Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Vai trò của các GPA trong việc điều chỉnh các hoạt động đấu thầu quốc tế của các Chính phủ thành viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.07 KB, 6 trang )

I.Lịch sử ra đời và phát triển các Hiệp định mua sắm Chính phủ
của WTO.
Trong thương mại quốc tế, khi tiến hành những hoạt động mua sắm, các chính phủ
thường muốn dành “sự ưu tiên” cho các nhà cung cấp trong nước thông qua việc sử
dụng một số biện pháp như quy định các quy tắc mua sắm ưu tiên; cấm mua các sản
phẩm, dịch vụ nước ngoài hoặc từ nhà cung cấp nước ngoài; hạn chế cơ hội tiếp cận đối
với hoạt động mua sắm Chính phủ của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nước ngoài hoặc nhà
cung cấp nước ngoài thông qua chỉ định thầu và các hình thức lựa chọn nhà thầu khác,
hoặc đưa ra các yêu cầu cụ thể “khép kín” về tiêu chuẩn kỹ thuật… Thực tiễn nói trên
phần nào đã làm cản trở quá trình tự do hóa thương mại ở cả cấp độ khu vực và toàn cầu.
Do đó, để giảm thiểu những tác động tiêu cực, hạn chế sự bóp méo thương mại, thực
hiện không phân biệt đối xử cũng như đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường mua sắm
Chính phủ của hàng hóa, dịch vụ và nhà cung cấp nước ngoài, Hiệp định Mua sắm chính
phủ (GPA) của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ra đời năm 1994 và Hiệp định sửa
đổi năm 2012 (GPA 2012 ) đã khắc phục được những tiêu cực trên của thị trường mua
sắm công đang ngày càng mở rộng. Là một Hiệp định mang tính quốc tế, GPA cũng có
những thăng trầm lịch sử để đạt được thành tựu như hiện nay.
Năm 1947 các vấn đề về mua sắm Chính phủ bước đầu được đề cập đến trong
khuôn khổ Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT 1947). Theo đó, mua
sắm Chính phủ chỉ được coi là một trong những ngoại lệ của nguyên tắc đối xử quốc gia
(các quốc gia thành viên được phép có sự phận biệt đối xử phân biệt, dành ưu đãi cho
các nhà sản xuất trong nước trong lĩnh vực mua sắm Chính phủ). Chỉ với quy định này
mức độ và phạm vi mua sắm Chính phủ được đề cập còn rất hạn chế.
Tại vòng đàm phán Kennerdy (1964-1967) lần đầu tiên thủ tục về mua sắm Chính
phủ được thừa nhận như một loại hàng rào phi thuế quan quan trọng. Tại vòng đàm
phán Tokyo (1973-1979) vấn đề mua sắm chính phủ được đưa ra đàm phán và các thành
viên của GATT 1947 đã đạt được kết quả tích cực đầu tiên, đó là sự ra đời của Hiệp
định về mua sắm Chính phủ được kí kết năm 1979 (GPA 1979) và có hiệu lực từ ngày
1/1/1981. Hiệp định này chỉ điều chỉnh hoạt động mua sắm của các thực thể chính quyền
trung ương và chỉ đối với mua sắm hàng hóa. Năm 1987, GPA 1979 được bổ sung các
Điều I, II, IV, V và VI, bản sửa đổi bổ sung này có hiệu lực từ năm 1988. Hiệp định này


đã tạo nên sự mở cửa cho cạnh tranh nước ngoài đối với các hợp đồng mua sắm chính
phủ.
Sau đó, đến vòng đàm phán Uruguay, các cuộc thương lượng nhằm mở rộng phạm
vi áp dụng và bổ sung một số quy định của Hiệp định 1988 đã được tổ chức, các cuộc
đàm phán được tiến hành song song với vòng đàm phán Uruguay nhưng không phải một
phần chính của vòng đàm phán đó. Vào năm 1994 Hiệp định về mua sắm Chính phủ đã


chính thực ra đời sau khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay và đến ngày 1/1/1996 GPA
1996 chính thức có hiệu lực. GPA 1994 điều chính hoạt động mua sắm hàng hóa được
tiến hành bởi các thực thể chính quyền trung ương, địa phương, các doanh nghiệp nhà
nước khác và mở rộng mua sắm dịch vụ nói chung và dịch vụ xây dựng nói chung.
GPA 1994 được ghi nhận tại phụ lục 4 của Hiệp định thành lập WTO và là một
trong 4 hiệp định nhiều bên của WTO. Nghĩa là, GPA 1994 không bắt buộc tất cả các
thành viên của WTO phải tham gia.
Mặc dù GPA 1994 đã ra đời nhưng các thành viên của GPA 1994 vẫn tiếp tục tiến
hành các cuộc đàm phán để hoàn thiện và mở rộng phạm vi áp dụng của Hiệp định. Theo
Điều XXIV:7(b): “Không muộc hơn cuối năm thứ ba kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp
định này và định kì sau đó, các bên sẽ tiến hành đàm phán bổ sung thêm, nhằm phát
triển Hiệp định này và đạt được khả năng mở rộng nhất phạm vi áp dụng của Hiệp định
giữa tất cả các bên trên cơ sở có đi có lại, có quan tâm tới các quy định của Điều V liên
quan đến các nước đang phát triển”. Mục đích của các cuộc đàm phán này: thứ nhất, để
hoàn thiện và cập nhật hơn quy định trong hoàn cảnh hiện nay; thứ hai, để mở rộng
phạm vi áp dụng của Hiệp định; thứ ba, tiếp tục loại bỏ các biện pháp phân biệt đối xử.
Ngày 30/3/2012 Nghị định thư sửa đổi GPA 1994 (gọi tắt là GPA2012) được kí
kết và ghi nhận trong văn bản quyết định về kết quả các cuộc đàm phán theo Điều
XXIV:7 GPA (GPA/113).
GPA 2012 sẽ chỉ có hiệu lực đối với các thành viên GPA 1994 đã gửi văn kiện
chấp nhận Nghị đinh thư này, kể từ ngày thứ 30, sau khi được chấp nhận bởi 2/3 số
thành viên GPA 1994. Điều kiện về số lượng thành viên đã được đáp ứng khi Israel đã

chấp nhận hiệu lực của GPA 2012 ngày 7/3/2014. Và ngày 6/4/2014 GPA 2012 có hiệu
lực.

II. Vai trò của các GPA trong việc điều chỉnh các hoạt động đấu
thầu quốc tế của các Chính phủ thành viên.
GPA là hiệp định áp dụng đối với toàn bộ các quy định liên quan tới mua sắm
công (mua sắm chính phủ) của các nước thành viên tham gia Hiệp định. Nội dung chính
của Hiệp định chủ yếu tập trung vào việc xác định rõ nguyên tắc không phân biệt đối xử
và công khai minh bạch, trong đó chú ý vào lợi ích tổng thể của việc tự do hóa mua sắm
chính phủ. Hiệp định GPA công nhận thiết lập một khuôn khổ đa phương tiện hiệu quả
về quyền và nghĩa vụ liên quan tới luật lệ quy định, thủ tục và việc thực thể các hoạt
động mua sắm chính phủ nhằm tiến tới việc mở rộng tự do hóa, mở rộng thương mại thế
giới và tăng cường khuôn khổ quốc tế cho các hoạt động thương mại quốc tế.
Vì những lý do như: bảo vệ an ninh quốc phòng, khuyến khích các doanh nghiệp
trong nước các Chính phủ thường có xu hướng mua sắm hàng hóa, dịch vụ của các


doanh nghiệp trong nước. Trên thực tế, việc phân biệt đối với hàng hóa, dịch vụ nước
ngoài trong mua săm chính phủ thể hiện dưới những hình thức:
Cấm doanh nghiệp nước ngoài tham gia đấu thầu các hợp đồng trong mua sắm
chính phủ; Ưu đãi các doanhg nghiệp sử dụng nhiều hành hóa, dịch vụ trong nước khi
thực hiện hợp đồng mua sắm chính phủ; Đặt điều kiện quy định về thể nhân phân biệt
đối xử để ngăn cản doanh nghiệp nước ngoài tham gia dự thầu...
Tuy nhiên, khi GPA ra đời đã khắc phục những vấn đề trên. GPA áp dụng đối với
toàn bộ các quy định liên quan tới mua săm công (mua sắm chính phủ) của các nước
thành viên.
Khi tham gia các hoạt động mua sắm chính phủ, các nhà thầu nước ngoài thường
mong được tạo cơ hội và đối xử bình đẳng như các nhà thầu trong nước cũng như các
nhà thầu nước ngoài khác. Sự đối xử công bằng, bình đẳng đó sẽ được đảm bảo nếu các
quốc gia tuân thủ một nguyên tắc nền tảng trong thương mại quốc tế – nguyên tắc không

phân biệt đối xử (Non-Discrimination). Khi thực hiện nghĩa vụ không phân biệt đối xử,
các quốc gia phải dành cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và nhà cung cấp của các nước
khác, trong trường hợp giữa hai nước có cam kết thương mại, sự đối xử không kém
thuận lợi hơn sự đối xử mà nước này dành cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và nhà cung
cấp trong nước (đối xử quốc gia – National Treatment) cũng như không được phân biệt
đối xử giữa các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và nhà cung cấp đến từ các nước khác với
nhau (đối xử tối huệ quốc – Most Favoured Nation Treatment)
Nguyên tắc không phân biệt đối xử được quy định tại Điều 3 của GPA 1994 và
tiếp tục được ghi nhận, không có sửa đổi tại Điều 4 của GPA 2012. Theo đó, các thành
viên của GPA 1994 hay GPA 2012 đều phải tuân thủ cả hai nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc
và đối xử quốc gia đối với các hoạt động mua sắm thuộc phạm vi điều chỉnh của từng
GPA. Không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo sự đối xử công bằng giữa các nhà cung cấp
nước ngoài với nhau và giữa các nhà cung cấp nước ngoài với các nhà cung cấp nội địa,
GPA còn yêu cầu các thành viên phải đảm bảo không phân biệt đối xử giữa nhà cung
cấp nội địa này với nhà cung cấp nội địa khác dựa trên việc quy định mức độ góp vốn
hoặc tỷ lệ vốn nước ngoài, hoặc không được phân biệt đối xử nhằm chống lại một nhà
cung cấp dựa trên việc quy định về xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ sẽ được cung cấp.
Để giảm thiểu những tác động tiêu cực, hạn chế sự bóp méo thương mại, thực
hiện không phân biệt đối xử cũng như đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường mua sắm
Chính phủ của hàng hóa, dịch vụ và nhà cung cấp nước ngoài, Hiệp định Mua sắm chính
phủ (GPA của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ra đời năm 1994) và Hiệp định sửa
đổi năm 2012 (GPA 2012 ) đã đưa ra những quy định cụ thể về minh bạch hóa.
GPA 1994 và GPA 2012 đều đặt ra các yêu cầu về minh bạch đối với cả các bên
của Hiệp định – các chính phủ và những định chế nhà nước, bao gồm các cơ quan trung
ương, các cơ quan địa phương và các doanh nghiệp nhà nước tiến hành những hoạt động
mua sắm thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định.


Theo quy định của GPA 1994, đối với các chính phủ thành viên, họ phải thực hiện
nghĩa vụ cung cấp thông tin cho các bên liên quan và tuân thủ cơ chế báo cáo tới Ủy ban

Mua sắm Chính phủ của WTO. Các bên cần công bố trong các ấn phẩm phù hợp tại Phụ
lục IV những luật lệ, quy định, phán quyết của tòa án, các quy định hành chính được áp
dụng chung và thủ tục (bao gồm cả các điều khoản của hợp đồng mẫu) về những hoạt
động mua sắm của chính phủ thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này (Điều XIX
của GPA 1994). Các thông tin cần được công bố theo cách thức mà các bên khác và các
nhà cung cấp đều có thể tiếp cận được. Ngoài ra, các bên là thành viên của GPA 1994
còn có nghĩa vụ phải thông báo cho Ủy ban Mua sắm chính phủ của WTO những thông
tin liên quan đến hệ thống chính sách và pháp luật của quốc gia, các cam kết song
phương và đa phương điều chỉnh trong lĩnh vực này và các báo cáo hàng năm về việc thi
hành Hiệp định.
Đối với các định chế nhà nước, họ cần tiến hành việc công bố thông tin, minh
bạch trong thủ tục đấu thầu, theo đó, các thông báo mời thầu phải được gửi đi hoặc công
bố theo một thủ tục minh bạch, đồng thời, phải chỉ rõ một cách trực tiếp trong chính thư
mời hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng, những hợp đồng mua sắm nào thuộc
phạm vi điều chỉnh của Hiệp định.
GPA 2012 đã rút gọn và quy định rõ ràng hơn vấn đề minh bạch hóa trong đấu
thầu mua sắm chính phủ với chỉ 2 điều: Điều XVI và Điều XVII. Đối với nghĩa vụ công
khai thông tin về mua sắm chính phủ, GPA 2012 đã gộp nghĩa vụ của các định chế nhà
nước tiến hành hoạt động mua sắm và nghĩa vụ của các bên để quy định trong cùng một
Điều, trong đó chỉ rõ: (1) Các đơn vị mua sắm có ba nghĩa vụ bao gồm: (i) cung cấp
thông tin cho các nhà cung cấp; (ii) công bố thông tin về các hợp đồng đã trao; (iii) lưu
trữ văn bản, các báo cáo và tài liệu điện tử trong vòng ít nhất là 3 năm kể từ ngày trao
hợp đồng cho nhà thầu thắng thầu; (2) Các thành viên chỉ có một nghĩa vụ, đó là thu
thập và báo cáo số liệu cho Ủy ban Mua sắm chính phủ của WTO (Điều XVI).
Về vấn đề công bố thông tin, GPA 2012 quy định rõ những thông tin nào cần và
không cần phải công bố (Điều XVII). Các thành viên, bao gồm cả các đơn vị mua sắm
sẽ không phải công bố bất kỳ thông tin nào liên quan tới một nhà cung cấp cụ thể nếu
điều đó có thể làm ảnh hưởng tới sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung cấp. Đối
với các thông tin bảo mật, so với các trường hợp được nêu trong GPA 1994, GPA 2012
chỉ quy định chi tiết hơn và bổ sung thêm một lý do liên quan tới việc bảo vệ quyền sở

hữu trí tuệ của doanh nghiệp.
Mua sắm Chính phủ và minh bạch hóa luôn là những vấn đề được quan tâm trong
khuôn khổ các liên kết kinh tế quốc tế, trên các diễn đàn và tại các cuộc đàm phán
thương mại, dù ở cấp độ khu vực hay toàn cầu. GPA 1994 hay GPA 2012 cũng như hàng
loạt các hiệp định thương mại tự do được cho là mang tính “tiên tiến” và “hiện đại”, bao
gồm cả Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), có lẽ cũng chỉ dừng lại ở việc
thúc đẩy chứ chưa thể giải quyết được triệt để những xung đột về lợi ích và thực tiễn
mang tính phân biệt đối xử và thiếu minh bạch trong lĩnh vực mua sắm của chính phủ.


Cho đến nay, cả GPA 1994 và GPA 2012 vẫn chỉ là hiệp định nhiều bên, không mang
tính bắt buộc đối với các thành viên WTO. Và như vậy, gần 120 thành viên còn lại của
WTO chưa phải là các bên ký kết GPA và cả những quốc gia và vùng lãnh thổ chưa gia
nhập WTO vẫn đứng ngoài các quy tắc mang tính ràng buộc về mua sắm chính phủ, bởi
họ luôn muốn giữ một phần lớn “sân nhà” cho các nhà cung cấp nội địa và cho quyền tự
quyết của chính họ.
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã nỗ lực không ngừng để điều chỉnh, bổ sung
các văn bản quy phạm phát luật về đấu thầu, mua sắm công để phù hợp với quy định của
GPA trong WTO. Việc tham gia GPA với tư cách quan sát viên được xem là bước đầu
tiên tiến tới trở thành thành viên chính thức của Hiệp định.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.Hiệp định mua sắm Chính phủ 1994 (GPA1994)
3. Hiệp định mua sắm Chính phủ 2012 (GPA 2012)
4. Một số trang web:
/> /> />



×