinh doanh đều chịu những áp lực cạnh

tranh sau:
+ Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp: Trong nền kinh tế thị trường, quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải có mối quan hệ mật
thiết với các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào. Số lượng các nhà cung cấp có
ảnh hưởng rất lớn tới khả năng lựa chọn và xác định phương án kinh doanh có
hiệu quả. Bởi vì, số lượng nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp lực cạnh tranh,
quyền lực đàm phán của họ với ngành, doanh nghiệp. Nếu trên thị trường chỉ
có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh, ảnh hưởng
tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.

Khả năng thay thế sản phẩm của các nhà cung cấp: Nếu dễ dàng thay thế
nguyên liệu của các nhà cung cấp thì doanh nghiệp không phải chịu áp lực quá
lớn từ nhà cung cấp và chi phí để chuyển đổi nhà cung cấp cũng không lớn.
Điều này có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ phải chịu sự chi phối lớn từ nhà cung cấp
nếu số lượng các nhà cung cấp ít và ít nguyên liệu để thay thế cho sản phẩm
của các nhà cung cấp đó.
Thông tin về nhà cung cấp: Trong thời đại hiện nay thông tin luôn là
nhân tố thúc đẩy sự phát triển của thương mại, thông tin về nhà cung cấp có
ảnh hưởng lớn tới việc lựa chọn nhà cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp.
Với tất cả các ngành, nhà cung cấp luôn gây áp lực nhất định nếu họ có
quy mô, sự tập hợp và việc sở hữu các nguồn lực quý hiếm. Chính vì thế những
nhà cung cấp các sản phẩm đầu vào nhỏ lẻ (nông dân, thợ thủ công…) sẽ có rất
ít quyền lực đàm phán với các doanh nghiệp mặc dù họ có số lượng lớn nhưng
họ lại thiếu tổ chức.
+ Áp lực cạnh tranh từ khách hàng: Khách hàng là một áp lực cạnh tranh
có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của
ngành. Khách hàng được phân thành hai nhóm là khách hàng lẻ và nhà phân
phối. Cả hai nhóm này đều gây áp lực với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng
sản phẩm, dịch vụ đi kèm và chính họ là người điều khiển cạnh tranh trong
ngành thông qua quyết định mua hàng. Tương tự như áp lực từ phía nhà cung

20


cấp, khách hàng cũng tác động tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
thông qua quy mô, tầm quan trọng, chi phí chuyển đổi khách hàng và thông tin
khách hàng.
+ Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn: Theo M. Porter, đối thủ tiềm ẩn
là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới

ngành trong tương lai. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhiều hay ít, áp lực của họ
tới ngành mạnh hay yếu sẽ phụ thuộc vào các yếu tố: Sức hấp dẫn của ngành,
những rào cản gia nhập ngành (kỹ thuật, vốn, các yếu tố thương mại, các nguồn
lực đặc thù). Khi các đối thủ tiềm ẩn mạnh và rào cản gia nhập nghành không
lớn thì sẽ ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong
tương lai. Khi đó, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gặp phải
cạnh tranh gay gắt hơn, gặp phải nhiều khó khăn hơn. Do đó, có thể ảnh hưởng
tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế: Sản phẩm và dịch vụ thay thế
là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn nhu cầu tương đương với các sản
phẩm dịch vụ trong ngành. Nếu sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp dễ dàng
được thay thế bởi các sản phẩm, dịch vụ khác thì doanh nghiệp sẽ gặp phải khó
khăn trong việc duy trì lượng khách hàng của mình. Nếu như các dịch vụ bán
hàng và sau bán hàng của doanh nghiệp không tốt thì khách hàng sẽ dễ dàng từ
bỏ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp để tìm đến sản phẩm dịch vụ thay thế.
Điều này khiến cho doanh nghiệp phải bỏ ra nhiều chi phí bán hàng hơn để duy
trì và phát triển lượng khách hàng của mình. Khi chi phí tăng lên sẽ làm cho
hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm đi. Các nhân tố về giá cả, chất lượng, các
yếu tố khác của môi trường như văn hóa, chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh
hưởng tới sự đe dọa của sản phẩm thay thế tới hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh.
+ Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành (đối thủ cạnh tranh hiện hữu): Các
doanh nghiệp trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức ép trở lại
lên nghành tạo nên một cường độ cạnh tranh. Các đối thủ cạnh tranh luôn luôn
thay đổi các chiến lược kinh doanh bằng nhiều biện pháp khác nhau. Do vậy,
doanh nghiệp cần luôn luôn đổi mới để thích ứng với sự cạnh tranh của đối thủ,

21



×