Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Nêu quan điểm về khủng hoảng kinh tế và những biện pháp chống khủng hoảng kinh tế của mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.06 KB, 24 trang )

1

Đề bài: Viết khoảng 8 trang nêu quan điểm về khủng hoảng kinh
tế và những biện pháp chống khủng hoảng kinh tế của Mác. Hãy
làm rõ những khả năng vận dụng chống khủng hoảng kinh tế
vào nền kinh tế thị trường hiện nay nói chung và kinh tế Việt
Nam nói riêng.
A.

Phần mở đầu
Xã hội loài người đã tồn tại, phát triển và trải qua các hình thái

kinh tế và luôn gắn liền với hoạt động lao động sản xuất ra của cải
vật chất. Nói cách khác, sản xuất ra của cải vật chất là nền tảng của
đời sống xã hội cũng là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã
hội và đời sống tinh thần cuả con người. Như vậy kinh tế đóng một
vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Thế
nhưng từ đầu thế kỉ XIX,sự ra đời của đại công nghiệp cơ khí đã
làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa bị gián đoạn bởi những
cuộc khủng hoảng có tính chu kì. Cuộc khủng hoảng kinh tế đầu
tiên nổ ra vào năm 1825 ở nước Anh và cuộc khủng hoảng đầu tiên
diễn ra trên quy mô thế giới nổ ra vào năm 1847.Gần đây nhất là
cuộc khủng hoảng kinh tế trên toàn cầu diễn ra vào năm 2009.Hàng
loạt ngân hàng Mỹ phải đóng cửa,cú sốc vỡ nợ đột ngột đến từ
Dubai đã làm thị trường tài chính toàn cầu điên đảo, giá dầu tăng
gấp đôi, giá vàng thì leo thang đến chóng mặt. Như một điều tất yếu
Việt nam cũng bị ảnh hưởng rất nhiều từ sự khủng hoảng này. Mác
đã có những quan điểm của mình về khủng hoảng kinh tế và những
biện pháp chống khủng hoảng kinh tế đồng thời cũng có rất nhiều



2

quan điểm khác được đưa ra. Nhưng bài viết này sẽ tập trung vào
làm rõ quan điểm của Mác và những khả năng vận dụng chống
khủng hoảng kinh tế vào nền kinh tế thị trường hiên nay nói chung
và nền kinh tế Việt Nam nói riêng.


3

B. Phần nội dung
I.
1.

Quan điểm về khủng hoảng kinh tế của Mác.
Quan điểm lịch sử

Theo quan điểm lịch sử thì khủng hoảng kinh tế hiện nay chẳng
phải là một hiện tượng siêu nhiên. Khủng hoảng trong kinh tế là quá
trình thông thường, tiến triển phụ thuộc sự vận động bên trong của
hệ thống kinh tế. Bất kỳ khủng hoảng nào cũng chỉ xuất hiện khi bị
mất thăng bằng, bị mất cân đối giữa những phần cấu thành sự thống
nhất. Trong phạm trù kinh tế thì khủng hoảng xuất hiện khi thăng
bằng giữa cầu và cung của hàng hóa hoặc dịch vụ bị mất. Có bao
nhiêu lý thuyết về kinh tế, thì có bấy nhiêu loại khủng hoảng kinh
tế. Và gần như tất cả các lý thuyết đều nói là không thể tránh khỏi
khủng hoảng kinh tế được. Nó là một phần của hệ thống kinh tế và
sẽ chỉ biến mất khi chúng ta xóa bỏ luật lệ kinh tế theo kiểu mẫu thị
trường và kế hoạch. Trường phái tự do chủ nghĩa khẳng định rằng
kinh tế có tính chất chu trình, có thời kỳ phát triển và đổ vỡ, bởi vì

nhu cầu tiêu dùng và đầu tư có dạng sóng. Còn chủ nghĩa Mác
khẳng định rằng khủng hoảng tài chính là thuộc tính cần thiết của
chủ nghĩa tư bản, vì mục tiêu chính trong hệ thống của chủ nghĩa tư
bản đã khởi sự là phải thu lợi nhuận. Mô tả dưới dạng sơ đồ thì nó
thể hiện câu chuyện như sau: mức độ sản xuất hàng hóa tăng lên và
vượt nhu cầu tương ứng khả năng thanh toán thực tế, dẫn tới chuyện
phải cho vay tiền để mua hàng hóa với mục tiêu tăng cầu. Nợ nần
dần dần tích lũy, tiền-hàng hóa không cho vay được nữa và sự sản


4

xuất rút ngắn lại vì không cần thiết. Bắt đầu quá trình sa thải nhân
viên-công nhân với quy mô lớn, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, mức độ
sung túc trong cuộc sống và sinh hoạt sụt giảm.Chu kỳ như thế này
của hệ thống kinh tế chủ nghĩa tư bản là định lý.
Nhà triết học thế kỷ 18 David Yum - người scotland, nhà kinh tế
học có tiếng nước Anh - đại diện trường phái cổ điển, David
Riccardo ở thế kỷ 19 và nhà kinh tế học Liudvic phon Mizes vào thế
kỷ 20, trong những lý luận của mình đều bênh vực ý kiến rằng
khủng hoảng đã tác động có lợi cho toàn bộ hệ thống kinh tế. Họ
khẳng định rằng khủng hoảng là một quá trình, nhờ quá trình đó
kinh tế thị trường được cứu thoát khỏi tình trạng cùng cực, kinh tế
trong tương lai tránh được sai lầm từ sự phồn vinh tạm thời cùng
với lạm phát lần trước; và tạo động năng để hồi phục tình trạng kinh
tế vững chắc. Đình đốn là hiện tượng không dễ chịu, nhưng là sự
phản ứng cần thiết.
Theo ý kiến của nhà kinh tế học V. S. Milôv – người Nga, thì khủng
hoảng ở Nga đã có vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế Nga,
vì lý do khủng hoảng xuất hiện đã đòi hỏi nhà nước phải lập lại kỷ

luật ngân sách-tài chính, đã bị tăng lên đột ngột sau những năm
khủng hoảng, cho dù nó có tác động tiêu cực cho phúc lợi nhân dân.
Khách quan mà nói, khủng hoảng không thể hoạch định trước bởi ai
đó được. Chúng là cấu thành khăng khít của hệ thống chủ nghĩa tư
bản thế giới. Sau này khủng hoảng kinh tế vẫn sẽ tiếp tục. Khủng
hoảng hiện nay khác với trước bởi vì thành phần văn hóa-xã hội đã


5

không như trước.Điều chủ yếu là cần phải rút ra được những kết
luận đúng từ lịch sử và không phí thời gian vô ích.
2. Quan điểm về khủng hoảng kinh tế của Mác
a. Khái niệm và bản chất của Mác
Khủng hoảng kinh tế là hậu quả của sự mất cân đối trong tái sản
xuất xã hội, cụ thể là sự mất cân đối giữa các khâu của quá trình tái
sản xuất, mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, mất cân đối giữa
các yếu tố, giữa cung và cầu, giữa hàng và tiền, mất cân đối giữa
các ngành, các khu vực của nền kinh tế.
Trong chủ nghĩa tư bản, khủng hoảng kinh tế thường được biểu hiện
ra là khủng hoảng sản xuất thừa.
Theo Mác, ở chủ nghĩa tư bản,khi nền sản xuất đã xã hội hóa cao
độ,khủng hoảng kinh tế là điều không thể tránh khỏi. Từ đầu thế kỷ
XIX,sự ra đời của đại công nghiệp cơ khí đã làm cho quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa bị gián đoạn bởi những cuộc khủng hoảng có
tính chu kì. Mà bản chất khủng hoảng chính là các cuộc khủng
hoảng thừa, được biểu hiện thành nhiều hình thái khác nhau thông
qua các loại thị trường khác nhau.
Thứ nhất, đó là khủng hoảng sản xuất thừa của tư bản công nghiệp
do sự tắc nghẽn trong quá trình lưu thông hàng hóa của tư bản

thương nghiệp. Khi khủng hoảng nổ ra,hàng hóa không tiêu thụ
được,sản xuất bị thu hẹp,nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ,thợ bị thất
nghiệp,thị trường bị rối loạn. Tình trạng thừa hàng hóa không phải


6

là so với nhu cầu của xã hội,mà là “thừa” so với sức mua có hạn của
quần chúng lao động.Tư bản ở đây được biểu hiện thành những
hàng hóa không bán được.
Thứ hai, đó là khủng hoảng tài chính tiền tệ do sự dư thừa các loại
giấy tờ có giá (tư bản giả), biểu hiện trên các sàn giao dịch chứng
khoán và thị trường tài chính.
Thứ ba là sự dư thừa của tư bản tiền tệ trong hệ thống ngân hàng
dẫn đến các cuộc khủng hoảng tiền tệ giữa các quốc gia do sự di
chuyển của các dòng vốn lưu động, điều này gây nên sự thiếu tiền ở
thị trường này nhưng thừa tiền ở thị trường khác (Friedman chỉ đưa
ra sự thiếu tiền của thị trường này mà không đưa ra sự thừa tiền của
thị trường khác).
Thứ tư, đó là sự dư thừa của trái phiếu chính phủ để biến những
khoản tiền tiết kiệm cuối cùng của người dân trở thành tư bản, cũng
như tính chất bất bình đẳng trong hệ thống thuế hiện nay. Điều này
cho kết quả là một cuộc khủng hoảng nợ công.
Thứ năm là rối loạn hệ thống tín dụng. Trong một chế độ sản xuất
mà tất cả những mối liên hệ của quá trình tái sản xuất đều dựa trên
tín dụng, nếu đột nhiên tín dụng bị đình chỉ và chỉ những việc thanh
toán bằng tiền mặt mới có hiệu lực thôi, thì thế nào cũng xảy ra
khủng hoảng và tình trạng xô đẩy nhau chạy theo các phương tiện
thanh toán. Trong hệ thống tín dụng, các doanh nghiệp nợ lẫn nhau,
nên khả năng thanh toán của người này lại do khả năng thanh toán

của người kia quyết định
Thứ sáu là: xây dựng nhà ở không theo đơn đặt hàng mà chạy
theo thị trường và mang tính chất đầu cơ. Nhà thầu khoán vay


7

ngân hàng bằng cầm cố bất động sản. Ngân hàng chỉ giải ngân dần
dần theo tiến độ xây dựng. Nếu có trục trặc nhà thầu khoán không
trả được nợ đúng kỳ hạn sẽ bị đình chỉ cho vay. Nếu phải bán nhà
theo giá rẻ để thanh toán thì sẽ lỗ, thậm chí phá sản
b. Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế.
Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt nguồn
từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn
giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất chủ yếu của xã
hội.Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu thuẫn sau
• Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí
nghiệp rất chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô
chính phủ trong toàn xã hội. Vì mục đích chạy theo lợi nhuận,
các nhà TB một mặt tìm cách hợp lý hóa tổ chức xí nghiệp để
giảm chi phí đầu vào; mặt khác, chỉ đầu tư kinh doanh vào các
ngành có lợi nhuận cao và cạnh tranh quyết liệt với nhau. Kết
quả là làm phá hoại sự cân đối giữa các ngành sản xuất, quan
hệ cung cầu bị rối loạn nghiêm trọng, đến 1 mức độ nào đó thì
gây ra khủng hoảng kinh tế.
• Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy,mở rộng không có giới
hạn của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng
do bị bần cùng hóa. Do theo đuổi lợi nhuận siêu ngạch,các nhà
tư bản đã ra sức mở rộng sx,cải tiến kỹ thuật và cạnh tranh rất
gay gắt. Của cải sản xuất ra ngày càng nhiều nhưng sức mua

thì có hạn dẫn đến hàng hóa bị ế thừa trên thị trường.


8

• Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp làm
thuê. Trong bản thân xã hội tư bản vẫn luôn tồn tại mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản do mâu thuẫn
trong vấn đề phân phối kết quả của quá trình lao động là
giá trị thặng dư , các nhà tư bản đã chiếm không một phần
giá trị thặng dư của công nhân . Làm càng ngày càng tăng
khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Mâu thuẫn này sẽ
ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất hàng hóa của
doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng gián tiếp tới sự phát sinh
khủng hoảng . Những người công nhân khi có sự bất công
thái quá sẽ tổ chức những đợt đình công sẽ làm lực lượng
lao động của nhà tư bản suy giảm , nhưng các nhà tư bản
lại tiếp tục thuê những người công nhân ở những nơi khác
đến làm cho họ và việc đình công chỉ làm sức mua của giai
cấp vô sản thêm kiệt quệ do không có tiền công ; hoặc là
nhà tư bản phải tăng thêm tiền công để lôi kéo những
người công nhân quay trở lại làm thuê cho họ và như vậy
dẫn đến chi phí sản xuất tăng làm giảm sản lượng hàng
hóa . Cả 2 kết quả trên đều dẫn tới khủng hoảng kinh tế.
Nguyên nhân gián tiếp ( nguyên nhân sâu xa ): do sự vận động, phát
triển của mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
c. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản.



9

Khủng hoảng kinh tế chỉ khoảng thời gian biến chuyển rất nhanh
sang giai đoạn suy thoái kinh tế,là căn bệnh kinh niên của chủ nghĩa
tư bản và diễn ra có tính chất chu kì,trải qua những giai đoạn có liên
quan kế tiếp nhau: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
• Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kì kinh tế mới.Ở
giai đoạn này,hàng hóa ế thừa,ứ đọng,giá cả giảm mạnh,sản
xuất đình trệ,xí nghiệp đóng cửa,công nhân thất nghiệp hàng
loạt,tiền công hạ xuống.Tư bản mất khả năng thanh tón các
khỏa nợ,phá sản,lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng.
Đây là giai đoạn mà các mâu thuẩn biểu hiện dưới hình thức
xung đột dữ dội.
• Tiêu điều: ở gia đoạn này thì sản xuất ở trạng thái trì trệ,không
còn tiếp tục đi xuống nhưng cũng không tăng lên, thương
nghiệp vẫn đình đốn,hàng hóa được đem bán hạ giá,tư bản để
rỗi nhiều vì không có nơi đầu tư.
• Phục hồi: là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở
rộng sản xuất.Công nhân lại được thu hút vào làm việc,mức
sản xuất đạt đến quy mô cũ,vật giá tăng lên,lợi nhuận của tư
bản do đó cũng tăng lên.
• Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt qua điểm cao
nhất mà chu kì trước đã đạt được.Nhu cầu và khả năng tiêu thụ
hàng hóa tăng lên,xí nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm.
Nhu cầu tín dụng tăng,ngân hàng tung tiền cho vay,năng lực
sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó, lại tạo điều
kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.
Khủng hoảng kinh tế bao gồm các xu hướng:



10

• Xu hướng suy giảm tỷ suât lợi nhuận: Tích tụ tư bản gắn liền
với xu hướng chung của mức độ tập trung tư bản.Từ điều này
tự nó dã làm giảm tỷ suất lợi nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư
bản và có thể đưa đến khủng hoảng.
• Tiêu thụ dưới mức: Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc
đấu tranh giai cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột
thêm lao động,nhờ đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư,khi đó nền
kinh tế tư bản đối mặt với vấn đề thường gặp là nhu cầu tiêu
dung không tương xứng với quy mô sản xuất và tổng cầu
không tương xứng với tổng cung
• Sức ép lợi nhuận từ lao động: Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu
cầu thuê mướn tăng lên và làm tăng tiền lương.Nếu tiền lương
tăng cao sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và khi đạt đến
một mức độ nhất định sẽ gây ra suy thoái kinh tế.
Có thể khẳng định rằng: Khủng hoảng là giai đoạn cơ bản của chu
kì kinh tế tư bản chủ nghĩa.Mác đã từng viết “cản trỏ của nền sản
xuất tư bản chính là tư bản”.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện nay,khủng hoảng kinh tế vẫn không
tránh khỏi,nhưng có sự can thiệp tích cực của nhà nước tư sản vào
quá trình kinh tế. Sự can thiệp này mặc dù không triệt tiêu được
khủng hoảng và chu kỳ trong nền kinh tế nhưng đã làm cho tác
động phá hoại của khủng hoảng bị hạn chế bớt.
II. Các biện pháp chống khủng hoảng kinh tế của Mác.
• Thu lại lợi nhuận siêu ngạch trong các ngành phi sản xuất, đưa
về mức lợi nhuận bình quân của các ngành sản xuất và nộp lợi


11


nhuận siêu ngạch vào các quĩ của nhà nước và phục vụ an sinh
xã hội (điều 1 trong tuyên ngôn Đảng Cộng sản).
• Áp dụng một hệ thống ngân hàng thống nhất, đảm bảo mức
cung ứng tiền tệ ổn định trong nền kinh tế, đảm bảo mức lãi
suất chênh lệch giữa các ngành có tỉ suất lợi nhuận khác nhau.
• Kết hợp quá trình đào tạo với sự phát triển của lực lượng sản
xuất với khoa học kĩ thuật để đảm bảo cho cơ cấu lao động ở
mức hợp lí, phù hợp với điều kiện sản xuất của từng quốc gia
nhưng không bị chi phối bới thị trường.
III. Vận dụng những biện pháp chống khủng hoảng kinh tế vào
nền kinh tế thị trường.
1.Vận dụng vào nền kinh tế thế giới.
Cuộc khủng hoảng tài chính (KHTC) toàn cầu bắt đầu từ nước Mỹ
(năm 2008), lan ra các châu lục, tàn phá và đẩy hầu hết các nền kinh
tế mà nó đi qua chìm sâu vào suy thoái. Đánh giá hậu quả bước đầu
của nó, nhiều chuyên gia và tổ chức kinh tế quốc tế đưa ra nhận xét
“kinh tế thế giới đang lặp lại bối cảnh của đại suy thoái kinh tế hồi
đầu thập kỷ 30 của thế kỷ XX”. Cuộc khủng hoảng vừa phản ánh
những sai lầm của các học thuyết về kinh tế thị trường tự do kiểu
Mỹ, vừa đề cao và củng cố niềm tin của chúng ta vào giá trị học
thuyết kinh tế của C.Mác.
Khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới đã đặt chính phủ các nước phải
đưa ra các biện pháp chống đỡ như:
Thứ nhất là sửa đổi các quy định hiện hành nhằm bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền tại các ngân hàng nhằm ngăn chặn nguy cơ rút


12


tiền hàng loạt của dân chúng trong thời gian ngắn (tăng mức bảo
hiểm tiền gửi, hoặc cam kết bảo đảm an toàn tiền gửi và chi trả đầy
đủ tiền gửi tiết kiệm cho dân chúng, cho các ngân hàng và các tổ
chức tài chính vay tiền);
Thứ hai là nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách bơm một lượng
tiền lớn cho nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng; giảm lãi
suất, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng khả năng thanh khoản;
Thứ ba là quốc hữu hoá, nhà nước mua lại các khoản nợ xấu, mua
lại cổ phần chi phối và nắm quyền điều hành; khuyến khích các
ngân hàng, các tổ chức tài chính, doanh nghiệp mua lại các tổ chức
đổ vỡ và phá sản. Tiếp theo là cơ cấu lại các ngân hàng và hệ thống
tài chính trong nước;
Thứ tư là cơ cấu lại quản trị các ngân hàng, tăng cường hệ thống
giám sát bảo đảm an toàn, cơ cấu lại các khoản vay, cắt giảm nhân
viên, tiết kiệm chi phí, chấn chỉnh lại các quy định nội bộ…;
Thứ năm là cải cách và tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành
chính, về giải phóng mặt bằng, phê duyệt dự án và về giải ngân để
tạo điều kiện các dự án, chương trình được triển khai nhanh, đặc
biệt là đối với các công ty xây dựng. Đối kinh doanh bất động sản
thì bên cạnh đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư và xây dựng nhà giá
rẻ cho người nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao
động ở các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh
viên, học sinh, cần hạn chế và đánh thuế cao vào các trường hợp
đầu cơ bất động sản


13

Thứ sáu, do nhu cầu toàn xã hội thấp hơn nguồn cung hàng
hóa của nhà tư bản đã gây ra khủng hoảng , vì vậy có

thể áp dụng biện pháp KÍCH CẦU để làm tăng nhu cầu
của toàn xã hội , nhằm cân bằng tổng cung và tổng cầu
của toàn xã hội . Biện pháp kích cầu cụ thể có thể là
giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc cả hai. Kích cầu
thường chỉ được dùng khi nền kinh tế lâm vào trì trệ
hay suy thoái , đang cần vực dậy. Kích cầu đặc biệt hay
được sử dụng khi nền kinh tế rơi vào trạng thái bẫy
thanh khoản , là khi mà chính sách tiền tệ trở nên mất
hiệu lực vì lãi suất đã quá thấp.
Thứ bảy là trợ cấp thất nghiệp : đây là một biện pháp được rất nhiều
các nước tư bản áp dụng , biện pháp này sẽ duy trì phần nào nhu cầu
sinh hoạt của người công nhân cho dù họ không làm thuê cho doanh
nghiệp , nhằm duy trì sự ổn định trong quan hệ cung-cầu hàng hóa
để kìm hãm nảy sinh khủng hoảng kinh tế , nhưng một số nước áp
dụng không hiệu quả và dẫn đến tình trạng giảm sút lực lượng lao
động trong doanh nghiệp
Như vậy, cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới lần này đặt
chúng ta nhìn nhận lại sự kết hợp hài hoà giữa thị trường tự do và
quản lý của nhà nước. Phải chăng việc tập trung hoá quá cao đã
không thành công thì việc tự do hoá nền kinh tế thái quá cũng
không thành công. Vấn đề không phải là đối lập nhau giữa thị
trường tự do với điều tiết của nhà nước mà cần kết hợp hài hoà. Câu
hỏi hiện nay là chính sách và liều lượng tự do hoá đến đâu thì thành


14

công và bền vững, vai trò điều tiết của nhà nước cần thiết ở chừng
mực nào.
Cuộc KHTC trên đã được C.Mác dự báo cách đây hơn một thế kỷ.

Ông đã khẳng định: “Khi các nhà tư bản trao đổi tiền để lấy tiền,
CNTB sẽ thoái trào”, và xã hội tư sản hiện đại, một xã hội phù phép
ra những phương tiện sản xuất và trao đổi khổng lồ tới mức nó
giống như thầy phù thủy không thể kiểm soát nổi những “âm binh”
do chính mình triệu lên. Điều đó chứng tỏ rằng, C.Mác là người có
phương pháp luận khoa học trong phân tích và được thực hiện một
cách vô cùng khách quan. C.Mác đã phân tích một cách rõ ràng và
sâu sắc về CNTB; đặc biệt, Ông đã phát hiện ra những quy luật vận
động, phát triển của xã hội tư bản. Vì thế, những tiên đoán của
C.Mác từ thế kỷ XIX về khủng hoảng trong xã hội TBCN (đã diễn
ra ở thế kỷ XX (1929-1933) và hiện nay), đã và đang thuyết phục
nhiều nhà chính trị cũng như các doanh nhân thành đạt nhất ở các
nước phương Tây, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực
tài chính toàn cầu và trí thức trẻ, trở lại nghiên cứu học thuyết của
Ông để tìm nguyên nhân của cuộc KHTC và biện pháp đối phó. Bởi
vậy, không phải là đại ngôn khi cho rằng, C.Mác không chỉ là nhà
tư tưởng của thế kỷ XX, mà còn là của thế kỷ XXI.
2.Vận dụng vào nền kinh tế Việt Nam
a. Tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu này không có nhiều tác động
trực tiếp tới Việt Nam nhưng tác động gián tiếp lại khá mạnh.


15

Đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho
tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta chậm lại. Kế hoạch đầu năm
2008, tăng trưởng GDP dự kiến từ 8,5 – 9%. Tháng 5 năm 2008
Quốc hội đã điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng GDP xuống 7%, nhưng

đến tháng 10 năm 2008 tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế là 6,52%, dự
kiến năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ từ 6,5 đến 6,7%.
Đối với hệ thống tài chính – ngân hàng
Mặc dù hiện tại hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam chưa
chịu tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ vì hệ
thống tài chính ngân hàng Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của hội
nhập; nhưng trước mắt sẽ có những hạn chế trên một số lĩnh vực
như:
- Mức độ liên thông giữa hệ thống ngân hàng Việt Nam với thị
trường tài chính bên ngoài và với ngân hàng Mỹ sẽ gặp khó khăn;
- Khả năng giao dịch ngân hàng, tài chính quốc tế sẽ giảm, ảnh
hưởng đến nợ vay ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng và
doanh nghiệp.
Đối với hoạt động xuất khẩu
Việc suy giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ
ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của ViệtNam
trong năm 2008 và cả năm 2009. Do tác động của khủng hoảng, các
nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán do khó khăn về tài
chính, theo đó nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam
sẽ có xu hướng giảm. Đặc biệt là dầu thô giảm mạnh do giá dầu đã


16

giảm 60% so với mức tháng 7/2008. Khủng hoảng tài chính sẽ dẫn
đến suy thoái kinh tế, nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam sẽ
giảm giá và chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất
khẩu.
Đối với vốn đầu tư của nước ngoài kể cả đầu tư trực tiếp và đầu
tư gián tiếp

Với tình hình khủng hoảng như hiện nay, chi phí vốn trở nên đắt đỏ
hơn và thị trường xuất khẩu có khả năng bị thu hẹp nên dòng vốn
chảy vào ViệtNam có khả năng giảm sút. Tình hình chung do khủng
hoảng tài chính với việc làm khó khăn, thu nhập giảm, tiêu dùng
giảm lượng kiều hối có khả năng sụt giảm.
Hoạt động của thị trường chứng khoán sẽ gặp khó khăn, bất lợi
cho các nhà đầu tư
- Khủng hoảng tài chính tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các nhà
đầu tư chứng khoán Việt Nam, thị trường chứng khoán lập tức bị
tác động xấu vì những lo ngại của các nhà đầu tư trong nước. Yếu tố
tâm lý là khá quan trọng, vì vậy cần có những giải pháp, đặc biệt là
thông tin, tuyên truyền đầy đủ để củng cố niềm tin cho các nhà đầu
tư; hạn chế những lo ngại thái quá làm ảnh hưởng xấu đến thị
trường chứng khoán.
b.Vận dụng vào thực tiễn Việt Nam
Trước hết, cần khẳng định quan điểm về mô hình phát triển kinh tế
ở nước ta đã được xác định qua các kỳ đại hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam là “phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định


17

hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô
của Nhà nước ta là hết sức quan trọng, qua đó để đảm bảo tính hiệu
quả của thị trường và để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cần nâng cao vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, điều
này sẽ giúp cho hoạt động của Nhà nước trong việc điều hành nền
kinh tế được chủ động và minh bạch hơn. Nền kinh tế thị trường
càng phát triển, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế càng sâu sắc thì

vai trò Nhà nước trong quản lý, duy trì sự cân đối, hợp lý và bền
vững của nền kinh tế càng trở nên quan trọng. Đặc biệt, trong đối
phó với khủng hoảng, sự can thiệp của Nhà nước càng cần thiết hơn
bao giờ hết. Chính sự lựa chọn chính sách, giải pháp thích hợp đã
giúp một số nền kinh tế nhanh chóng vượt qua khủng hoảng.
Về cơ bản, các giải pháp giải quyết khủng hoảng vừa phải tháo gỡ
khó khăn, thúc đẩy cho sự vận hành thông suốt của các quá
trình kinh tế từ đầu tư, sản xuất hàng hóa đến bán hàng và
lưu thông vốn, vừa phải bảo đảm quyền lợi hài hòa cho các
thành viên xã hội, ổn định các chế độ an sinh xã hội cho
các tầng lớp nhân dân, không được dồn gánh nặng khó
khăn lên người dân lao động, người tiêu dung. Từ một số
quan điểm cơ bản đã trình bày ở trên bước đầu rút ra
những điều có thể và cần phải vận dụng vào hoàn cảnh
cụ thể ở Việt Nam hiện nay:


Thứ nhất,hoàn thiện môi trường pháp lý và môi trường
kinh tế cho sự hình thành và phát triển đồng bộ hệ thống


18

các thị trường, từ thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ
đến thị trường các loại hàng hóa đặc biệt, phù hợp với tính
đặc thù của chúng.


Thứ hai, nắm vững các nhân tố quyết định sự vận động
của giá cả thị trường để có những biện pháp điều tiết thích

hợp, không thể điều tiết giá cả bằng mệnh lệnh hành
chính. Một mặt, tạo môi trường thuận lợi cho cạnh tranh
lành mạnh để hình thành giá trị thị trường và giá cả thị
trường thống nhất, có luật chống độc quyền, chống hạn
chế cạnh tranh. Mặt khác, đối với những mặt hàng thiết
yếu cho sản xuất và đời sống, để ổn định giá cả, nhà nước
phải lập quỹ dự trữ (bằng hàng hóa hay bằng ngoại tệ
mạnh) nhằm điều tiết cung – cầu, từ đó điều tiết giá cả,
đồng thời phải ổn định sức mua của tiền.



Thứ ba, tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp chống lạm
phát, nhất là tiếp tục chính sách tiền tệ chặt chẽ nhưng linh
hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường (không đưa các giải
pháp sốc). Sử dụng hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều
chỉnh linh hoạt theo diễn biến của thị trường như: tỷ giá, lãi
suất, hạn mức tín dụng… Trước mắt hạ lãi suất xuống một
cách phù hợp theo tín hiệu thị trường. Xử lý nợ xấu của các
ngân hàng thương mại, bảo đảm các khoản nợ này ở mức an
toàn. Rà soát và kiểm soát chặt chẽ các khoản vay kinh doanh
bất động sản và chứng khoán. Bên cạnh đổi mới và cơ cấu lại
hệ thống ngân hàng, cần đổi mới quản trị nội bộ ngân hàng


19

nhằm lành mạnh hoá hệ thống này tránh tác động của khủng
hoảng kinh tế thế giới.



Thứ tư,theo dõi chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài
vào nước ta, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh
công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài, trong đó theo dõi việc
triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Mỹ và các
nước Châu Âu để có thể hỗ trợ khi cần thiết.



Thứ năm, tổ chức, điều hành và giám sát tốt việc bảo đảm sự
thông suốt của cơ sở bán lẻ trong nước, không gây đầu cơ, ách
tắc, khan hiếm hàng hoá. Đồng thời khuyến khích tiêu dùng
hợp lý và nâng lương tối thiểu sớm cho cán bộ, công chức nhà
nước và công nhân ở các doanh nghiệp.



Thứ sáu, tăng cường công tác thông tin, quan hệ công chúng.
Bám sát thường xuyên, cập nhật thông tin trong và ngoài nước
để có đánh giá đúng diễn biến tình hình; qua đó có được phản
ứng chính sách thích hợp và kịp thời nhất.



Thứ bảy, cải cách và tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành
chính, về giải phóng mặt bằng, phê duyệt dự án và về giải
ngân để tạo điều kiện các dự án, chương trình được triển khai
nhanh, đặc biệt là đối với các công ty xây dựng. Đối kinh
doanh bất động sản thì bên cạnh đẩy mạnh và khuyến khích
đầu tư và xây dựng nhà giá rẻ cho người nghèo, các đối tượng

chính sách, nhà ở cho người lao động ở các khu kinh tế, khu
công nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh viên, học sinh, cần hạn
chế và đánh thuế cao vào các trường hợp đầu cơ bất động sản.


20



Thứ tám, xu hướng quốc tế hóa kinh tế là xu hướng khách
quan của kinh tế thị trường. Nhà nước phải xây dựng cơ cấu
kinh tế mở, chủ động tham gia phân công lao động và hợp tác
quốc tế, trên cơ sở phát huy cao độ nội lực, tranh thủ có hiệu
quả ngoại lực, biến ngoại lực thành nội lực để phát triển nhanh
và bền vững.

• Thứ chín, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt
tác động từ việc giảm nhập khẩu của Mỹ và một số nước chịu
nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng thế
giới và tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng tới mở
rộng thị trường trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách
để khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập siêu. Thực hiện
chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín dụng
ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Với các nhóm giải pháp khá toàn diện, đồng bộ và hợp lý trên
nguyên tắc mở rộng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tín dụng nới lỏng, tăng cường vai trò giám sát của Nhà nước,
củng cố niềm tin và phát huy đồng thuận xã hội, thực hiện
nhất quán đường lối độc lập, tự chủ và tích cực chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh

thủ tối đa hợp tác quốc tế, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội
trong gần hai năm qua của Việt Nam đã khẳng định tính đúng


21

đắn trong chính sách ứng phó của đảng và Nhà nước Việt
Nam với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay.


22

C.Kết luận
Từ khủng hoảng kinh tế của các nước trên thế giới, Việt Nam
cần nhìn nhận và đánh giá toàn diện về nền kinh tế để rút ra
được những bài học quý báu có giá trị trong thời kì hiện nay.
Bài học từ khủng hoảng Mỹ cho thấy mặc dù gói kích cầu là
rất nhanh và khá lớn so với tỷ lệ GDP nhưng nó không phải là
giải pháp cho phép nền kinh tế vượt nhanh ra khỏi khủng
hoảng.Ngược lại,nó có thể là hiểm họa tiềm ẩn gay nên lạm
phát và suy thoái,nếu thể chế tài chính có những khiếm
khuyết,khiến cho dòng vốn kích cầu bị lái lệch khỏi mục tiêu
ban đầu hoặc bị sử dụng quá kém hiệu quả.
Bài học quan trọng nhất là các cơ quan quản lý nhà nước phải
giám định chặt chẽ hoạt động của các định chế tài chính, tránh
"ngủ gục" trên "tay lái" của mình. Giá bất động sản hiện nay là
giá ảo, do mua đi bán lại chứ không phải giá thật của hàng
hóa. Ngân hàng cần rút kinh nghiệm vỡ bong bóng của thị
trường bất động sản Nhật trong những năm 1990. Sự cố này
đã dẫn tới sự phá sản của nhiều ngân hàng, và nền kinh tế

Nhật đến nay chưa hồi phục hoàn toàn. Ngân hàng Nhà nước
có vai trò quan trọng trong việc nâng cao tính hiệu quả của
quản lý nợ công, từ khâu xây dựng chiến lược quản lý nợ công
đến khâu thực hiện. Vì thế, nên có định chế nghiêm ngặt, chặt
chẽ hơn trong quản lý tín dụng.


23

Khủng hoảng tài chính hiện nay vừa là cơ hội vươn lên vừa là
thử thách lớn cho các nước châu Á, trong đó có Việt Nam.


24

MỤC LỤC



×