Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Giáo trình môn công tác xã hội với người nghèo phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.51 KB, 66 trang )

Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: CTXH với người nghèo
BÀI 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.Khái niệm nghèo, đói
1.1.1.Quan niệm về đói nghèo của quốc tế
Quan niệm về nghèo đói của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân
cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định
nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của
con người về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác
nhau chỉ là thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi. Điều này phụ thuộc vào trình độ
phát triển KTXH cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith quan niệm: “Con người bị coi là nghèo khổ
khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ
rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số
trong cộng đồng coi như các cần thiết tối thiểu để sống một cảnh đúng mức”.
Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ
chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993 đó đưa ra khái niệm: nghèo là tình trạng
một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con
người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển
KTXH và phong tục tập quán của địa phương.
Ủy ban này cũng đưa ra hai khái niệm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối:
+ Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa
mãn các nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống.
+ Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng.
WB đưa ra quan điểm về nghèo đói như sau: nghèo là một khái niệm đa
chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất; nghèo không chỉ gồm các chỉ số
dựa trên thu nhập mà còn gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như: dinh dưỡng,
sức khỏe, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không
có quyền lực. Đây chính là cách tiếp cận đa chiều về khái niệm nghèo. Như vậy,


quan điểm tiếp cận mới về nghèo không chỉ đề cập đơn thuần đến thu nhập mà cần
phải hiểu nghèo là một vấn đề đa khía cạnh.

1


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

Như vậy, quan điểm tiếp cận mới về nghèo không chỉ đề cập đơn thuần đến
thu nhập mà cần phải hiểu nghèo là một vấn đề đa khía cạnh.
Các khía cạnh của đói nghèo:
 Về thu nhập và tài sản:
Đa số những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có mức
thu nhập thấp. Điều này do tính chất công việc của họ đem lại. Người nghèo
thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, công việc cực nhọc
nhưng thu nhập chẳng được là bao. Hơn thế nữa, những công việc này lại thường
rất bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ thuộc vào thời vụ và có tính rủi
ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn như mưa, nắng, lũ lụt, hạn hán,
động đất...). Các nghề thuộc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là những ví
dụ cho vấn đề này. Do thu nhập thấp nên việc chi tiêu cho cuộc sống của những
người nghèo là rất hạn chế. Hầu hết các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người
như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ được đáp ứng với mức độ rất thấp, thậm chí còn
không đủ. Nhiều người rơi vào cảnh thiếu ăn liên miên: chưa nói đến vấn đề đủ
dinh dưỡng, riêng việc đáp ứng lượng calo cần thiết, tối thiểu cho con người để có
thể duy trì hoạt động sống bình thường họ cũng chưa đáp ứng được, hoặc đáp ứng
một cách khó khăn. Điều này đã kéo theo hàng loạt các vấn đề khác như làm giảm
sức khoẻ của người nghèo, do đó giảm năng suất lao động, từ đó giảm thu nhập...
cứ như thế, nó đã tạo nên vòng luẩn quẩn mà người nghèo rất khó thoát ra được.

Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản ở những người nghèo. Tài
sản ở đây có thể là tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tự nhiên, tài sản tài
chính, tài sản xã hội. Tài sản con người thể hiện ở khả năng có được sức lao động
cơ bản, kỹ năng và sức khoẻ tốt.
Bên cạnh đó, do thu nhập thấp nên người nghèo không thể đáp ứng một cách
đầy đủ nhu cầu về lương thực thực phẩm. Ăn uống cực kì thiếu thốn cộng với lao
động nặng nề đã làm giảm sức khoẻ của người nghèo do đó cũng không đảm bảo
được các kỹ năng cũng như sức lao động cơ bản.
Tài sản tự nhiên như đất đai, thiếu tài sản tự nhiên có nghĩa là thiếu, không
có hoặc có nhưng đất đai quá cằn cỗi, không thể canh tác được.
Tài sản vật chất ở đây như nhà ở, phương tiện sản xuất - người nghèo có rất
ít hoặc hầu như không có các phương tiện sản xuất. Điều này đã hạn chế khả năng
2


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

lao động của họ, làm họ khó khăn hơn nhiều so với những người có đủ phương tiện
sản xuất nó cũng làm giảm thu nhập của họ.
Còn về nhà ở, đại đa số người nghèo sống trong những căn nhà tạm bợ, dột
nát, chật chội. Nhiều căn nhà không đủ đảm bảo an toàn, không bảo đảm sức khoẻ
cho những người sống trong đó. Do không có những tài sản giá trị để bảo đảm nên
người nghèo cũng có rất ít khả năng tiếp cận với các tổ chức cho vay vốn, do thu
nhập thấp nên người nghèo cũng không có khả năng tiết kiệm nhiều. Đó chính là
thiếu hụt tài sản tài chính.
Về tài sản xã hội, người nghèo cũng bị hạn chế do chính hoàn cảnh của họ
tạo nên. Kinh tế khó khăn, lo lắng đến từng bữa ăn hàng ngày khiên cho người
nghèo không quan tâm hoặc không có khả năng cũng như điều kiện để chăm chút

đến các mối quan hệ xã hội của mình. Mặt khác, sự bó hẹp về kinh tế cũng khiến
cho họ ít tham gia vào các tổ chức, nhóm nào do đó người nghèo dần bị cô lập và
do đó khó nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, hội khi gặp khó khăn.
 Y tế - giáo dục:
Những người nghèo có nguy cơ mắc phải các bệnh thông thường cao như ốm
đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ không được tốt do ăn uống
không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống ở những vùng có
điều kiện vệ sinh, y tế thấp, còn nhiều hạn chế, chẳng hạn, họ không được sử dụng
nguồn nước sạch, không có công trình phụ hợp vệ sinh, điều này cũng làm giảm
đáng kể sức khoẻ của họ. Nó đã dẫn đến tình trạng tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh trong
nhóm hộ nghèo, số trẻ bị suy dinh dưỡng và số bà mẹ mang thai thiếu máu rất cao.
Có điều này là do người nghèo có thu nhập thấp, không đủ trả khoản tiền viện phí
lớn cũng như các chi phí thuốc men khác, thêm vào đó có thể do đối xử bất bình
đẳng trong xã hội, người nghèo không được quan tâm chữa trị bằng người giàu nên
tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ y tế của người nghèo là rất thấp. Bên cạnh đó, do nhận
thức của người nghèo, họ thường không quan tâm lắm bệnh tật của mình, khi bị
bệnh họ thường cố tự chạy chữa bằng mọi biện pháp rẻ tiền, chỉ đến khi bệnh trở
nên trầm trọng họ mới vào viện vì vậy việc điều trị đem lại hiệu quả không cao mà
còn tốn thêm nhiều khoản tiền không đáng có.
Tình trạng giáo dục đối với người nghèo cũng là vấn đề đáng thất vọng. Hầu
hết những người nghèo không đủ điều kiện học đến nơi đến chốn. Tỷ lệ thất học,
mù chữ ở hộ nghèo, đói cao. Có tình trạng như vậy là do các gia đình này không
3


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

thể trang trải được các chi phí về học tập của con cái họ như tiền học phí, tiền sách

vở... đi học, họ sẽ mất đi một lao động trong gia dình. Những người nghèo cũng đã
nhận thức rõ được tầm quan trọng của học thức với nghèo đói nhưng vấn đề học
phí của con em họ quả là vấn đề quá khó khăn với tình hình tài chính của gia đình.
Và chính từ việc mất đi cơ hội với giáo dục này, người nghèo đã khiến cho chính
bản thân họ mất đi nhiều cơ hội trong cuộc sống liên quan đến công việc tăng thu
nhập cũng như các cơ hội khác.
Tóm lại, y tế - giáo dục là vấn đề được nhiều người nghèo quan tâm, họ cũng
đã hiểu rõ tầm quan trọng của các yếu tố này tới bản thân họ cũng như tương lai
của họ và gia đình nhưng do thu nhập thấp, không đủ trang trải, học phí, viện phí,
họ đành phải để con cái thôi học, người bệnh không được khám và chữa chạy đúng
mức, kịp thời, hầu hết các người nghèo không được tiếp cận với các dịch vụ y tế.
Điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ, giảm sức khoẻ cũng như hạn chế
cơ hội phát triển của các thế hệ sau.
 Nguy cơ dễ bị tổn thương:
Ở những người nghèo, nguy cơ dễ bị tổn thương là nhân tố luôn đi kèm với
sự khốn cùng về vật chất và con người. Vậy nguy cơ dễ bị tổn thương là gì? Nó
chính là nguy cơ mà người nghèo phải đối mặt với nhiều loại rủi ro như bị ngược
đãi, đánh đập, thiên tai, bị thôi việc, phải nghỉ học... Nói cách khác, những rủi ro
mà người nghèo phải đối mặt do tình trạng nghèo hèn của họ chính là nguyên nhân
khiến họ rất dễ bị tổn thương. Những người nghèo do tài sản ít, thu nhập thấp, họ
chỉ có thể trang trải hạn chế, tối thiểu các nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống. Vì
vậy, khi rủi ro xảy ra họ rất dễ bị tổn thương và rất khó vượt qua được các cú sốc
có hại, những cú sốc mang tính tạm thời mà những người có nhiều tài sản hơn dễ
dàng vượt qua được. Do thu nhập thấp, người nghèo có rất ít khả năng tiếp cận với
các cơ hội tăng trưởng kinh tế, vì thế họ thường phải bỏ thêm các chi phí không
đáng có hoặc giảm thu nhập. ở các hộ nghèo, khi có rủi ro xảy ra như mất cắp hay
có người bị ốm đau thì họ dễ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm đảo lộn cuộc
sống của cả gia đình mà một thời gian lâu sau mới có thể phục hồi được. Cũng có
khi việc khắc phục những rủi ro trong ngắn hạn có thể làm trầm trọng thêm sự khốn
cùng của họ trong dài hạn. Chẳng hạn, ví dụ trên, do thiếu tài sản nên để chạy chữa

cho một người bị ốm, gia đình đã buộc phải quyết định cho một đứa con nghỉ học
hay họ phải bán trâu, bò, ngựa... những phương tiện lao động cần thiết của gia đình.
Cũng có thể người bệnh thì không khỏi được còn gia đình từ cảnh khá giả rơi vào
4


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

cảnh khốn cùng. Như vậy, nếu có thêm một vài sự kiện nghiêm trọng nữa xảy ra thì
sự suy sụp đến cùng kiệt là điều khó tránh khỏi với người nghèo.
Nguy cơ dễ bị tổn thương đã tạo nên một tâm lý chung của người nghèo là sợ
phải đối mặt với rủi ro, vì vậy họ luôn né tránh với những vấn đề mang tính rủi ro
cao, kể cả khi điều đó có thể đem lại nhiều lợi ích cho họ nếu thành công (ví dụ đầu
tư vào giống lúa mới, áp dụng phương thức sản xuất mới...) chính điều này đã làm
họ sống tách biệt với xã hội bị cô lập dần với guồng quay của thị trường và do vậy
cuộc sống của họ càng trở nên bần cùng hơn.
 Không có tiếng nói và quyền lực:
Những người nghèo thường bị đối xử không công bằng, bị gạt ra ngoài lề xã
hội do vậy họ thường không có tiếng nói quyết định trong các công việc chung của
cộng đồng cũng như các công việc liên quan đến chính bản thân họ. Trong cuộc
sống những người nghèo chịu nhiều bất công do sự phân biệt đối xử, chịu sự thô
bạo, nhục mạ, họ bị tước đi những quyền mà những người bình thường khác
nghiễm nhiên được hưởng. Người nghèo luôn cảm thấy bị sống phụ thuộc, luôn
nơm nớp lo sợ mọi thứ, trở nên tự ti, không kiểm soát được cuộc sống của mình.
Mặt khác, những yếu tố như không có điều kiện về mặt giáo dục khiên cho kiến
thức xã hội và kĩ năng của người nghèo trong việc tham gia, thương lượng, cũng
như yêu cầu sự thay đổi đối với các bên liên quan và những thể chế có ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi của họ trở nên khó khăn. Và trong hoàn cảnh nghèo, những

đối tượng không có tiếng nói, quyền lực cũng như mất đi nhiều cơ hội nhất là phụ
nữ và trẻ em. Họ bị đối xử bất bình đẳng trong chính gia đình của họ. Người phụ
nữ không có quyền quyết định việc gì và phải phụ thuộc hoàn toàn vào người
chồng của mình.
1.1.2. Quan niệm nghèo đói của Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề đói nghèo được quan tâm và đặc biệt chú ý từ sau năm
1990 khi sự phân hóa giàu nghèo ngày càng trở nên rõ rệt. Việt Nam mới thoát ra
khỏi danh sách những nước nghèo, tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người vẫn
thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Qua nhiều cuộc khảo
sát, nghiên cứu, khái niệm nghèo đói được công nhận phổ biến là:

5


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

+ Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thỏa mãn một
phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng với mức sống
tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
+ Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Tùy thuộc vào tính chất của từng cuộc điều tra, nghiên cứu, khái niệm nghèo
được sử dụng nhấn mạnh tới khía cạnh lương thực, thực phẩm hay phi lương thực,
thực phẩm hoặc cả hai. Ví dụ, quan niệm về nghèo thường được nhắc tới nhất là
nghèo lương thực, nghĩa là, một hộ gia đình được coi là nghèo lương thực khi chi
tiêu của họ thấp đến nỗi dù họ có chi tiêu tất cả tiền cho lương thực thì cũng không
đủ 2.100 kalo/người/ngày.
Với sự phát triển của kinh tế và con người, trong các cuộc điều tra khảo sát

về vấn đề nghèo, các cơ quan, tổ chức chính phủ cũng đã đề cập tới khái niệm
nghèo theo bình diện nghèo đa chiều nghĩa là không đơn thuần về lương thực, thực
phẩm hay vật chất nữa.
Ví dụ, quan niệm về nghèo trẻ em trong điều tra mức sống dân cư 2010 của
Tổng cục thống kê: Trẻ em nghèo được xác định theo hai cách. Cách thứ nhất xác
định trẻ em nghèo là những trẻ em sống trong những hộ gia đình nghèo - là những
hộ giai đình có mức thu nhập hoặc chi tiêu thấp hơn mức sống tối thiểu hay dưới
chuẩn nghèo. Cách này xác định trẻ em nghèo dưới góc độ kinh tế đơn thuần. Trẻ
em nghèo được xác định theo cách này gọi là trẻ em nghèo tiền tệ (hoặc nghèo
kinh tế, nghèo thu nhập, nghèo chi tiêu) hoặc trẻ em nghèo đơn chiều.
Cách thứ hai xác định trẻ em nghèo theo cách nhìn đa chiều. Nói chung thu
nhập hoặc chi tiêu càng cao thì càng có khả năng đảm bảo một cuộc sống đẩy đủ
hơn về vật chất và tinh thần và ngược lại.. Tuy nhiên, trong thực tế trẻ em chưa tạo
ra được thu nhập cũng như không tự quyết định được chi tiêu mà hoàn toàn phụ
thuộc vào môi trường sống, sự bao cấp của gia đình và sự bảo trợ của xã hội. Mặt
khác, trẻ em cần có những nhu cầu đặc biệt khác để phát triển toàn diện cả về thể
chất, tinh thần và trí tuệ cho đnế khi trưởng thành, có khả năng tự quyết định, lựa
chọn và tạo dưngj cuộc sống tốt đẹp. Trên quan điểm đó, cách thứ hai xác định trẻ
em nghèo không chỉ dưới góc độ kinh tế mà xét 8 lĩnh vực khác thuộc về nhu cầu
phát triển của trẻ em, gồm: giáo dục, y tế, dinh dưỡng, nhà ở, nước sạch và điều
kiện vệ sinh, không lao động sớm, vui chơi giải trí và hòa nhập BTXH. Trẻ em
6


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

không được đảm bảo ít nhất 2 trong 8 nhu cầu trên thì được coi là trẻ em nghèo đa
chiều. Tỉ lệ trẻ em nghèo năm 2010 được tính trên 6 lĩnh vực (không có số liệu về

dĩnh dưỡng và vui chơi giải trí) là 20,6% so với năm 2008 là 28,9%.
1.2.Tiêu chí xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo
Tiêu chí xác định hộ nghèo và cận nghèo được xác định theo từng giai đoạn
khác nhau.
Chuẩn nghèo mới nhất được áp dụng theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg
về chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015:
- Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4,8 triệu đồng/người/năm) trở xuống.
- Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6 triệu đồng/người/năm) trở xuống.
- Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng
đến 520.000 đồng/người/tháng.
- Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến
650.000 đồng/người/tháng.
Mức chuẩn nghèo quy định nêu trên là căn cứ để thực hiện các chính sách an
sinh xã hội và chính sách kinh tế, xã hội khác.
Dựa trên căn cứ về chuẩn nghèo quốc gia này, các địa phương căn cứ tình
hình thực tế của địa phương mình và ban hành chuẩn hộ cận nghèo địa phương đó.
Ví dụ như UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định số
37/2012/QĐ-UBND ngày 12 tháng 8 năm 2012 về chuẩn hộ cận nghèo của thành
phố áp dụng cho giai đoạn 2012 - 2015 như sau: Hộ cận nghèo thành phố là những
hộ dân (thường trú và tạm trú KT3 trên địa bàn thành phố) có mức thu nhập bình
quân từ 12.000.001 đồng/người/năm đến 16 triệu đồng/người/năm), không phân
biệt nội thành và ngoại thành.
UBND Thành phố Hà Nội cũng ban hành Quyết định số 01/2011/QĐ-UBND
về chuẩn nghèo, chuẩn cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015 của Thành
phố Hà Nội như sau:
7



Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

1. Chuẩn nghèo:
- Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 750.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo
- Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 550.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
2. Chuẩn cận nghèo:
- Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 751.000
đồng/người/tháng đến 1.000.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.
- Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 551.000
đồng/người/tháng đến 750.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.
1.3.Khái niệm người nghèo, xã nghèo, huyện nghèo
1.3.1.Người nghèo
Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội, tổ chức tại
Copenhagen, Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra định nghĩa: người nghèo là tất cả
những ai có thu nhập thấp hơn dưới 1 USD mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được
coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại.
Ở Việt Nam, theo Bộ Lao động thương binh và xã hội, từ năm 1993, một
người được coi là nghèo khi anh ta không có đủ tiền mua 20 kg gạo ở thành thị và
15kg gạo một tháng ở nông thôn. Những con số này sau đó tăng lên thành 25 và
20kg vào năm 1995 và đến năm 1997 thì ngưỡng 15 kg được đưa ra cho miền núi.
Năm 2001, những con số này bắt đầu được tính bằng tiền với mức 150.000 cho
thành thị và 100.000 cho nông thôn.
Cho tới nay, tiêu chí đánh giá về người nghèo đã có những thay đổi phù hợp
với sự phát triển của kinh tế và xã hội.
1.3.2. Xã nghèo
Năm 1997, Việt Nam đưa ra chuẩn nghèo đói thuộc phạm vi của chương

trình quốc gia (chuẩn nghèo quốc gia cũ) để áp dụng cho thời kỳ 1996-2000 như
sau: Xã nghèo: là xã có tỷ lệ hộ nghèo đói từ 40% trở lên, thiếu cơ sở hạ tầng
8


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

(đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sinh hoạt, thuỷ lợi
nhỏ và chợ).
Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-BLĐTHXH năm 2002 ban hành tiêu chí
xã nghèo giai đoạn 2001-2005 là:
1- Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên;
2- Chưa đủ từ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (bao gồm: đường
giao thông; trường học; trạm y tế; nước sinh hoạt; điện sinh hoạt; chợ) cụ thể là:
- Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch;
- Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt;
- Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được cả năm;
- Chưa có chợ hoặc chợ tạm thời.
- Chưa có trạm y tế hoặc có nhưng là nhà tạm
- Số phòng học (theo qui định của Bộ giáo dục và Đào tạo chỉ đáp ứng được dưới
70% nhu cầu của học sinh)
Trong Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 có
qui định hiện có 2 loại đối tượng xã nghèo, đó là xã đặc biệt khó khăn vùng bãi
ngang, vùng ven biển và hải đảo và xã có tỉ lệ nghèo trên 25%. Theo đó, xã đặc biệt
khó khăn vùng bãi ngang, vùng ven biển và hải đảo xác định theo tiêu chí trong
Quyết định số 257/2003/QĐ-Ttg ngày 03 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính
phủ), là các xã có vị trí ở vùng bãi ngang ven biển hoặc là các xã cồn, bãi, đầm phá,
bán đảo, hải đảo và có đủ các điều kiện: là các xã nghèo theo tiêu chí xã nghèo cho

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội qui định tại Quyết định số 587/2002/QĐLĐTBXH ngày 22/5/2002 và không thuộc xã 135; Còn thiếu cơ sở hạ tầng thiết
yếu phục vụ sản xuất, tùy theo điều kiện cụ thể từng xã, bo gồm: bở bao chống
triều cường, kè, công trình thủy lợi, trạm bơm cấp nước biển cho nuôi trồng thủy
sản, làm muốn, đường ra bến cá, chợ cá…; và xã có tỉ lệ nghèo trên 25% theo
chuẩn hiện hành tính từ năm 2006.
1.3.3. Huyện nghèo
Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và
bền vững đối với 62 huyện nghèo thuộc 20 tỉnh có số hộ nghèo trên 50%.

9


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Tỉnh

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

Số huyện
nghèo

Tên huyện

Hà Giang

6

Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng
Xu Phì, Xín Mần

Cao Bằng


5

Bảo Lâm, Bảo Lạc, Thông Nông, Hà Quảng, Ha
Lang

Lào Cai

3

Si Ma Cai, Mường Khương, Bắc Hà

Yên Bái

2

Mù Cang Chải,Trạm Tấu

Bắc Kạn

2

Ba Bể, Pác Nặm

Bắc Giang 1

Sơn Động

Phú Thọ


1

Tân Sơn

Sơn La

5

Sốp Cộp, Phù Yên, Bắc Yên, Mường La, Quỳnh
Nhai

Lai Châu

5

Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tân Yêu, Than
Uyên

Điện Biên

4

Điện Biên Đông, Mường Nhé, Tủa Chủa, Mường
Ảng

Thanh
Hóa

7


Lang Chánh, Thường Xuyên, Quan Hóa, Quan Sơn,
Mường Lát, Như Xuân, Ba Thước

Nghệ An

3

Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong

Quảng
Bình

1

Minh Hóa

Quảng Trị 1

Đa Krong

Quảng
Ngãi

6

Sơn Hà, Trà Bông, Sơn Tây, Minh Long, Tây Trà,
Ba Tơ

Quảng
Nam


3

Nam Trà My, Tây Giang, Phước Sơn

Bình Định

3

An Lão, Vĩnh Thanh, Vân Canh
10


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

Ninh
Thuận

1

Bác Ái

Kon Tum

2

Tu Mơ Nông, Kon Plong


Lâm Đồng 1

Đam Rông

1.4.Khái niệm về chuẩn nghèo
1.4.1.Chuẩn nghèo là gì?
Chuẩn nghèo (hay còn gọi là ngưỡng nghèo) là tổng hợp các giá trị tối thiểu
mà cá nhân hay hộ gia đình ở dưới mức đó được coi là nghèo (nhu cầu ăn, mặc, ở,
đi lại, giáo dục, y tế, văn hóa, giao tiếp).
Như vậy, theo khái niệm này, chuẩn nghèo được hiểu là một tiêu chí nhằm
xác định một cá nhân hay một hộ gia đình nào đó có mức sống dưới mức sống tối
thiểu về các nhu cầu vật chất và tinh thần (nhu cầu lương thực, thực phẩm và phi
lương thực, thực phẩm)
Trên thực tế, hầu hết cách tính chuẩn nghèo hiện nay đều dựa trên cách xác
định chi phí để mua được lượng Kcalo nhất định (ước tính một người cần tối thiểu
2.100 kcalo/ngày để tồn tại) cộng với một khoản chi phí cho các nhu cầu phi lương
thực, thực phẩm như: y tế, giáo dục, văn hóa nghệ thuật…
Các quốc gia khác nhau sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau để đánh giá mức
độ giàu nghèo. Nước Mỹ áp dụng mức chuẩn từ những năm 60 của thế kỷ trước, cụ
thể, thu nhập 18.600 đô la/năm là ngưỡng nghèo đối với các gia đình có bốn người
(gồm bố mẹ và hai con), và thu nhập 9.573 đô la/năm là ngưỡng nghèo đối với
người độc thân trong độ tuổi lao động. Theo chuẩn này thì năm 1993 nước Mỹ có
15,1% dân số nghèo khổ, năm 2000 tỷ lệ đó giảm xuống còn 11,3%, nhưng tới năm
2003 thì tỷ lệ người nghèo của nước Mỹ tăng lên 12,5% (tức là khoảng 35,9 triệu
người dân Mỹ sống trong tình trạng nghèo đói).
Malaysia sử dụng tiêu chuẩn 9.910 kcalo một ngày tính trên một gia đình có
hai người lớn và ba trẻ em để làm đường nghèo. Ấn Độ áp dụng ngưỡng nghèo với
chuẩn mực tiêu thụ bình quân đầu người hàng ngày 2.400 kcalo đối với vùng nông
thôn và 2.100 kcalo đối với vùng đô thị. Pakistan lấy đường nghèo là tiêu thụ 2.350
kcalo bình quân một người lớn qui ước hàng ngày. Philipines lại lấy ngưỡng nghèo

ở mức 2.000 kcalo. Tương tự, Sirilanca: 2.500 kcalo; Nepal: 2.124 kcalo; Thái Lan:
11


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

2.099 kcalo; Bangladesh: 2.122 kcalo; một số quốc gia khác lại sử dụng ngưỡng
nghèo là tiêu thụ một ngày 2.100 kcalo một người, như Lào, Campuchia, Trung
Quốc, Indonesia.
Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng ấy, vẫn còn tình trạng thiếu
thống nhất về tiêu chuẩn nghèo đói quốc gia. Năm 2000, Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội đưa ra ngưỡng nghèo mới làm căn cứ xác định mục tiêu xoá đói
giảm nghèo cho giai đoạn 2001 - 2005. Ngưỡng nghèo đó được ấn định cho từng
khu vực: nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng; nông thôn đồng
bằng: 100.000 đồng/người/tháng; thành thị: 150.000 đồng. Tiêu chuẩn được Tổng
cục Thống kê sử dụng trong các cuộc điều tra mức sống dân cư là mức tiêu thụ
2.100 ca-lo/ngày/người giống như một số quốc gia khu vực.
Hậu quả của việc sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau ấy giữa các quốc gia làm
ngưỡng nghèo đã gây ra những khó khăn lớn cho việc so sánh quốc tế. Ngay cả
việc so sánh động thái theo thời gian về tình trạng nghèo của một quốc gia cũng
thiếu chính xác. Ví dụ nước Mỹ dùng mức chuẩn của gần nửa thế kỷ trước, khi mà
mẫu tiêu dùng của dân cư khác hẳn với ngày nay, để phản ánh tình trạng nghèo đói
hiện nay là không phù hợp. Nửa thế kỷ trước, người dân Mỹ chi gần một phần ba
thu nhập cho ăn uống, nhưng ngày nay họ chỉ chi 13,2% thu nhập cho lương thực
và chi một phần ba thu nhập cho nhà ở. Việc sử dụng tiêu thức tỷ lệ dân số sống
dưới mức nghèo và tỷ lệ hộ gia đình nghèo cũng không đồng nhất, vì số lượng
thành viên trong gia đình rất khác nhau. Tỷ lệ hộ nghèo thấp, nhưng nếu đó lại là
các hộ đông người, thì khi chuyển sang tỷ lệ dân số nghèo chưa chắc đã thấp.

Để đảm bảo tính so sánh quốc tế của chỉ tiêu tỷ lệ dân số sống dưới mức
nghèo, WB đưa ra 2 mức chuẩn là thu nhập dưới 1 đô la Mỹ 1 ngày và thu nhập
dưới 2 đô la Mỹ 1 ngày được chuyển đổi theo sức mua tương đương (PPP Purchasing Power Parity) của đô la Mỹ năm 1993, có nghĩa là tương đương với
mức 1,08 USD/ngày/người và mức 2,16 USD/ngày/người của năm 2002.
1.4.2. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo của Chương trình XĐGN Quốc gia
Căn cứ vào quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, nguồn lực tài chính 20012005 và mức sống thực tế của người dân ở từng vùng, Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội Việt Nam đưa ra chuẩn nghèo đói nhằm lập danh sách hộ nghèo từ cấp
thôn, xã và danh sách xã nghèo từ các huyện trở lên để hưởng sự trợ giúp của
Chính phủ từ Chương trình mục tiêu Quốc gia về XĐGN và các chính sách hỗ trợ
khác...
12


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

Trước những thành tích của công cuộc giảm nghèo cũng như tốc độ tăng
trưởng kinh tế và mức sống, từ năm 2001 đã công bố mức chuẩn nghèo mới để áp
dụng cho thời kỳ 2001-2005, theo đó chuẩn nghèo của Chương trình XĐGN quốc
gia mới được xác định ở mức độ khác nhau tuỳ theo từng vùng, cụ thể bình quân
thu nhập là: 80 nghìn đồng/người/tháng ở các vùng hải đảo và vùng núi nông
thôn;100 nghìn đồng/người/tháng ở các vùng đồng bằng nông thôn; 150 nghìn
đồng/người/ tháng ở khu vực thành thị.
Tuy nhiên, do sự phát triển kinh tế và biến động giá cả theo từng năm, chuẩn
nghèo quốc gia cũng được thay đổi cho phù hợp
Bảng: Chuẩn nghèo (sau khi được cập nhật giá) được sử dụng để tính tỷ lệ
nghèo cho các năm
Năm


Thành thị

Nông thôn

2004

218.000

168.000

2006

260.000

200.000

2008

370.000

290.000

2010

450.000

360.000

(Nguồn: Tổng cục thống kê. Kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2010)
Ý nghĩa của việc xác định chuẩn nghèo: Việc xác định chuẩn nghèo trong từng

giai đoạn phát triển của quốc gia có ý nghĩa đối với sự phát triển nói chung
- Xác định được đối tượng của Chương trình mục tiêu Quốc xóa đói, giảm nghèo
cần trợ giúp.
- Tổ chức thực hiện hỗ trợ người nghèo tiếp cận các chính sách xóa đói, giảm
nghèo.
- Cho phép đánh giá tác động của chính sách của Nhà nước tới người nghèo.
- Cho phép so sánh nghèo đói theo thời gian.
- Làm căn cứ để so sánh giữa các quốc gia với nhau.
- Giám sát chi tiêu xã hội có lợi cho người nghèo.
- Định hướng và hoạch định chính sách có lợi cho người nghèo.

13


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

2. Thực trạng về nghèo đói và công tác XĐGN ở Việt Nam
2.1. Thực trạng vấn đề nghèo đói trên thế giới
Theo số liệu thống kê của WB (WB) năm 1981 trên thế giới có 1,5 tỉ người
nghèo tương ứng với 40% dân số thế giới, năm 1993 số người nghèo là 1,314 tỉ
người (29% dân số thế giới), đến năm 2001 có 1,1 tỷ người (21% dân số thế giới)
có thu nhập ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức mua địa phương và vì thế được xem là
rất nghèo. Phần lớn những người nghèo này sống tại Châu Phi, Châu Á. Trong khi
nhờ vào tăng trưởng kinh tế tại nhiều vùng của Châu Á, tỷ lệ người nghèo giảm
xuống rõ rệt (từ 58% xuống còn 16% tại Đông Á) thì con số những người nghèo
nhất lại tăng lên ở châu Phi (gần gấp đôi từ 1981 đến 2001 phía Nam sa mạc
Sahara). Tại Đông Âu và Trung Á con số những người nghèo nhất đã tăng lên đến
6% dân số năm 2004. Nếu như đặt ranh giới nghèo là 2 đô la Mỹ mỗi ngày thì có

tổng cộng là 2,7 tỉ người nghèo, gần một nửa dân số thế giới.
Nhưng trong năm 2008, năm đầu tiên của cuộc khủng hoảng tài chính và
lương thực trên thế giới thì cả số lượng và tỷ lệ người có mức sống dưới 1,25
USD/ngày (mức được xếp loại nghèo đói theo chuẩn giá cả năm 2005) đã giảm trên
mọi khu vực của thế giới. Theo WB ước tính năm 2010, tình trạng nghèo đói toàn
cầu chỉ bằng 1/2 mức năm 1990. Như vậy, thế giới đã đạt “Mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ " của LHQ là giảm tình trạng đói nghèo trên thế giới xuống còn một nửa từ
năm 1990 đến 2015, sớm hơn 5 năm. Điều này cho thấy, mặc dù cuộc khủng hoảng
kép, tốc độ giảm nghèo dài hạn vẫn được duy trì ở mức trên 1% trong giai đoạn
2008-2010.
2.2. Tình hình nghèo đói hiện nay ở Việt Nam
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc giảm tỷ lệ
nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn còn rất mong
manh.
Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do vậy
chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng
nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn
lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người nghèo rất bấp
bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và cộng đồng.
Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh với
14


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

ngưỡng nghèo đói, do vậy, khi có những dao động về thu nhập cũng có thể khiến
họ trượt xuống ngưỡng nghèo.

2.2.1. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn
Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo
nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc ở các
vùng Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của thời tiết (bão,
lụt, hạn hán...) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng
thêm khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng nghèo đã
làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. Năm 2000, khoảng 2030% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung
tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa
có nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% chưa đủ công
trình thuỷ lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã.
Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện
cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái
đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi nghèo vẫn còn lớn.
2.2.2. Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% số người
nghèo sinh sống ở nông thôn. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực, thực phẩm
của thành thị là 4,6%, trong khi đó của nông thôn là 15,9%. Trên 80% số người
nghèo là nông dân, trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong
sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ...), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó
khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo
nàn. Những người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ
thống thông tin, khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông
nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ
cao tuổi là những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều
thời gian hơn, nhưng thu nhập ít hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đình và
cộng đồng do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang
lại.
2.2.3. Nghèo đói trong khu vực thành thị
Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức sống trung bình
cao hơn so với mức chung cả nước, nhưng mức độ cải thiện điều kiện sống không

15


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

đồng đều. Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức,
công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước dẫn
đến sự dôi dư lao động, mất việc làm của một bộ phận người lao động ở khu vực
này, làm cho điều kiện sống của họ càng thêm khó khăn hơn. Số lao động này phải
chuyển sang làm các công việc khác với mức lương thấp hơn, hoặc không tìm được
việc làm và trở thành thất nghiệp.
Người nghèo đô thị phần lớn sống ở những nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém, khó
có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản (nước sạch, vệ sinh môi trường, thoát
nước, ánh sáng và thu gom rác thải...).
Người nghèo đô thị dễ bị tổn thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn
thu nhập bằng tiền. Họ thường không có hoặc có ít khả năng tiết kiệm và gặp nhiều
khó khăn trong việc vay vốn tạo việc làm.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa làm tăng số lượng người di cư tự do
từ các vùng nông thôn đến các đô thị, chủ yếu là trẻ em và người trong độ tuổi lao
động. Hiện tại chưa có số liệu thống kê về số lượng người di cư tự do này trong các
báo cáo về nghèo đói đô thị. Những người này gặp rất nhiều khó khăn trong việc
đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú lâu dài, do đó họ khó có thể tìm kiếm được công ăn
việc làm và thu nhập ổn định. Họ có ít cơ hội tiếp cận các DVXH và phải chi trả
cho các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục ở mức cao hơn so với người dân đã có hộ
khẩu.
Ngoài ra, đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm đối tượng xã hội khác
như những người không nghề nghiệp, người thất nghiệp, người lang thang và người

bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội (mãi dâm, nghiện hút, cờ bạc...).
2.2.4. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
Đói nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới
64% số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây
Nguyên và Duyên hải miền Trung. Đây là những vùng có điều kiện sống khó khăn,
địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều
hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên
tai xảy ra thường xuyên.

16


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

Kết quả giảm nghèo theo báo cáo kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2010
của Tổng cục thống kê:
Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2010 giảm còn 10,7% theo chuẩn nghèo của
Chính phủ ban hành giai đoạn 2006-2010 (năm 2008 là 13,4%, năm 2006 là
15,5%và năm 2004 là 18,1%). Nếu tính theo chuẩn nghèo mới do Chính phủ ban
hành giai đoạn 2011-2015 thì tỉ lệ hộ nghèo cả nước năm 2010 là 14,2%, thành thị
là 6,9% và nông thôn là 17,4%.
Bảng: Tỷ lệ hộ nghèo chia theo vùng
2004

2006

2008


2010

2010*

Cả nước

18,1

15,5

13,4

10,7

14,2

Thành thị

8,6

7,7

6,7

5,1

6,9

Nông thôn


21,2

18,0

16,1

13,2

17,4

Đồng bằng sông Hồng

12,7

10,0

8,6

6,4

8,3

Trung du

29,4

27,5

25,1


22,5

29,4

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền 25,3
Trung

22,2

19,2

16,0

20,4

Tây Nguyên

29,2

24,0

21,0

17,1

22,2

Đông Nam Bộ


4,6

3,1

2,5

1,3

2,3

Đồng bằng sông Cửu Long

15,3

13,0

11,4

8,9

12,6

6 vùng

và miền núi phía Bắc

(Tỷ lệ hộ nghèo 2010* được tính theo chuẩn nghèo của Chính phủ giai đoạn 20112015)
(Nguồn: Tổng cục thống kê. Kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2010)
2.3. Tình hình XĐGN hiện nay
Từ năm 1986, đặc biệt là từ năm 1989 trở lại đây, thực hiện chính sách đổi

mới và mở cửa của Đảng - Nhà nước, đất nước đã có những chuyển biến tích cực
đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân ta đã được cải thiện đáng kể, đại
bộ phận dân cư đã có cuộc sống ổn định, nhiều nhu cầu của con người được đáp
17


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

ứng, nhân dân ta đã không chỉ có cơm no, áo mặc mà những nhu cầu về văn hoá
tinh thần đã được đáp ứng. Theo số liệu điều tra tình trạng giàu nghèo của Tổng
cục Thống kê (1993), cả nước có 51,7% gia đình tự đánh giá khá lên so với năm
1990; 30,7% gia đình có mức sống cải thiện một số mặt.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn còn một bộ phận dân cư sống trong
tình trạng nghèo khổ, dưới mức sống trung bình của xã hội trong đó không ít gia
đình rơi vào hoàn cảnh thiếu đói gay gắt. Đây là vấn đề cần được giải quyết cấp
bách, đó không chỉ là vấn đề nhân đạo mà còn là một trong những mục tiêu hàng
đầu trong chiến lược phát triển KTXH của đất nước, nhằm nâng cao mức sống cho
mọi người dân để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.
Nhận thức được trách nhiệm đó, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương Xoá
đói giảm nghèo, nhằm động viên sức mạnh toàn Đảng, toàn Dân, tạo điều kiện giúp
đỡ các hộ nghèo đói vượt qua khó khăn, tự vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo.
Nghị quyết V của Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa VII) đã nhấn
mạnh “Cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế phải tiến hành công tác
XĐGN, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hóa giàu nghèo quá giới hạn
cho phép” Chủ trương XĐGN là chủ trương rất đúng đắn và kịp thời của Đảng Nhà nước, hợp với lòng dân nên được các cấp các ngành và toàn dân hưởng ứng
thực hiện rộng rãi trong cả nước và bước đầu có kết quả. Từ 30% nghèo đói của
năm 1991, đã giảm xuống còn 28% năm 1992 và 22% năm 1993. [1]

Sau đó, Bộ LĐTBXH; Tổng cục Thống kê, Bộ Nông nghiệp và Công
nghiệp - Thực phẩm đưa ra chuẩn mực để xác định đói nghèo thời kỳ 1993-1995
(công bố lần thứ I) theo chuẩn này, năm 1995 cả nước có: 2.595.518 hộ nghèo,
chiếm 18,42% tổng số hộ cả nước; 716.184 hộ đói, chiếm 5,08% tổng số hộ cả

1 Theo chuẩn nghèo: TNBQ/ĐN nhỏ hơn 15 kg gạo; điều tra 43/53 tỉnh, thành phố, của BLĐ-TBXH –
Tổng cục Thống Kê.
18


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

nước. Theo chuẩn nghèo (lần II) 1996-1997, tỷ lệ nghèo đói giảm từ 20,3% cuối
năm 1995 xuống 19,2% năm 1996 và 17,7% năm 1997.
XĐGN đã trở thành phong trào đều khắp ở các tỉnh, thành phố và hiệu quả
của XĐGN thể hiện rõ. Song, diện đói nghèo vẫn còn nhiều, nên việc triển khai
mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa chủ trương này đang là nhiệm vụ vô cùng quan
trọng của Đảng – Nhà nước ta. Đại hội VIII của Đảng đã xác định “XĐGN là một
trong những chương trình phát triển KTXH vừa cấp bách truớc mắt, vừa cơ bản
lâu dài”. Nghị quyết nhấn mạnh phải thực hiện tốt chuơng trình XĐGN, nhất là đối
với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng và phát triển quỹ
XĐGN bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoải nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng
đối tượng và có hiệu quả. Mục tiêu XĐGN do Đại hội Đảng VIII đề ra là “Giảm tỷ
lệ đói nghèo trong tổng số hộ cả nước từ 20-25% hiện nay xuống còn khỏang 10%
vào năm 2000, bình quân giảm 300 ngàn hộ/năm. Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch
5 năm, tập trung xóa cơ bản hộ đói kinh niên”.
Đại hội này đã đưa ra chủ trương xây dựng phong trào XĐGN trở thành
Chuơng trình Mục tiêu quốc gia XĐGN nhằm nhanh chóng đưa các hộ đói nghèo

thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu sớm hòa nhập với sự phát triển chung
của đất nước cũng là thực hiện cam kết XĐGN tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về
Phát triển xã hội tại Cophenhagen năm 1995. Chủ trương này đã được cụ thể trong
nghị quyết Trung ương IV khóa VIII của Đảng ta.
Thực hiện chủ trương trên, năm 1998 Thủ tướng chính phủ ký Quyết định
133/1998/QĐ-TTg 23/7/1998. Phê duyệt CTMTQG XĐGN thời kỳ 1998-2000 (gọi
tắt là chương trình 133); theo chuẩn mực nghèo của thông báo 1751/LĐBTXH,
20/5/97 (Chuẩn nghèo lần III).

19


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

Nhằm làm giảm sự cách biệt giàu–nghèo, nông thôn–thành thị. Thủ tướng
chính phủ ký Quyết định 135/1998/QĐ-TTg 31/7/1998. Phê duyệt chương trình
phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK).
Với sự chỉ đạo quyết liệt và sự hỗ trợ của chính phủ, sự cố gắng của các cấp
các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư và của chính bản thân người nghèo
chuơng trình đã từng bước đạt được những mục tiêu đề ra.
Theo chuẩn nghèo công bố năm 1995, tỷ lệ hộ nghèo đói giảm nhanh từ
19,23% năm 1996 đến cuối năm 2000 còn 10,0%. Tỷ lệ nghèo đói trung bình mỗi
năm giảm 2% (gần 300.000 hộ). Tổng cộng 5 năm qua giảm 1,5 triệu hộ nghèo
tương đương 7,5 triệu người; riêng hộ đói kinh niên chiếm tỷ lệ gần 1% tổng số hộ
cả nước.
Phát huy tác dụng mạnh mẽ của chương trình MTQG XĐGN thời kỳ 1998–
2000, Thủ tướng chính phủ ký QĐ 143/2001/QĐ-TTg, 27/9/2001. Phê duyệt
CTMT QG XĐGN và Việc làm giai đoạn 2001-2005. Tỷ lệ hộ nghèo từ 10,0%

(2000) tăng lên 17,18% (đầu 2001). Sau 5 năm thực hiện; số hộ nghèo giảm từ
17,18% của năm 2001 xuống còn 6,53% năm 2005 [2].
Phát huy tác dụng mạnh mẽ của chương trình MTQG XĐGN thời kỳ 20012005. Thủ tướng chính phủ ký QĐ 20/2007/QĐ-TTg, ngày 5/02/2007 Phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010. Theo QĐ
170/2005/QĐ-TTg, ngày 8/7/2005, của Thủ tướng chính phủ) áp dụng cho chương
trình mục MTQGGN, giai đoạn 2006-2010 tỷ lệ hộ nghèo từ 6,53% (2005) tăng lên
22% (đầu năm 2006) và đến cuối năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 9,45%.

2 Chuẩn nghèo theo QĐ 1143/2000/QĐ-TBXH 1/11/2000.

20


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

Kết thúc chương trình 20, Chính phủ ban hành Nghị quyết 80/NQ-CP,
19/05/2011, về Định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm
2020. Tỷ lệ hộ nghèo từ 9,45% (2010) tăng lên 14,20% (đầu 2011) [3].
Cả nước có 15 tỉnh, thành phố tỷ lệ hộ nghèo dưới 5%, trong đó có 5 tỉnh,
thành phố tỷ lệ hộ nghèo dưới 1% (T/p Hồ Chí Minh; Đà Nẵng; Khánh Hòa; Bà
Rịa-Vũng Tàu và Bình Dương); 21 tỉnh từ 5% đến nhỏ hơn 10%; 10 tỉnh từ 10%
đến nhỏ hơn 15%; 10 tỉnh từ 15% đến nhỏ hơn 20%; 04 tỉnh từ 20% đến nhỏ hơn
25% và 02 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo trên 25% [4].
Tình hình giảm nghèo: Trong năm 2010 có 26,7% số hộ dân cư được hưởng lợi
từ dự án/chính sách giảm nghèo, tăng so với năm 2009 (26,6%), trong đó 10,2% hộ
được hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế, 11,5% hộ được miễn giảm chi phí khám chữa
bệnh cho người nghèo, 9,9% hộ được hưởng tín dụng ưu đãi cho người nghèo.
Trong năm 2010, có 11,2% số hộ dân có vay hoặc còn nợ chương trình tín dụng ưu

đãi cho người nghèo. Nguồn vay chủ yếu của các hộ dân cứ là từ Ngân hàng chính
sách xã hội (chiến 82,6%), tiếp đến là các tổ chức chính trị xã hội (8,1%).
2.4. Nguyên nhân của sự nghèo đói
2.4.1. Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của
nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không
thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực thấp lại
cản trở họ thoát khỏi nghèo đói.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng
tăng lên, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến
việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hóa
sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với giá trị cao hơn. Đa số người
nghèo lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương thức
sản xuất truyền thống với giá trị thấp, thiếu cơ hội thực hiện các phương án sản
xuất mang lợi nhuận cao hơn. Do vẫn theo phương pháp sản xuất truyền thống nên
giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh
tranh trên thị trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó.
3 Chuẩn nghèo công bố lần 6 theo QĐ 09/2011/QĐ-TTg, ngày 30/01/2011, Về việc ban hành chuẩn hộ
nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011–2015.
4 Báo cáo CTMTQGGN giai đoạn 2006-2010, 31/3/2010 - Cục BTXH

21


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch
vụ sản xuất như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; nhiều yếu tố đầu

vào sản xuất như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón... đã làm tăng chi
phí, giảm thu nhập tính trên đơn vị giá trị sản phẩm.
Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng. Sự hạn chế
của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản
xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới... Mặc dù trong khuôn khổ của dự án
tín dụng cho người nghèo thuộc Chương trình XĐGN quốc gia, khả năng tiếp cận
tín dụng đã tăng lên rất nhiều, song vẫn còn khá nhiều người nghèo, đặc biệt là
người rất nghèo, không có khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng. Một mặt, do
không có tài sản thế chấp, những người nghèo, phải dựa vào tín chấp với các khoản
vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác, đa số người
nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng các nguồn vốn vay không
đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn và cuối cùng sẽ
làm cho họ càng nghèo hơn.
Bên cạnh đó, việc thiếu các thông tin, đặc biệt là các thông tin về pháp luật,
chính sách và thị trường, đã làm cho người nghèo ngày càng trở nên nghèo hơn.
2.4.2. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội
kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ bảo đảm nhu
cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để nâng cao trình độ của
mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, trình độ học vấn
thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng
con cái... đến không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai. Suy
dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường
của con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo
dục trở nên khó khăn hơn.
Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng 90%
người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức
sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm
12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo
dục đối với người nghèo còn lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo tiếp cận

được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ
nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên. 80% số người nghèo làm các
22


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp hạn
chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp,
những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn.
2.4.3. Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ
quyền lợi và lợi ích hợp pháp
Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh đặc
biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết các vấn
đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực
hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt; mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng
các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố,
thị xã; phí dịch vụ pháp lý còn cao.
2.4.4. Các nguyên nhân về nhân khẩu học
Quy mô hộ gia đình là "mẫu số" quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập
bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả
của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao. Đông con là một
trong những đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Năm 1998, số con bình quân trên
1 phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với mức 2,1 con của nhóm 20%
giàu nhất. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ người ăn theo cao. (Tỷ lệ người ăn
theo của nhóm nghèo nhất là 0,95 so với 0,37 của nhóm giàu nhất).
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh cao trong các hộ nghèo là
do họ không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khỏe

sinh sản. Tỷ lệ phụ nữ nghèo đặt vòng tránh thai thấp, tỷ lệ nam giới nhận thức đầy
đủ trách nhiệm kế hoạch hóa gia đình và sử dụng các biện pháp tránh thai chưa
cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục,
cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia tăng nhân
khẩu còn hạn chế.
Tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực về lao
động rất thiếu, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói
của họ.
2.4.5. Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác
Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày
và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do
nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên họ khó có khả
năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, mất việc làm,
23


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khỏe...). Với khả năng kinh tế mong manh
của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra
những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ.
Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với người nghèo cũng rất cao, do họ
không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và khắc
phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu nhập hạn hẹp làm cho
hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể còn gặp rủi ro hơn nữa
2.4.6. Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai khoảng từ 1-1,2 triệu
người.
Bình quân hàng năm, số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói

nghèo vẫn còn lớn, do không ít số hộ đang sống bên ngưỡng đói nghèo và rất dễ bị
tác động bởi các yếu tố rủi ro như thiên tai, mất việc làm, ốm đau,...
Các phân tích từ cuộc điều tra hộ gia đình cho thấy các hộ gia đình phải chịu
nhiều thiên tai có nguy cơ dễ lún sâu vào nghèo đói. Do đó, việc tìm kiếm các giải
pháp giảm nhẹ hậu quả thiên tai được coi như là một phần quan trọng của quá trình
XĐGN.
2.4.7. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ em
Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt.
Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng do bất bình
đẳng thì còn có những tác động bất lợi đối với gia đình.
Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ
cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành nông nghiệp. Mặc dù vậy,
nhưng phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khoá khuyến nông về chăn nuôi, và
10% các khoá khuyến nông về trồng trọt.
Phụ nữ có ít cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, thường gặp
nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong hộ
gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại việc.
Phụ nữ có học vấn thấp dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà mẹ cao hơn, sức khỏe
của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn.
Bất bình đẳng giới còn là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ lây
truyền HIV do phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ tình dục.

24


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái

Giáo trình môn: CTXH với người nghèo

2.4.8. Bệnh tật và sức khỏe yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng

nghèo đói trầm trọng
Vấn đề bệnh tật và sức khỏe kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi
tiêu của người nghèo, làm họ rơi vào vòng tròn luẩn quẩn của đói nghèo. Họ phải
gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi
phí cao cho việc khám, chữa bệnh, kể cả các chi phí trực tiếp và gián tiếp. Do vậy,
chi phí chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ vay mượn,
cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng càng có ít cơ hội cho
người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo. Trong khi đó khả năng tiếp cận đến các
dịch vụ phòng bệnh (nước sạch, các chương trình y tế...) của người nghèo còn hạn
chế càng làm tăng khả năng bị mắc bệnh của họ.
Tình trạng sức khỏe ở Việt Nam trong thập kỷ qua đã được cải thiện, song tỷ
lệ người nghèo mắc các bệnh thông thường vẫn còn khá cao. Việc cải thiện điều
kiện sức khỏe cho người nghèo là một trong những yếu tố rất cơ bản để họ tự thoát
nghèo.
2.4.9. Những tác động của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách (tự do hóa
thương mại, cải cách doanh nghiệp nhà nước...) đến nghèo đói
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một trong
những nhân tố ảnh hưởng lớn tới mức giảm nghèo. Việt Nam đã đạt được những
thành tích giảm nghèo đói rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên, quá trình phát
triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực đến người nghèo.
- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn
thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi; các trục công nghiệp chính, chú trọng
nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, thu hút nhiều vốn; chưa chú trọng đầu tư các
ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú ý khuyến khích kịp thời phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp (lãi suất tín dụng, trợ giá,
trợ cước...) không đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường
nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa.
- Cải cách các doanh nghiệp nhà nước và các khó khăn về tài chính của các
doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi gần 800.000 việc làm trong giai đoạn
đầu tiến hành cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị mất việc đã gặp rất nhiều

khó khăn trong việc tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói. Phần lớn số người
này là phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp và người lớn tuổi.
25


×