Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tại sao CNH phải gắn với hđh, CNH hđh phải gắn với phát triển kinh tế tri thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.48 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN: TẠI SAO CÔNG NGHIỆP HÓA PHẢI GẮN VỚI
HIỆN ĐẠI HÓA; CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA PHẢI
GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

MÃ SỐ LỚP HP: 152LLCT230214
BUỔI HỌC: Lớp Chiều Thứ 5 (Tiết 7-9)
GIẢNG VIÊN: Nguyễn Đình Cả
NHÓM THỰC HIỆN: Nhóm 2
HỌC KỲ: 2 – NĂM HỌC: 2015-2016

TP.HỒ CHÍ MINH – 5/2016


Danh sách sinh viên thực hiện đề tài:
SV thực hiện

MSSV

Nguyễn Hoàng Tấn Vũ

14149221

Nguyễn Văn Thiết

14149162

Huỳnh Duy Bảo



14149008

Phạm Tấn Kha

14149075

GVHD: Nguyễn Đình Cả

ĐIỂM:

Nhận xét của GV:

Ghi chú


Mục lục


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

Danh mục các từ viết tắt
CNH: Công nghiệp hóa
HĐH: Hiện đại hóa
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
KTTT: Kinh tế tri thức
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
WTO (World Trade Organization): Tổ chức thương mại thế giới
GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm quốc nội
KH&CN: Khoa học và công nghệ

ICOR ( Incremental Capital - Output Ratio): hệ số sử dụng vốn, hay hệ số đầu tư
tăng trưởng, hay tỷ lệ vốn trên sản lượng tăng thêm, ...
AFTA (Asean Free Trade Area): Khu vực mậu dịch tự do Asean
ASEAN (Association of South - East Asian Nations): Hiệp hội các nước Đông
Nam Á
ASEM (The Asia-Europe Meeting): Diễn đàn hợp tác Á – Âu
KH: Khoa học
CN: Công nghệ

GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 4


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

A.

PHẦN MỞ ĐẦU

Công nghiệp hóa (CNH) là con đường tất yếu mà mọi quốc gia đều phải trải qua
trong quá trình phát triển để trở thành một nền kinh tế hiện đại. Xét về lịch sử,
CNH được diễn ra đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII. Đến nay,
đã có nhiều quốc gia hoàn thành CNH và đang tiến mạnh vào nền kinh tế hiện đại
với xu hướng nổi bật là phát triển nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, còn không ít
quốc gia, trong đó có Việt Nam, chưa đạt tới nền công nghiệp phát triển mà vẫn
còn trong tình trạng nền kinh tế đang phát triển.
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa (CNH-HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức
(KTTT) là con đường của nước ta đi sau nhằm tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của đất nước để rút ngắn quá trình phát

triển, sớm trở thành một nước xã hội hiện đại.
1.

Tính cấp thiết của đề tài:

Nhằm trang bị những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự cần thiết, nội dung và điều
kiện, tiền đề để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn với phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối cảnh mới của cách mạng khoa học – công
nghệ hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trên cơ sở các kiến thức trên và kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, người học có
thể phát triển việc nghiên cứu, đề xuất việc vận dụng chủ trương, quan điểm của Đảng
và chính sách của Nhà nước về CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức vào
thực tiễn ngành, địa phương mà mình công tác.
Nhận thức đúng tầm quan trọng của đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức ở Việt Nam trong các nhiệm vụ kinh tế xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (CNXH) cũng như trong yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định
GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 5


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta để chủ động sáng tạo trong hoạch định chính sách
và tổ chức thực tiễn.
Từ ba điều trên nhóm tôi quyết định chọn đề tài này. Để cho thấy tầm quan trọng
của viêc CNH-HĐH phải gắn với phát triển nền kinh tế tri thức.
2.


Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết, xác định nội dung CNH, HĐH gắn với phát triển

kinh tế tri thức, phân tích và đánh giá thực trạng CNH, HĐH gắn với phát triển
KTTT ở nước ta để đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa tiến trình này, phấn
đấu đưa nước ta sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3.

Đối tượng & phạm vi nghiên cứu:

3.1.Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở Việt Nam dưới góc độ Kinh tế
chính trị:
Quá trình công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ở nước ta.
CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
3.2.Phạm vi nghiên cứu:




- Về không gian: Phạm vi cả nước và thế giới để nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh
nghiệm thực tiễn để từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển.
- Về thời gian: Phân tích, đánh giá thực trạng từ khi Đảng và Nhà nước có chủ
trương gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức (năm 2001) đến nay. Phần dự
báo, đề xuất phương hướng, giải pháp thúc đẩy CNH, HĐH gắn với phát triển
KTTT được tính từ nay đến năm 2020 và triển vọng đến giữa thế kỷ XXI, tức là
đến thời điểm mà nước ta trở thành một thành phố công nghiệp hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
4.


Cơ sở lý luận:

Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối chủ trương đổi mới của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước về

GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 6


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển
KTTT nói riêng.
B.

1.1.1.

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: Quá trình công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
1.1.
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa là gì?
Quan niệm về công nghiệp hóa:
Vào cuối thế kỷ thứ XVIII, cuộc Cách mạng công nghiệp được diễn ra ở nước
Anh với sự xuất hiện “chiếc thoi bay” trong lĩnh vực se sợi. Nước Anh trở thành
quê hương của Cách mạng công nghiệp, là nước tiến CNH đầu tiên. Manchester là
thành phố công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Kể từ đây, nhân loại bước vào một
giai đoạn phát triển mới – giai đoạn CNH. Sau Anh là lần lượt các nước: Pháp vào
đầu thế kỷ XIX, Mỹ và Đức vào giữa thế kỷ XIX; Nhật, Nga và nhiều nước châu Âu

khác vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tiến hành CNH và đã lần lượt trở thành
nước công nghiệp.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (giữa thế kỷ XX), nhiều nước thuộc Thế giới
thứ ba tiến hành quá trình này với Chiến lược CNH riêng của mình. Một số dựa theo
mô hình CNH của Liên xô (cũ), một số dựa theo mô hình của Mỹ. Đến nay, một số
nước đã thực hiện CNH rút ngắn thành công, đã trở thành nước công nghiệp. Tuy
nhiên, còn không ít nước trong đó có Việt Nam vẫn trong tình trạng nền kinh tế
nông nghiệp, đang trong giai đoạn tiến hành CNH.
Do thời điểm lịch sử tiến hành CNH ở các nước không giống nhau nên đã có
những quan niệm khác nhau về CNH. Việc nhận thức đúng phạm trù CNH trong
một giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước là rất cần thiết, nó không chỉ có ý
nghĩa về lý luận mà còn có tính thiết thực trong hoạch định và thực thi chính sách
phát triển.

GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 7


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

Thực tế lịch sử cho thấy, những nước đi đầu về CNH như Anh, Pháp và một số
nước Tây Âu khác vào thời điểm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, đi liền với
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất với công nghệ chủ đạo là máy hơi nước.
Trong điều kiện đó, CNH được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng
lao động sử dụng máy móc, quá trình chuyển nền kinh tế từ nông nghiệp là chủ
yếu lên công nghiệp, biến một nước nông nghiệp truyền thống thành nước công
nghiệp.
Những biểu hiện đầu tiên của CNH được gắn với nội dung của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất. Đó là:

-

Chuyển chỗ làm việc từ gia đình vào các công xưởng trên quy mô lớn;
Tập trung dân cư ở các khu đô thị;
Thay thế hệ thống kỹ thuật thủ công dựa vào gỗ, sức cơ bắp, sức nước, sức
gió và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật cơ khí với nguồn động
lực là máy hơi nước và nguồn nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng mới là
sắt và than đá, tạo ra sự đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất, tạo bước

-

phát triển vượt bậc của công nghiệp;
Tạo ra những công việc kinh doanh mới nhờ có được những mạng lưới giao

-

thông, vận tải và thông tin liên lạc mới;
Tăng mạnh quy mô của thị trường và việc sử dụng tín dụng, ngân hàng và

-

các dịch vụ tài chính có liên quan; và
Áp dụng rộng rãi các phát minh mới. Với những biểu hiện đó, CNH còn
được hiểu là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các
ngành kinh tế của một vùng hay một nền kinh tế, quá trình chuyển nền kinh
tế dựa chủ yếu vào nông nghiệp lên nền kinh tế dựa chủ yếu vào công
nghiệp. Đây không chỉ là quá trình chuyển biến về kinh tế mà còn chuyển
biến cả về văn hóa và xã hội để đạt tới một xã hội mới - xã hội công nghiệp.

GVHD: Nguyễn Đình Cả


Page 8


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

Đến nửa cuối thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai được diễn ra
với quy mô và thành quả lớn hơn rất nhiều so với cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất. Nhiều công nghệ mới được sản xuất ra và đưa vào sử dụng. Điển hình là
con người đã sản xuất ra động cơ điện vào năm 1872, sản xuất ra động cơ đốt trong
(động cơ diesel) vào năm 1883, sản xuất ra kim loại màu và các hóa phẩm tổng
hợp. Trong điều kiện đó, quan niệm về CNH có sự thay đổi. Nó không còn đơn
thuần là cơ khí hóa, mà còn được gắn với quá trình điện khí hóa, hóa học hóa và
cơ giới hóa.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (khoảng giữa thế kỷ XX), cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ ba được diễn ra trên thế giới với sự phát triển vượt bậc và có
tính đột phá của khoa học và công nghệ. Trong giai đoạn này, tuy những quốc gia
đã hoàn thành CNH đang tiến rất mạnh vào nền kinh tế hiện đại, nhưng còn không
ít quốc gia vẫn trong tình trạng nền kinh tế lạc hậu, đang hoặc thậm chí có nước
còn chưa bước vào giai đoạn CNH. Trong bối cảnh đó, việc nhận thức phạm trù
CNH còn được hiểu đó là quá trình tự động hóa sản xuất và phát triển các công
nghệ chất lượng cao…
Tuy có những quan niệm khác nhau về CNH, nhưng về cơ bản các quan niệm trên
vẫn có những điểm chung và có thể được hiểu theo hai nghĩa:
 Theo nghĩa hẹp, CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay

tiền công nghiệp) lên nền kinh tế lấy công nghiệp làm chủ đạo, từ chỗ tỷ
trọng lao động nông nghiệp chiếm chủ yếu giảm dần và nhường chỗ cho lao
động công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn.
 Theo nghĩa rộng, CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay


tiền công nghiệp) lên kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp lên xã hội
công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp. Nó không
GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 9


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

chỉ đơn thuần là những biến đổi về kinh tế mà bao gồm cả các biến đổi về
văn hóa và xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, tức là
trình độ văn minh cao hơn.
1.1.2.

Quan niệm về hiện đại hóa:

Theo cách hiểu thông thường, hiện đại hóa (HĐH) là quá trình “làm cho mang
tính chất của thời đại ngày nay”. Đó là quá trình biến đổi từ tính chất truyền thống
cũ lên trình độ tiên tiến của thời đại hiện nay.
Theo ý nghĩa về kinh tế - xã hội, HĐH là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội
truyền thống lên xã hội hiện đại, quá trình làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội
mang tính chất và trình độ của thời đại ngày nay.
HĐH về kinh tế vừa có sự thay đổi về tính chất, vừa có tính xác định về thời gian.
Giai đoạn đầu của hiện đại hóa được xác định trùng với thời kỳ diễn ra cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất (còn gọi là thời kỳ CNH). Trong giai đoạn này,
CNH là nội dung cốt lõi của HĐH.
Tuy một số nước đi trước đã hoàn thành CNH và đã trở thành nước công nghiệp
phát triển, nhưng quá trình HĐH ở các nước đó vẫn tiếp tục diễn ra ở trình độ cao
hơn. Thực tế cho thấy, ở mỗi trình độ phát triển khác nhau, HĐH mang những đặc

trưng khác nhau. Đối với các nước phát triển, HĐH là quá trình chuyển dịch từ xã
hội dựa trên nền kinh tế công nghiệp lên xã hội dựa trên nền kinh tế tri thức. Đối
với các nước đang phát triển, HĐH là quá trình tăng tốc, rút ngắn lộ trình phát triển
để đuổi kịp các nước đi trước và phát triển hơn. Do tiến hành CNH trong bối cảnh
mới của thế giới nên bên cạnh việc dựa vào các nguồn lực trong nước, các nước
đang phát triển còn tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài thông qua thu hút đầu tư để
tìm kiếm nguồn vốn và công nghệ mới. Đây chính là kiểu CNH rút ngắn hiện đại.

GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 10


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

CNH rút ngắn hiện đại là cách thức mà nước đi sau tiến hành CNH khi trên thế giới
đã có những quốc gia hoàn thành CNH, những nội dung của CNH đã được triển khai
ổn định ở các nước đi trước (gọi là nước công nghiệp phát triển). Do sự biến đổi
nhanh chóng của tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là từ khi diễn ra cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên những công nghệ hiện có của các nước
này dễ bị lạc hậu. Do cạnh tranh trên thị trường, các nước này phải “chiếm lĩnh đỉnh
cao công nghệ”, nên họ sẵn sàng chuyển giao công nghệ hiện có của họ cho nước đi
sau để bước vào thế hệ công nghệ mới. Bởi vậy, nước đi sau có rất nhiều phương án
lựa chọn trong phát triển công nghệ mà không nhất thiết phải dựa vào phát minh.
Đây chính là “lợi thế của nước đi sau”. Dựa vào lợi thế này, nước đi sau có thể rút
ngắn đáng kể thời gian để sớm trở thành nền kinh tế hiện đại. Tại các nước này, quá
trình tiến hành CNH được gắn kết với quá trình HĐH.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về CNH
và căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam là một nước đi sau đang trong
quá trình phát triển, Đảng cộng sản Việt Nam tại Hội nghị Trung ương lần thứ bảy

khóa VII (năm 1994), nêu chủ trương tiến hành xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn mới bằng con đường CNH, HĐH
và nêu quan niệm: “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công
nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Theo quan niệm này, quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung CNH và HĐH. Nó không chỉ
đơn thuần là phát triển công nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu
trong từng ngành, lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng hiện đại.
GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 11


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

Quan niệm trên không bó hẹp CNH trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất
đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khi
như cách hiểu trước đây, mà còn là một sự kết hợp với những thành tựu mới nhất
về khoa học và công nghệ của nhân loại.

Nội dung công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta:
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế
và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Nội dung cơ bản của quá trình này là:

- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam
với tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát
triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành
lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
1.2.

1.3.

Tại sao công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa?

Đặc điểm của nước ta là nước nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, lại bị chiến
tranh phá hoại nặng nề, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây đã
dẫn nền kinh tế bị tụt hậu so với thế giới, điều đó đòi hỏi nước ta phải tiến hành
CNH.
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nếu như nước ta không kịp thời
tiến hành CNH, HDH thì bị bỏ lại phía sau. Đồng thời nước ta tận dụng được lợi
thế của các nước phát triển tiếp thu được công nghệ mà không phải bỏ công sức ra
để tìm tòi, phát minh.
Quá trình toàn cầu hóa hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, một số nước bắt đầu
chuyển sang nền kinh tế tri thức, yêu cầu nước ta bắt kịp xu thế đó.
GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 12


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam


CNH phải gắn liền với HĐH vì:


Trên thế giới:

- Khoa học công nghệ phát triển rất mạnh mẽ, các thành tựu khoa học tiên tiến ra
đời
- Quá trình toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ


Trong nước:

- Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sử dụng công cụ thô sơ, ko có sự áp dụng các
thành tựu tiên tiến trên thế giới vào sản xuất
- Chiến tranh kéo dài và hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề
- Lũ lụt hạn hán xảy ra hàng năm, tàn phá của cải
- Sự quản lý nhà nước đang yếu kém, thời kỳ bao cấp đang còn
=> Do Việt Nam CNH muộn và muốn rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các
nước phát triển thì CNH phải gắn liền với HĐH.
Chương 2: Công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri
thức
2.1. Khái niệm về kinh tế tri thức:
Năm 2000, Tổ chức Hợp tác và phát triển của các nước phát triển cùng với Diễn
đàn kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APEC) nêu quan niệm: "Kinh tế
tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động
lực chủ yếu của tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành
kinh tế" [45, tr.98].
Thuật ngữ kinh tế tri thức (KTTT) được đưa vào Văn kiện Đại hội X và Đại hội
XI của Đảng ta và được hiểu: các hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, tri

thức chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội và sự phát triển của nó được
dựa trên bốn trụ cột:





Lực lượng lao động trình độ cao, chất lượng cao;
Hệ thống sáng tạo và ứng dụng CN có hiệu quả;
Hệ thống cơ sở hạ tầng, thông tin, tin học hiện đại;
Hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế hiện đại.

GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 13


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân với các công cụ cơ khí,
cho năng suất lao động cao; còn nền KTTT, chủ thể là công nhân trí thức với công
cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức. Có thể hiểu kinh tế tri
thức là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai
trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng
cuộc sống.
2.2. Những quan điểm, nhận thức của Đảng ta về CNH-HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức:
Từ những thập kỷ cuối của thế kỷ XX cho tới nay, khoa học và công nghệ đã có

mặt tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, lần đầu tiên Đảng ta đã ghi vào văn
kiện luận điểm quan trọng về phát triển kinh tế tri thức với tư cách là một yếu tố
mới cấu thành đường lối CNH,HĐH đất nước. Đến Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục
khẳng định: “Đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức...” 1.
Điều đó thể hiện tầm nhìn xa và tính nhạy bén của Đảng ta về vấn đề này.
Để thực hiện thành công mục tiêu trên, Cương lĩnh cũng chỉ rõ: toàn Đảng, toàn
dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực, tự cường, phát huy
mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực
hiện tốt tám phương hướng cơ bản; trong đó, “Đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước gắn
với phát triển Kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường” là phương hướng cơ
bản đầu tiên. Đây không chỉ là sự tiếp tục đường lối và chiến lược CNH,HĐH đã
được xác định ở các kỳ đại hội trước, mà còn thể hiện sự nhạy bén và phát triển
sáng tạo của Đảng ta trong việc nhận thức và vận dụng học thuyết kinh tế Mác –
Lê-nin vào điều kiện cụ thể của đất nước trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, sự thay đổi
nhanh chóng các điều kiện phát triển, cả ở trong nước và trên thế giới, đòi hỏi
chúng ta phải có những nhận thức mới về nội dung và phương thức thực hiện
CNH,HĐH.
Trên thế giới hiện nay, công nghiệp hóa không chỉ gắn với các mục tiêu, giải
pháp có “tính chất truyền thống”, mà phải đạt tới mục tiêu hiện đại và dựa trên các
công cụ, giải pháp hiện đại. Theo bước phát triển kỳ diệu, đặc biệt là cuộc cách
mạng công nghệ thông tin. Sự phát triển cực kỳ nhanh chóng của các ngành công
nghệ cao, như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô... đang
GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 14


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

hội tụ với nhau để tạo thành nền tảng cho một hệ thống công nghệ mới của thế kỷ

XXI - công nghệ của nền kinh tế tri thức. Đi đôi với quá trình biến đổi lực lượng
sản xuất, từ kinh tế công nghiệp chuyển lên kinh tế tri thức, là quá trình toàn cầu
hóa. Đó là xu thế phát triển tất yếu khách quan, xu thế ấy lôi cuốn tất cả các quốc
gia, không loại trừ ai.
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, CNH-HĐH là một quá
trình lịch sử tất yếu mà Việt Nam phải trải qua nhằm cải biến nước ta thành một
nước công nghiệp, có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ; trang bị và tái trang bị công nghệ mới nhất cho tất cả các
ngành kinh tế quốc dân, chuyển từ lao động thủ công lạc hậu sang sử dụng lao
động với công nghệ (phương tiện, phương pháp) tiên tiến, hiện đại, có hàm lượng
trí tuệ cao; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh
thái, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, bảo vệ nền kinh tế độc lập, tự
chủ và đưa đất nước đi lên CNXH một cách vững chắc.
Từ thực tiễn cho thấy, để đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức,
góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn ninh”, cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; bảo đảm ổn
định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Để thực hiện
tốt vấn đề đó, cần tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế; đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ
chế thị trường; đồng thời, thực hiện tốt chính sách xã hội.
Thứ hai: Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng
cao chất lượng và sức cạnh tranh. Trong quá trình đó, phải đặc biệt coi trọng việc
phát triển KTTT, bảo đảm tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị
nội địa trong sản phẩm; phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tác, công
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, hoá chất,
công nghiệp quốc phòng. Cùng với đó, cần ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi
thế cạnh tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn
cầu; phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ; từng bước phát triển công nghiệp sinh

học và công nghiệp môi trường. Đồng thời, cần chú ý phát huy hiệu quả các khu,

GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 15


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

cụm công nghiệp (Khu công nghệ cao Hoà Lạc - Hà Nội, Khu công nghệ phần
mềm Quang Trung - thành phố Hồ Chí Minh...) và đẩy mạnh phát triển công
nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy
mô lớn và hiệu quả cao.
Thứ ba: Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao,
tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh. Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng
trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP là một hướng
quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cần tập trung phát triển một số ngành
dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, như: du lịch, hàng hải,
hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế...; hình thành một số trung tâm
dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch
vụ có giá trị gia tăng cao, như: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, lô-gistíc và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác.
Thứ tư: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển
nhanh giáo dục và đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao, là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định
đẩy mạnh phát triển và ứng dụng KH&CN, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững. Trong quá trình đó, cần đặc biệt coi trọng phát triển
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp
giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đồng thời, thực
hiện tốt các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành,

lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn; chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào
tạo nhân lực cho phát triển KTTT.
Thứ năm: Tập trung phát triển KH&CN, đảm bảo thực sự là động lực then chốt
của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, cần hướng trọng tâm hoạt
động KH&CN vào phục vụ CNH-HĐH, nhất là công nghệ thông tin, bảo đảm phát
triển theo chiều sâu góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: nâng cao
năng lực, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng KH&CN, tăng cường hội
nhập quốc tế về khoa học, công nghệ.
2.3. Những đặc điểm chủ yếu của CNH-HĐH ở nước ta hiện nay:

GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 16


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

Đường lối CNH, HĐH được Đảng ta hoạch định qua 28 năm đổi mới là đúng
đắn, toàn diện và ngày càng sáng tỏ cả về quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, bước đi...
Đây là cơ sở lý luận cho quá trình đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, tạo dựng những tiền đề để đẩy mạnh CNH, HĐH và bước đầu thực hiện CNH,
HĐH đạt những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế trong việc
hoàn thiện và tổ chức thực hiện đường lối CNH, HĐH.
Về đường lối: “Tiêu chí khi nước ta trở thành một nước công nghiệp để làm đích
hướng tới chưa được xác định cụ thể; các bước đi của cả quá trình CNH, HĐH
chưa được làm rõ; chậm cụ thể hóa mô hình, dẫn đến còn nhiều lúng túng trong
thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn” .
Trong thực tiễn vẫn còn tình trạng nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai
trò của CNH, HĐH, về quan điểm chỉ đạo CNH, HĐH. Nhiều chủ trương chính

sách đúng đắn của Đảng về CNH, HĐH chưa được thực hiện nghiêm túc.
Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH nước ta đã đạt nhiều thành tựu. Nhưng tốc
độ tăng trưởng kinh tế thấp, chưa tương xứng với khả năng. Quy mô nền kinh tế
nhỏ, Bình quân thu nhập thấp, tái sản xuất chủ yếu theo chiều rộng chưa theo
chiều sâu. Hiệu quả kinh tế còn thấp (chỉ số ICOR cao: 4-5/1). Các nguồn lực của
đất nước sử dụng chưa hiệu quả, nguồn lực trong dân chưa được phát huy. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm
Xét phương diện những đặc trưng của nền kinh tế tri thức thì chúng ta thấy cơ cấu
kinh tế - lao động của Việt Nam hiện nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các ngành dịch
vụ, công nghiệp trong GDP còn hạn chế, ngành nông nghiệp còn cao: Cơ cấu lao
động cũng chưa chuyển biến mạnh mẽ: lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn
chiếm tỷ trọng rất cao, chất lượng lao động còn nhiều hạn chế. Năng lực khoa học
và công nghệ quốc gia còn yếu; kết quả ứng dụng những công trình, bằng sáng chế
phát minh khoa học còn ít và thấp so với các nước; thị trường KH&CN (khoa học
và công nghệ) chậm được hình thành; sự gắn kết hoạt động KH&CN với giáo dục đào tạo và sản xuất, kinh doanh còn yếu
Giá trị xuất khẩu tuy khá cao, nhưng hiệu quả kém:
- Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông sản và nguyên liệu ít qua chế biến.
- Vùng kinh trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh, chưa có sự liên kết chặt chẽ.
GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 17


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

- Cơ cấu thành phần kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, môi trường đầu tư,
cạnh tranh chưa bình đẳng.
- Công tác quy hoạch chất lượng còn thấp, cơ chế thị trường chậm hoàn hiện, nhiều
chính sách chưa đủ mạnh để huy động các nguồn lực....
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế, trong đó công tác lãnh đạo của Bộ chính

trị, Ban bí thư và quản lý, điều hành của nhà nước trong xử lý mối quan hệ giữa tốc
độ và chất lượng tăng trưởng còn hạn chế; công tác dự báo chưa tốt… Sự yếu kém
của thể chế kinh tế thị trường, của chất lượng nguồn nhân lực kết cấu hạ tầng đã
trở thành những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu
kém.
Để khắc phục những hạn chế cần thực hiện đồng bộ các giải pháp:
Thứ nhất, làm tốt công tác lãnh đạo của Bộ chính trị, Ban bí thư và quản lý, điều
hành của nhà nước trong xử lý các mối quan hệ. Cụ thể là: phải giải quyết tốt mối
quan hệ giữa khoa học, công nghệ và tri thức. Sự phát triển của khoa học, công
nghệ là điều kiện cần để hình thành và phát triển kinh tế tri thức. Cần đầu tư hơn
nữa cho khoa học, công nghệ; tạo ra chính sách phát triển khoa học, công nghệ.
cần đầu tư cao vào những ngành mũi nhọn của quốc gia như: công nghệ thông tin,
nhất là công nghệ phần mềm; công nghệ số hoá, công nghệ năng lượng mới, vật
liệu mới, công nghệ sinh học...
Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ CNH, HĐH . Công
nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình
CNH, HĐH , rút ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục khoảng cách về
công nghệ thông tin.
Thứ hai, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực cho kinh tế tri
thức.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng
đến việc phát huy vai trò của khoa học, công nghệ, hướng đến kinh tế tri thức. Cụ
thể là: cần có chế tài xử lý nghiêm minh những hành vi tham nhũng làm thất thoát
tài sản nhà nước; khen thưởng xứng đáng đối với những sáng kiến, phát minh có
giá trị thực tiễn ứng dụng vào sản xuất; nghiêm túc thực hiện việc kiểm tra, đôn
đốc của các cơ quan nhà nước trong chỉ đạo thực hiện...
GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 18



Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

Thứ tư, tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều
rộng sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với chiều sâu. Cần kết
hợp hợp lý phát triển kinh tế theo hai mô hình này, một mặt khai thác những lợi thế
sẵn có về lao động, tài nguyên; mặt khác phải “đi tắt, đón đầu”, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo mô hình “hiện đại”, “rút ngắn” để phát triển kinh tế
tri thức ở Việt Nam.
2.4. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam:
2.4.1. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức là cách thức để nhanh chóng thoát khỏi lạc hậu:
CNH được bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII đây là con
đường tất yếu của mọi quốc gia muốn phát triển, thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.
CNH tạo lập một nền kinh tế dựa trên nền tảng công nghiệp hiện đại, khoa học kỹ
thuật tiên tiến, thúc đẩy sản xuất đạt năng suất, hiệu quả, chất lượng cao và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Còn HĐH chỉ mới bắt đầu thực hiện và
gắn liền với cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật từ giữa thế kỷ XX đến nay. Thực
chất HĐH là quá trình sử dụng những thành tựu khoa học và CN hiện đại và những
kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
thúc đẩy xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất làm cho nó trở nên hiện
đại hơn, tiên tiến hơn.
Trong thời đại mà nền KTTT là tài sản chung của nhân loại; CN thông tin và
truyền thông đóng vai trò chủ chốt trong mọi lĩnh vực; các sản phẩm công nghiệp
có hàm lượng tri thức cao chiếm đa số; đầu tư vô hình cho con người giáo dục,
khoa học và văn hóa lớn hơn đầu tư hữu hình cho cơ sở vật chất, CN đổi mới rất
nhanh vòng đời CN được rút ngắn, tương lai trong thế kỷ XXI không còn công
nhân trực tiếp lao động chân tay vì nền sản xuất hoàn toàn tự động hóa, thì việc áp
dụng những thành tựu KH&CN vào quá trình CNH, HĐH là điều mà không một

quốc gia nào được bỏ lỡ. CNH, HĐH theo quan điểm của Đảng ta là sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng với CN, phương tiện và phương pháp tiên tiến,
hiện đại.
Vì vậy chúng ta không thể đi theo con đường CNH tuần tự của các nước tư bản
trước kia sẽ mất tới hàng trăm năm mà phải kết hợp giữa CNH với HĐH, giữa
CNH, HĐH với phát triển KTTT. Đối với Việt Nam để tồn tại trong tiến trình toàn
GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 19


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

cầu hóa sâu rộng như hiện nay phải biết nắm lấy thời cơ, tranh thủ nắm bắt tri thức
khoa học và CN mới, những thành quả của kinh tế tri thức chắc chắn sẽ giúp chúng
ta từ một nước phát triển trung bình vươn lên thành nước phát triển sánh vai với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
2.4.2. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức là giải pháp bắt buộc để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội hiện thực:
Tiến trình phát triển của lịch sử loài người đã khẳng định rằng, mỗi phương thức
sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên nền tảng cơ sở vật
chất - kỹ thuật tương ứng. Bất cứ quốc gia đang phát triển nào muốn trở thành nền
kinh tế hiện đại đều phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của một nền sản xuất
hiện đại.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là nền sản xuất hiện đại, có cơ cấu kinh tế
hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao, dựa trên trình độ KH&CN hiện đại được hình
thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sở dĩ chiến thắng được sản xuất phong
kiến là do tạo ra nền đại công nghiệp. Lênin đã từng nói chủ nghĩa xã hội chỉ có thể

chiến thắng phương thức sản xuất tư bản khi có nền sản xuất hiện đại, có năng suất
lao động cao hơn gấp nhiều lần so với chủ nghĩa tư bản hiện có. Hay nói cách
khác, chủ nghĩa xã hội hiện thực chỉ được xây dựng trên cơ sở khi mà lực lượng
sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa cao hơn nhiều nhiều lần so với chủ nghĩa tư
bản, khi chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật lớn hơn của chủ nghĩa tư bản thì chủ nghĩa
xã hội hiện thực là ước mơ mà thôi. Để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại
cho chủ nghĩa xã hội thì phải CNH, HĐH đất nước đây là giải pháp bắt buộc nhất
là đối với nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản như ở
Việt Nam. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Nhiệm vụ quan trọng nhất của
chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội",
"Muốn đảm bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa" [58, tr.13-159].
Trong điều kiện cuộc cách mạng KH&CN đang diễn ra mạnh mẽ, kinh tế thế giới
sẽ có những biến động to lớn, theo chiều hướng chuyển mạnh sang KTTT. Lực
lượng sản xuất của xã hội loài người bước lên một thang bậc mới, với sự tăng vọt

GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 20


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

về năng suất, chất lượng, hiệu quả, các nước không đủ khả năng sẽ bị tụt hậu. Vì
vậy để xây dựng thành công chủ nghĩa xã ở nước ta hiện nay thì phải đẩy mạnh
CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Theo đó có thể nói, CNH-HĐH ở Việt Nam
không chỉ khác với các nước đã tiến hành CNH về nội dung, hình thức, quy mô,
cách thức tiến hành mà cả mục tiêu chiến lược. Chính sự khác biệt này đã làm nên
tính đặc thù của sự nghiệp CNH, HĐH mà chúng ta đang tiến hành.
2.4.3. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri

thức bắt nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn:
Nói tới hội nhập kinh tế là nói tới việc tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực
và thế giới. Hiện nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao đầy đủ với 169 nước trong
đó có tất cả các nước láng giềng và các nước lớn có quan hệ thương mại với trên
225 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức của hầu hết các tổ chức quốc
tế chủ yếu như: Thành viên của hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và
bắt đầu tham gia khu vực mậu dịch tự do Asean (AFTA); Việt Nam gia nhập diễn
đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC); đặc biệt 7/11/2006 nước ta đã chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Quá trình hội nhập kinh tế sẽ mang lại những cơ hội to lớn mà nếu biết tranh thủ
sẽ có tác động tích cực đến việc rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước, song
cũng đặt ra những thách thức hết sức gay gắt. Chủ động hội nhập vào kinh tế thế
giới là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Không thể thoát cảnh nghèo nàn,
lạc hậu, nếu đứng ngoài, biệt lập với thế giới, đặc biệt khi định hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội, càng không thể đóng cửa mà phải tận dụng mọi nguồn lực, trong đó
nguồn ngoại lực là quan trọng. Với lợi thế về nguồn nhân lực và lợi thế của nước
đi sau trong một vùng mà CN, tư bản và tri thức kinh doanh đang di chuyển nhanh
chóng, Việt Nam hoàn toàn có khả năng rút ngắn khoảng cách với các nước trong
khu vực. Tuy nhiên đó mới chỉ là tiềm năng và cơ hội. Điều kiện đủ là phải quyết
tâm thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, mạnh dạn đổi mới để tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, tích cực thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đó là những yếu tố quan trọng để tích lũy nhanh và kinh tế phát triển có hiệu
quả.

GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 21



Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

2.4.4. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức do tác động nhiều mặt của quá trình này đối với đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội:
Tác động của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT đối với xã hội loài người vô
cùng to lớn, nó không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, mà còn
kéo theo sự biến đổi trong phương thức sáng tạo của cải, trong lối sống và tư duy
của con người. Trong nền KTTT, các quy trình sản xuất đều được tự động hoá.
Máy móc không chỉ thay thế con người những công việc nặng nhọc, mà thay thế
con người ở những khâu phức tạp của sản xuất và quản lý, không chỉ thay thế thao
tác lao động của con người mà cả thao tác tư duy. Vì vậy với sự phát triển như vũ
bão của KH&CN, quốc gia nào, dân tộc nào nhanh chóng nắm bắt và làm chủ được
CN thì sẽ khai thác được nhiều hơn, nhanh hơn lợi thế của mình. Cũng chính từ
đây nảy sinh một thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển như nước ta
đó là làm thế nào để phát huy được thế mạnh nguồn nội lực thúc đẩy sự phát triển
của xã hội mà không mất đi văn hoá truyền thống quý báu của dân tộc. Sự nghiệp
CNH, HĐH ở nước ta hiện nay tất yếu phải khai thác được những tiềm năng thế
mạnh của đất nước, thúc đẩy phát triển KH&CN, coi đó là một điều kiện cần thiết
để đạt được những mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Nhận thức tính tất yếu, sự cần thiết và tác động nhiều mặt của CNH, HĐH trong
bối cảnh mới của thế giới và trong nước, kể từ Đại hội IX, Đảng ta nêu chủ trương
đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với từng bước phát triển KTTT. Chủ trương này được
tiếp tục khẳng định tại Đại hội XI với yêu cầu cấp thiết hơn: " Phát triển mạnh
khoa học, CN làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước" [36, tr
218].
2.5. Các giải pháp đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
nước ta hiện nay:

Vấn đề quan trọng hàng đầu là chúng ta phải chủ động phá huy năng lực sáng tạo
tri thức trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri thức của thế
giới toàn cầu hóa.
Thực vậy, trong điều kiện chưa có đủ nguồn lực để phát triển KTTT lên ngay
trình độ cao, ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đẩy mạnh
GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 22


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

hợp tác về công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, trên cơ sở cùng có lợi. Qua hội
nhập và hợp tác cùng với việc đi nâng cao trình độ ở nước ngoài , các chuyên gia
Việt Nam từng bước trưởng thành, có thể chủ động trong ứng dụng các công nghệ
cao và tiến tới sáng tạo tri thức mới rất cần thiết cho CNH, HĐH ở trình độ cao.
Để CNH- HĐH nhanh, nông nghiệp phải gắn với ứng dụng tri thức sáng tạo mới,
cụ thể là: phải chuyển giao tri thức về công nghệ sinh học, tri thức về giống cây
con chất lượng và năng suất cao, về canh tác và chăn nuôi hiện đại cho nông dân.
Đồng thời phải cung cấp tri thức về tổ chức sản xuất gắn với thị trường và xây
dựng nông thôn mới, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin- truyền thông trong
mọi hoạt động hiện đại hóa nông nghiệp.
Trong công nghiệp và xây dựng thì CNH, HĐH sẽ gắn kết thuận lợi với phát triển
KTTT vì công nghiệp trong kinh tế thị trường là rất hiện đại và dựa vào các công
nghệ cao. Trước hết công việc thiết kế của công nghiệp và xây dựng ở mọi cấp
phải chuyển nhanh từ thiết kế thủ công sang thiết kế bằng máy tính sẽ rất nhanh và
độ chính xác sẽ cao hơn, tranh thủ khai thác các phần mềm thiết kế và thư viện các
thiết kế sẵn có. Ngành chế tạo cũng phải chuyển nhanh sang sử dụng máy thông
minh, tự động hóa hoặc robot, các dây chuyền tự động.
Việc tiếp thu nắm vững công nghệ cao trong công nghiệp và xây dựng sẽ là điểm

tựa để chúng ta có thể sáng tạo thêm nhiều tri thức mới trong lĩnh vực này. Chúng
ta bước đầu đã đạt được một số kết quả khích lệ trong hiện đại hóa nền công
nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng. Nhưng nhìn chung vẫn còn tụt hậu so với thế
giới. Gần đây, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), một số dự án
công nghệ cao đã tăng nhanh với vốn đầu tư lớn hứa hẹn triển vọng tốt.
Dịch vụ là một lĩnh vực rất lớn của KTTT, có khi chiếm đến trên 70% GDP, bởi
vậy gắn kết với phát triển KTTT sẽ có thuận lợi đẩy mạnh hiện đại hóa nhanh dịch
vụ ở nước ta. Các ngành dịch vụ quan trọng như thương mại, tài chính, ngân hàng,
du lịch , y tế, giáo dục, pháp luật,... bắt buộc phải nhanh chóng chuyển sang ứng
dụng công nghệ thông tin, mạng internet, viễn thông toàn cầu,... Thời gian qua,
một số ngành dịch vụ ở nước ta đã có tiến bộ đáng kể trong hiện đại hóa, nhưng
nhìn chung chưa khai thác hết tiềm năng.
Về mặt xã hội có nhiều loại dịch vụ quan trọng cần hiện đại hóa theo hướng tri
thức. Tuy nhiên, đối với một nước đang phát triển như nước ta, có định hướng
GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 23


Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

XHCN thì cần tập trung vào dịch vụ hành chính điện tử (hoặc chính phủ điện tử).
Đây là một cuộc cách mạng thực sự hướng tới chủ nghĩa xã hội, vì nếu được xây
dựng đúng đắn và đầy đủ, sẽ khách quan đảm bảo được công khai, minh bạch,
không tham nhũng, công bằng, dân chủ, văn minh. Khi đó sẽ có một nền hành
chính điện tử được hiện đại hóa nhanh dẫn tới rút ngắn thời kỳ quá độ.
C.

PHẦN KẾT LUẬN


Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ
yếu, trải qua hơn 20 năm đổi mới và phát triển đến nay nền kinh tế của nước ta đã
có những thay đổi đáng kể và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ một nước
nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, mức sống thấp Việt Nam đã vươn lên trở thành
một nước có nền kinh tế khá ổn định, trở thành thành viên của WTO. Đây là một
bước tiến lớn lao khẳng định sự phát triển của nền kinh tế nhưng đồng thời cũng
tạo ra không ít thách thức đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực không ngừng để bắt kịp xu
thế thời đại và không bị tụt hậu. Gắn với phát triển kinh tế, xây dựng nền KTTT
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, phải không ngừng
đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện hiện nay việc
đẩy mạnh CNH-HĐH gắn liền với phát triển KTTT là một bước đi đúng đắn để tạo
nội lực mạnh cho kinh tế trong nước đồng thời tăng ngoại lực để có thể hòa nhập
với các nền kinh tế trên thế giới. Nghị quyết đại hội IX đã chỉ ra: “ Chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010 nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển , nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng,
tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế KTTT định hướng
xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế
được nâng cao”. Chiến lược này đã được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo
trong điều kiện cụ thể của đất nước đẻ vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cho sự nghiệp thúc đẩy nền kinh tế vươn lên mạnh mẽ
không gì khác là phải: “ Công nghiệp hóa- hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh
tế tri thức”.

GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 24



Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam

Danh mục tài liệu tham khảo
[1]. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCHTW
khóaVII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[2]. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[3]. V.I. Lênin toàn tập (1979), tập 42, Nxb Tiến bộ
[4]. Hồ Chí Minh toàn tập (1996), tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[5]. />[6]. />[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

GVHD: Nguyễn Đình Cả

Page 25


×