Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Bài tập cá nhân tuần 1Số 2 môn tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.36 KB, 4 trang )

Bài tập cá nhân tuần 1/Số 2
Trong một lần xô xát, anh A làm anh Bbij thiệt hại. Ngày 23/5/2007 anh B
kiện anh A ra Tòa án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Sau khi Toàn án thụ lý án
mặc dù các đương sự không yêu cầu nhưng để đảm bảo giải quyết đúng đắn
vụ án Tòa án tiến hành trưng cầu giám địng mức độ thiệt hại sức khỏe của B.
Anh A đã khiếu nại quyết định trưng cầu giám định của Tòa án vì cho rằng
Tòa án không được tự mình ra quyết định trưng cầu giám định. Hỏi:
a) Lý do khiếu nại của A có cơ sở để chấp nhận ko ? Tại sao ?
b) Giả sử A có nơi cư trú tại quận 1 thành phố H, B cư trú tại quận K
thành phố Đ và tai nạn xảy ra tại thành phố TH thuộc tỉnh T. Hãy xác
định những Toàn án có thẩm quyền mà B có thể gửi đơn yêu cầu giải
quyết vụ án.

Chú thích
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự


a)

Lý do khiếu nại này của A là có cơ sở để chấp nhận.

Vấn đề cần giải quyết trong tình huống này được quy định tại Điều 79
BLTTDS 2004, đương sự phải đưa ra chứng cứ chứng minh để có thể yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như phản đối
yêu cầu của người khác đối với mình. Tuy vậy việc xác định khi nào Toà án
có thể tiến hành công việc thu thập chứng cứ, mà cụ thể trong trường hợp
này là giám định sức khỏe, cần xem xét cả BLTTDS và Nghị quyết
04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định
của BLTTDS về “chứng minh và chứng cứ”.Tòa án chỉ có thể tiến hành thu
thập chứng cứ thay cho đương sự khi hội đủ các yếu tố sau đây:
- Đã yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ;


- Đương sự có yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, kèm theo đó là đương sự
phải chứng minh được mình không thể tự thu thập được chứng cứ. (Điều 85
BLTTDS)
Ngoài ra, Điều 90 BLTTDS cũng đề cập: “theo sự thoả thuận lựa chọn của
các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm
phán ra quyết định trưng cầu giám định”.
Như vậy, Tòa án cũng thể tự mình ra quyết định trưng cầu giám định mức
độ thiệt hại của B mà không có yêu cầu của một trong hai bên: A hoặc B. Vì
vậy, A hoàn toàn có đủ cơ sở để khiếu nại quyết định giám định này của
Tòa án theo quy định tại Khoản 3 Điều 85 BLTTDS 2004.
Pháp luật qui định như trên phần nào nhằm hạn chế sự lạm quyền của tòa
án, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận giữa các đương sự. Tòa án
cần giải thích cho đương sự biết về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của họ, nếu
chứng cứ thiếu thì yêu cầu họ bổ sung và nói rõ nếu không chứng minh được
thì có thể yêu cầu Tòa án thực hiện. Điều này nhằm đảo bảo việc giải quyết
vụ việc một cách nhanh chóng, vừa phù hợp với các qui định của pháp luật.
b)

B có thể gửi đơn yêu cầu giải quyết đến cả ba Tòa án.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân cấp huyện tất nhiên sẽ có
thẩm quyền giải quyết vụ việc này, vì tranh chấp giữa A và B là tranh chấp
được qui định tại Điểm a Khoản 1 Điều 33 BLTTDS. Theo qui định tại
BLTTDS, tình huống trên là tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng theo Khoản 6 Điều 25. Về tư cách tham gia tố tụng của các bên, B là
nguyên đơn dân sự và A là bị đơn.


Tình huống trong bài đưa ra vấn đề phân định thẩm quyền của tòa án theo
lãnh thổ giữa các tòa án cùng cấp với nhau. Việc phân định thẩm quyền theo

lãnh thổ dựa trên cơ sở đảm bảo việc giải quyết vụ việc dấn của tòa án được
nhanh chóng, đúng đắn; bảo đảm việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự; tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tố
tụng, tránh sự chồng chéo trong việc thực hiện thẩm quyền giữa các tòa án
cùng cấp. Ngoài ra, việc phân định thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ còn
phải bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Cuối cùng, theo qui định
của BLTTDS, tất cả các Tòa án đã nêu ra đều có thẩm quyền giải quyết
vụ việc. Tuy nhiên, B chỉ có thể yêu cầu một Tòa duy nhất xử lí, theo hướng
dẫn của Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS 2004.
Theo điểm a, Khoản 1 Điều 35 BLTTDS: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm
việc nếu bị đơn là cá nhân … có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp… tại các Điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này”. Đây là
quy định hết sức tiến bộ của luật, giúp cho bị đơn (người bị động hơn trong
vụ án) tham gia tố tụng thuận lợi hơn. Bị đơn A trong tình huống vư trú tại
quận 1 vì thế TAND quận 1 có thẩm quyền giải quyết vụ án này.
Theo điểm b, Khoản 1 Điều 35 BLTTDS quy định: “Các đương sự có
quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm
việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân …giải quyết những tranh
chấp quy định tại các điều 25, 27, 29, 31 của Bộ luật này”. Trở lại tình
huống, B là cá nhân cư trú tại quận K. Như vậy, B có thể gửi đơn yêu cầu tới
TAND quận K nếu A và B đã thỏa thuận với nhau bằng văn bản để B chọn
TAND quận K. Tuy nhiên, nếu không có sự thỏa thuận thì B vẫn có thể gửi
đơn đến TAND quận K. Bởi đây là tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng nên nguyên đơn B có quyền lựa chọn Tòa án nơi mình cư trú giải
quyết theo Điểm d, Khoản 1 Điều 36 BLTTDS: “Nếu tranh chấp về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi
mình cư trú,…”
Theo Điểm d, Khoản 1 Điều 36 BLTTDS, nếu tranh chấp bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn còn có thể lựa chọn yêu cầu Tòa án nơi

xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết. Theo tình huống, nơi xảy ra việc gây
thiệt hại là Thành phố TH nên Tòa án thành phố TH cũng có thẩm quyền
giải quyết vụ việc trên.


Tài liệu tham khảo

1. Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt
Nam . Nxb Công An nhân dân. Hà Nội 2008.
2.

Bộ Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam năm 2004

3. Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 3 năm 2005 hướng dẫn
thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của
BLTTDS 2004
4. Nghị quyết 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 hướng dẫn thi hành
một số quy định của BLTTDS về “chứng minh và chứng cứ”



×