Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN HUYỆN GIA LÂM TRONG THỜI GIAN TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.74 KB, 23 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN HUYỆN GIA
LÂM TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Những quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Gia Lâm Hà Nội.
Trên cơ sở những đặc điểm về điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của huyện,
những định hướng phát triển kinh tế từ nay đến 2010 để tập trung giải quyết những
nội dung kinh tế trong quá trình CNH – HĐH của huyện. Tuy nhiên để giải quyết
những nội dung này chúng ta phải dựa trên một số quan điểm sau:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn của huyện theo hướng khai thác hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là lợi thế so sánh.
Xuất phát từ những lợi thế về điều kiện tự nhiên của huyện khá phong phú
và đa dạng nhưng chưa được khai thác hợp lý, vì vậy yêu cầu khách quan là phải
sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sao cho hiệu quả kinh tế cao nhất.
Kinh tế thị trường chỉ chấp nhận những sản phẩm hàng hoá có giá thành
thấp, chất lượng cao, vì vậy để phát triển sản xuất hàng hoá các nhà sản xuất phải
biết sử dụng sản xuất triệt để các lợi thế mà mình có để phát huy và sản xuất ra
những sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội.
Cùng với yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh tế việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn phải đáp ứng tốt những yêu cầu và nâng cao hiệu quả về mặt xã hội mà
cụ thể là tạo thêm việc làm, đổi mới bộ mặt nông thôn và đặc biệt là góp phần bảo
vệ môi trường sinh thái.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn phải theo hướng CNH và HĐH.
Nội dung cơ bản của quá trình CNH – HĐH nông thôn là phát triển mạnh
mẽ các hoạt động sản xuất mang tính chất công nghiệp , đồng thời đổi mới và phát
triển cơ sở hạ tầng, đổi mới tổ chức quản lý sản xuất trong nông thôn. CNH và
HĐH là 2 quá trình có liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau thúc đẩy quá
trình phát triển , đây là điều kiện tiền đề, quyết định sự phát triển kinh tế – xã hội
nông thôn. Vì vậy cần gắn chặt quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn với
quá trình CNH và HĐH.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn phải phát huy được vai trò tích cực
của mọi thành phần kinh tế trong nông thôn.


Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang khuyến khích sự tham gia đa dạng của
các thành phần kinh tế trong nền kinh tế. Đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn của huyện cũng phải phát huy được vai trò của các thành phần, vì vậy
cần:
+ Tiếp tục đổi mới kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác trong nông thôn
sao cho phù hợp với tính chất chức năng, vai trò của các thành phần kinh tế .
+ Đảm bảo sự bình đẳng của các thành phần kinh tế trước pháp luật, tạo điều
kiện cho môi trường cạnh tranh lành mạnh.
- Quan điểm về vai trò quyết định của Nhà nước trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn.
Do mặt trái của nền kinh tế thị trường thị trường tác động tiêu cực đến sự
phát triển cho nên cần thiết phải có sự điều tiết của Nhà nước nhằm hạn chế tiêu
cực, đồng thời kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong các ngành mũi
nhọn. Cho nên trong vấn đề chuyển dịch cơ cấu KTNT Nhà nước cần có các chiến
lược, chương trình và kế hoạch dài hạn định hướng cho kinh tế nông thôn phát
triển theo từng thời kỳ, từng giai đoạn.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở huyện Gia lâm phải phù hợp nới xu
thế đô thị hoá.
Quá trình phát triển kinh tế nông thôn luôn gắn liền với quá trình phát triển
chung của cả nước. Vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn huyện Gia lâm
cũng phải gắn với quá trình hiện đại hoá và xu thế đô thị hoá.
Quan điểm CNH và ĐTH trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
thường gắn với việc hình thành các thị trấn, thị Tứ, các tụ điểm kinh tế giao lưu
hàng hoá. Đồng thời quá trình này còn gắn chặt với sự phát triển của kết cấu hạ
tầng trong nông thôn, trước hết là hệ thống đường, thuỷ lợi, điện, trường, trạm,
thông tin... Đây là những điều kiện tiền đề thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nhằm mục đích phân công lao động
theo hướng chuyên môn hoá ngày càng cao, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp,
tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.

Phát triển kinh tế nông thôn và quá trình đo thị hoá trong cơ chế thị trường
tự bản thân nó đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng
ngày càng tiến bộ.
Từ những cơ sở trên với quá trình quy hoạch phát triển thứ độ cũng như
huyện Gia Lâm Hà Nội, trong thời gian tới (từ nay đến 2010) huyện Gia Lâm sẽ có
tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá rất nhanh. Do vậy chắc chắn sẽ chi phối
mạnh mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn của huyện.
2. Mục tiêu và phương hướng chuyển dịch
2.1. Mục tiêu chung:
Mục tiêu phấn đấu của cơ cấu kinh tế huyện Gia lâm: Đẩy mạnh phát triển
công nghiệp trung ương và thành phố trên địa bàn huyện đặc biệt là trong nông
thôn. Phát triển mạnh các làng nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp để đảm bảo
cơ cấu chung của toàn huyện đến năm 2010 là:
- Công nghiệp chiếm 45,16%
- Nông nghiệp chiếm 6,94%
- Dịch vụ chiếm 47,90%
Tốc độ tăng trưởng từ nay đến 2010 là 16,45%, bình quân GDP 1 người là
703 USD và phấn đấu đến những năm tiếp theo cơ cấu kinh tế của huyện sẽ là:
+ Công nghiệp chiếm 45,13%
+ Nông nghiệp chiếm 3,76%
+ Dịch vụ chiếm 55,11%
Biểu 10: Phương hướng phát triển kinh tế huyện Gia Lâm theo ngành
trong thời gian tới.
Chỉ tiêu
2001 – 2005 2006 – 2010
Giá trị
(tr.đ)
Cơ cấu
(%)
Gía trị

(tr. đ)
Cơ cấu (%)
Tổng số 2445922 100 7220535 100
1. Công nghiệp 1104624 45,16 3258640 45,13
2. Dịch vụ 1171496 47,9 3690212 51,11
3. Nông nghiệp 169802 6,94 271683 3,16
Nguồn:phòng thống kê huyện Gia lâm
Ghi chú: Giá trị ước tính từng năm trong 2 giai đoạn
2.2. Mục tiêu và phương hướng cho từng ngành.
2.2.1. Ngành nông nghiệp.
*Ngành trồng trọt
Từ nay đến năm 2010 nông thôn đồng bằng Sông Hồng nói chung và huyện
Gia Lâm nói riêng giá trị ngành nông nghiệp cũng như cơ cấu trên địa bàn ngày
càng giảm. Song vẫn đảm bảo vị trí quan trọng của ngành nông nghiệp trên 2 khía
cạnh: Dân số lao động trong nông nghiệp đến năm 2010 chiếm khoảng 30% ; nông
nghiệp của huyện Gia lâm sẽ trở thành một ngành nông nghiệp thâm canh đa dạng
hoá theo hướng sản xuất hàng hoá đảm bảo đáp ứng được nhu cầu về sản phẩm
nông nghiệp cho người dân trên địa bàn huyện cũng như người dân thủ đô, đồng
thời cung cấp nguyên liệu cho các ngành chế biến nông sản. Ngoài ra nông nghiệp
Gia lâm còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường cảnh quan của
thành phố.
Phương hướng phát triển của nông nghiệp huyện trong giai đoạn từ nay đến
2010 như sau: Đến năm 2010 GDP của ngành nông nghiệp sẽ đạt 235.472triệu
đồng chiếm 5,8% trong tổng GDP của huyện, với tốc độ tăng trưởng trong thời kỳ
này của ngành nông nghiệp là 6%.
Để đạt được kết quả trên ngành nông nghiệp của huyện trong những năm tới
sẽ phát triển theo hướng thâm canh đảm bảo an toàn lương thực đảm bảo phát triển
hàng hoá.
Đối với cây lương thực: ổn định diện tích trồng lúa trên các vùng đã đảm
bảo hệ thống tưới tiêu, chuyển một số vùng sang trồng cây ăn quả và nuôi trồng

thuỷ sản. Thâm canh lúa, chuyển 20% diện tích trồng lúa thường sang trồng lúa
đặc sản có chất lượng cao. Đảm bảo 45000 ha canh tác lúa đạt năng suất trung bình
35 tạ/1ha trong 1 vụ để có sản lượng 15.750 tấn. Với sản lượng cây lương thực
khác có thể đạt 50.000 tấn qui ra thóc trên 1 năm.
Cây rau là cây trồng thích hợp với huyện Gia Lâm đồng thời có thị trường
tiêu thụ rộng lớn nên phấn đấu trong giai đoạn từ đấy đến 2010 toàn huyện có diện
tích trồng rau các loại là 1 nghìn ha kể cả rau chính vụ và rau trái vụ. Các loại rau
chuyên canh trên địa bàn huyện như ; bắp cải, súp lơ, su hào, hành tây, dưa chuột...
Và các loại rau gia vị, đảm bảo hàng năm cung cấp cho thị trường địa bàn và thủ
đô khoảng 1.400 – 1500 tấn rau tươi. Trong đó tập trung phát triển cây rau sạch,
rau cao cấp cung cấp cho các nhà hàng khách sạn, nâng cao giá trị sản phẩm vùng
tập trung trồng rau ở các xã Kim lam, Vân đức, Đông dư, Dương xã, Kim sơn.
Tiến tới xây dựng các vùng rau chuyên canh, từng bước ứng dụng công nghệ chế
biến rau quả.
Đối với cây công nghiệp: Đẩy mạnh trồng đậu tương, lạc, cây đay, dâu
tằm… để làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Dự tính 1000 ha đậu tương,
trong đó chủ yếu là đậu tương trồng trên đất 2 vụ lúa và đậu tương xen ngô đây là
cây trồng quan trọng bổ xung cho một phần thức ăn của đàn bò sữa và chăn nuôi
khác, loại cây này tập trung ở các xã ven sông Đuống.
Đối với cây giống cây ăn quả và cây môi trường: Đây là loại cây mang lại
giá trị kinh tế cao, trong những năm tới phát triển mạnh cây giống ở các xã Trâu
Quỳ, Thượng khanh, khai thác vườn tạp ở các gia đình để biến thành các vườn trại
ở ngoài đê xã Đông dư, Cự khối, Long Biên. Trong đó chủ yếu là cây ăn quả, cây
môi trường , hoa cây cảnh và các nhà hàng phục vụ cho du lịch, đưa tổng diện tích
cây ăn quả, giống cây, cây cảnh (kể cả vườn gia đình) lên 300 – 400 ha trong giai
đoạn từ nay đến 2010.
*. Ngành chăn nuôi.
Hiện nay ngành chăn nuôi của huyện chiếm 34,3% tổng giá trị ngành nông
nghiệp, chủ yếu liên kết chăn nuôi lợn, trâu bò, trong đó đàn lợn sữa, bò sữa, gia
cầm và các đặc sản đang được phát triển , phấn đấu trong giai đoạn từ nay đến năm

2010 đưa tổng đàn lợn lên 60 ngàn con trong đó đàn lợn nạc chiếm 30 – 40%.
Khuyến khích các gia đình chăn nuôi với quy mô lớn từ 20 – 30 con. Đẩy mạnh
nuôi bò sữa lên 3000 con trong giai đoạn này, tập trung đưa giống bò cao sản để
đạt 1 chu kỳ cho sữa của 1 con là 3000 – 4000 lít.
Phát triển chăn nuôi gia cầm tại các hộ gia đình, khuyến khích việc nuôi
thuỷ sản , đồng thời tìm mọi biện pháp để khai thác ,đánh bắt và nuôi trồng thuỷ
sản trên sông Hồng và sông Đuống, cải tạo và chống ô nhiễm các ao hồ trong xã ,
chuyển một số ruộng trũng không có khả năng tiêu úng sang nuôi trồng thuỷ sản.
Biểu 11: Tiềm năng thuỷ sản của huyện gia lâm trong thời gian tới
(2001 - 2010).
Mặt nước khai thác Tiềm
năng
Đã khai thác Tiềm năng
cần khai thác
Sản lượng
tăng thêm
Tổng sản
lượng năm
2010
1. Ao hồ nhờ
- Năng suất cá kg/ha
- Giá trị tiền mặt
(1000đ)
- Lợi ích / chi phí
539
2000kg
400 ha
1025 kg
17500
23000

76 ha
2000 kg 152 tấn 1095 tấn
2. Mắt nước lớn, sông
cụt
- Năng suất kg/ha
77 ha 77 ha
2000 kg
154 tấn 154
3. Mặt nước sông Hồng
- Nuôi cá lồng
- Năng suất kg/m
3
nước
- Hệ số lợi ích /chi phí
933 ha
2000 lồng 60
31 kg/m
31,3
có có
Có thế 100
4. Ruộng trũng
- Năng suất kg/ha
210 ha 200 ha
2000 kg/ha 40 tấn 400 tấn
Nguồn: Sở nông nghiệp & phát triển nông thôn Hà nội.
2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp .
Huyện Gia lâm là một huyện có đầy đủ điều kiện và tiềm năng để đẩy mạnh
phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Trong những năm vừa qua các làng
nghề truyền thống như làng gốm Bát tràng, chế biến nông sản, may mặc ở Ninh
hiệp, dát vàng, may da, ở Kiều kỵ.

Về mặt đất đai, lao động, các đầu mối giao thông là tiềm năng tốt, là nền
tảng của sự phát triển công nghiệp trong công cuộc CNH và HĐH.
- Đối với khu công nghiệp trung ương, thành phố và các công ty liên doanh
đang được xây dựng và phát triển khá mạnh. Trong những năm tới trên địa bàn
huyện sẽ ra đời các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp thực phẩm, lắp giáp
cơ khí, điện tử, may mặc… Các khu công nghiệp lớn sẽ hình thành như khu công
nghiệp Sài đồng, Phú thuỵ.
- Có thể hình thành các trung tâm công nghiệp trên địa bàn huyện trong thời
gian tới:
+ Thị trấn Gia lâm - Đức giang – Việt hưng.
+ Thị trấn Yên viên – Ninh hiệp.
+ Thị trấn Sài đồng – Gia thuỵ – Thạch bàn.
+ Trâu quỳ – Phú thuỵ - Kiều kỵ.
+ Bát tràng - Đa tốn – Kim lam – Văn đức.
Đây là các khu công nghiệp có sự phối hợp chặt giữa công nghiệp Trung
ương, Thành phố và huyện.
- Tiểu thủ công nghiệp của địa phương, phấn đấu đến năm 2010 đạt GDP
1.685.687 triệu đồng chiếm 51,73% tổng giá trị công nghiệp trên toàn huyện.
- Công nghiệp do huyện quản lý từ nay đến năm 2010 phấn đấu đạt GDP
1.572.456 triệu đồng với chế độ phát triển hàng năm là 21,5%. Đây là thời kỳ phát
triển cơ bản của công nghiệp do địa phương quản lý sẽ tăng gấp 3 lần so với năm
2000.
- Các ngành công nghiệp huyện sẽ tập trung vào các ngành chủ yếu sau:
* Ngành công nghiệp chế biến nông sản:
Chế biến nông sản là một thế mạnh của huyện Gia lâm không chỉ sử dụng
nguyên liệu của ngành nông nghiệp huyện mà còn thu hút cả nguyên liệu từ các
vùng lân cận và các tỉnh khác. Với công nghệ truyền thống và công nghệ chế biến
hiện đại huyện đang cố gắng chế biến các sản phẩm ngành nông nghiệp từ sơ chế
đến tinh chế để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của thị trường ngày càng cao.
* Công nghiệp giầy da và hàng may mặc.

Hiện nay trên địa bàn huyện có 3 công ty may và một xí nghiệp sản xuất
giầy đang tạo ra nhiều việc làm cho lao động của huyện đồng thời các xí nghiệp
may tư, may gia công ở các xã đang phát triển mạnh. Dự kiến đến năm 2002 giá trị
2002 giá trị GDP của ngành tăng gấp đôi hiện nay.
* Nhu cầu về sản phẩm của ngành sản xuất xây dựng vật liệu ngày càng lớn
như gạch ngói sản phẩm bê tông, sứ xây dựng, gạch lát nền và trang trí. Hiện tại
ngành sản xuất xây dựng vật liệu của huyện phát triển toàn ngành hạn chế chưa
thích ứng với tốc độ phát triển hiện nay trên địa bàn huyện. Từ nay đến năm 2010
ngành sản xuất vật liệu xây dựng của huyện sẽ đẩy tốc độ sản xuất, phát triển sản
xuất vật liệu từ cát, xi măng cung cấp các sản phẩm có chất lượng cao cho ngành
xây dựng, nghiên cứu triển khai đưa các dây chuyền công nghệ hiện đại vào sản
xuất gạch, gốm và các thiết bị nội thất. Nâng cấp và xây dựng các công trình hạ
tầng lớn phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu nông thôn huyện. Cố gắng đưa giá
trị của ngành xây dựng tăng gấp 3 lần vào năm 2010 chiếm 45% giá trị công
nghiệp .

×