Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tích lũy tư bản vận dụng lý luận này trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.4 KB, 13 trang )

Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Khoa Bất Động Sản
BÀI TẬP LỚN
Sinh viên thực hiện: Đinh Công Tiến
Lớp: Những nguyên ý và chủ nghĩa Mác- Lênin 2 18.1
Giáo viên hướng dẫn: Tô Đức Hạnh
ĐỀ 2: Tích lũy tư bản vận dụng lý luận này trong quá trình phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
BÀI LÀM
Qua bài phân tích này các bạn sẽ hiểu tại sao người giàu càng giàu
và người nghèo thì ngày một nghèo đi. 80% lượng tiền lại năm
trong 20% người còn lại của xã hội như một nghịch lý, nhưng đó
lại là lẽ khách quan phải xảy ra.
1)Thực chất của tích lũy tư bản
Thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị
thặng dư thành tư bản hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.
Cụ thể, tích lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày
càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hóa thành tư
bản được vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của
tư bản mới Ví dụ: Xét một mô hình sản xuất của một nhà tư bản:
Năm thứ nhất quy mô sản xuất là: 800c + 200v + 200m. Giả định
200m không bị nhà tư bản tiêu dùng tất cả cho cá nhân mà được
phân thành 100m dùng để tích lũy và 100m dành cho tiêu dùng cá
nhân của nhà tư bản. Phần 100m dùng để tích lũy được phân thành
80c + 20v khi đó quy mô sản xuất của năm sau sẽ là: 880c + 220v
+ 220m ( với điều kiện tỉ suất lợi nhuận m’ không đổi). Như vậy,
vào năm thứ 2 quy mô của tư bản bất biến và tư bản khả biến đều
tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên tương ứng. Và cứ như vậy
thì quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng, tích lũy tư bản ngày



càng lớn, phần giá trị thặng dư thành tư bản ngày càng tăng lên.
Đây chính là thực chất của chủ nghĩa tư bản. Những nhân tố quyết
định quy mô tích lũy tư bản
Trường hợp 1, khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì quy mô
của tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị
thặng dư đó thành 2 quỹ: quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư
bản. Tỷ lệ quỹ này tăng lên thì tỷ lệ quỹ kia giảm đi.
Trường hợp 2, nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy
mô của tích lũy tư bản phải phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng
dư, mà trong trường hợp này khối lượng giá trị thặng dư lại phụ
thuộc lại phụ thuộc vào những nhân tố sau: Trình độ bóc lột lao
động: bằng những biện pháp: tăng cường độ lao động, kéo dài
ngày lao động, cắt giảm tiền lương của công nhân. Có nghĩa là,
thời gian công nhân sáng tạo ra giá trị càng được kéo dài ra nhưng
chi phí càng được cắt giảm, do vậy khối lượng giá trị thặng dư
càng lớn và quy mô của tích lũy tư bản càng lớn Trình độ năng
suất lao động xã hội: năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm
những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới,
nên làm tăng quy mô của tích lũy. Sự chênh lệch giữa tư bản được
sử dụng và tư bản đã tiêu dùng: Trong quá trình sản xuất, tư liệu
lao động ( máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào quá trình sản
xuất nhưng giá trị của chúng lại chỉ bị khấu hao từng phần. Như
vậy là mặc dù đã mất dần giá trị, nhưng trong suốt thời gian hoạt
động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt
động này của máy móc được xem như là sự phục vụ không công.
Máy móc thiết bị càng hiện đại thì sự chênh lệch giữa tư bản được
sử dụng và tư bản đã tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không
công càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động
quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô của tích lũy tư bản càng lớn.
Quy mô của tư bản ứng trước: Với trình độ bóc lột không thay đổi

thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết
định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản
khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được


càng lớn, tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích lũy tư bản
Vậy thực chất của tích lũy tư bản là một hình thức bóc lột trong
sản xuất. Làm cho K chuyển sang L, từ L tạo ra một sản lượng Y
mới. Chúng ta bán Y quay lại K ăn mức chênh lệch mới được gọi
là K1, từ đây chúng ta thuê lao động L1 tạo ra sản lượng Y1
…. Chính vì vậy tư bản sẽ ngày một lớn lực lượng lao động chỉ
nắm giữ một lượng nhỏ K đủ để sống. Còn những người có K lớn
thì ngày một phát triển hơn. Lý giải tại sao người giàu càng giàu
hơn.
2) Những nhân tố quyết định đến quy mô của tích lũy tư bản
Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và tỷ
lệ phân chia giá trị thặng dư tư bản phụ thêm và thu nhập.
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của
tích lũy phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư
đó thành quỹ tích lũy và quỹ tiêu dung nhiều cho cá nhân thì khối
lượng giá trị thặng dư dành cho tích lũy sẽ ít đi. Khi đó quy mô của
tích lũy tư bản của nhà nước tư bản đó sẽ giảm đi. Ngược lại việc
tiêu dung ít đi sẽ làm tăng khối lượng tích lũy, khi đó quy mô tích
lũy se tăng lên. Tích lũy của chế độ TBCN nhằm thu được ngày
càng nhiều giá trị thặng dư: sản xuất mở rộng thì chúng càng tăng
cường bóc lột công nhân thu được them nhiều giá trị thặng dư. Khi
đó nhà tư bản càng có vốn mở rộng thêm sản xuất, quy mô bóc lột
ngày càng tăng lên. Ngoài tiêu dùng xa phí của mình, nhà tư bản
còn phải đối phó với tình trạng cạnh tranh gay gắt trong xã hội tư
bản nên họ phải tăng them tích lũy để mở rộng sản xuất với quy

mô lớn hơn giành nhằm phần thắng cho mình trên thương trường
Nếu tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó đã cho sẵn, thì
rõ rang đại lượng của tư bản tích lũy sẽ do đại lượng tuyệt đối của
giá trị thặng dư quyết định. Do đó những nhân tố quyết định quy
mô của tích lũy chính là những nhân tố quyết định quy mô của
khối lượng giá trị thặng dư. Những nhân tố đó là:


Một là, mức độ bóc lột sức lao động.
Nâng cao mức độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào
tiền công của công nhân. Như vậy công nhân không những bị tư
bản chiếm đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần
lao động tất yếu, bị cắt xén một phần tiền công. Việc cắt xén tiền
công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tích lũy tư bản.
Nâng cao mức bóc lột bằng cách tăng cường độ lao đọng và kéo
dài ngày lao động. Việc tăng cường độ lao động và keo dài ngày
lao động rõ rang làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ
phận giá trị thặng dư tư bản hóa, tức là làm tăng tích lũy. Ảnh
hưởng này còn thể hiện ở chỗ số lượng lao động không đòi hỏi
phải tăng them tư bản một cách tương ứng (không đòi hỏi tăng
them số lương công nhân, tăng them máy móc, thiết bị hầu như chỉ
cần tăng them sự hao phí nguyên liệu)
Hai là: trình độ năng suất lao đọng xã hội
Việc nâng cao năng suất lao động sẽ tăng them giá trị thặng dư,
do đó tăng thêm bộ phân giá trị thặng dư được tư bản hóa. Song
vấn đề ở đây là quy mô của tích lũy không chỉ quyết định bở khối
lượng giá trị thặng dư, mà còn bởi khối lượng tư liệu sản xuất và tư
liệu tiêu dung, do khối lượng giá trị thặng dư đó có thể chuyển hóa
thành. Như vậy năng suất lao động tăng sẽ làm tăng them những
yếu tố vật chất của tư bản, do đó làm tăng quy mô tích lũy. Năng

suất lao động cao thì lao động sống sử dụng được nhiều lao động
quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích
mới, chúng làm chức năng tư bản để sản xuất ra tư bản càng nhiều,
do đó mà quy mô của tư bản tích lũy càng lớn. Như vậy năng suất
lao động là nhân tố quan trọng quyết định đến quy mô của tích lũy.
Ba là, sự chênh lệch ngày cang tăng giữa tư bản sử dụng và tư
bản tiêu dung


Trong quá trình sản xuất, tất cả các bộ phận cấu thành của máy
móc đều hoạt động, tức là máy móc tham gia toàn bộ vào quá trình
sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng
được chuyển dần từng phần vào sản phẩm, vì vậy sự chênh lệch
giữa tư bnr sử dụng và tư bản tiêu dung. Mặc dừ đã mất dần giá trị
như vậy, nhưng trong suốt thời gian hoạt động máy móc vẫn có tác
dụng khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu không kể đến phần giá trị của
máy móc phục vụ không công đó chẳng khác gì lực lượng tự
nhiên.
Lực lượng sản xuất xã hội càng phát triển máy móc càng hiện
đại, phần giá trị của nó chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian
càng ít, sự chênh lệch giữa tư bản cố định sử dụng và tư bản cố
định tiêu dùng càng lớn. Do đó tư bản lợi dụng được những thành
tựu của lao động quá khứ càng nhiều
Bốn là, quy mô của tư bản ứng trước
Với mức bác lột không đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do số
lượng cong nhân bị bóc lột quyết định. Do đó quy mô của tư bản
ứng trước, nhất đinh là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì giá trị
thặng dư bóc lột và quy mô tích lũy cũng càng lớn. Đối với sự tích
lũy của cả xã hội thì quy mô của tư bản ứng trước chỉ là nhỏ nhưng
rất quan trọn. C.Mac đã nói rằng ” tư bản chỉ là giọt nước trong

dòng song của sự tích lũy mà thôi”
Tích lũy dưới chế độ TBCN làm cho của cải của cả xã hội ngày
càng tập trung vào tay giai cấp tư sản, người công nhân càng bị
bóc lốt nặng nề
3) Thực tiễn ở Việt Nam
Với một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đất nước ta
đang ở
trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và năng động nhất từ trước tới
nay. Sự


phát triển của nền kinh cũng tạo ra áp lực về tăng quy mô vốn cho
nền kinh
tế. Vì vậy việc nghiên cứu tích luỹ tư bản và việc vận dụng lí luận
đó vào thực
tiễn Việt Nam là rất quan trọng và cần thiết. Quá trình CNH-HĐH
đất nước
đạt được thành công trước hết phải có vốn lớn.
Thị trường vốn Việt Nam hứa hẹn rất nhiều cơ hội đầu tư do
nguồn tích lũy vốn trong dân cao; trái phiếu, cổ phiếu từ các công
ty Nhà nước tham gia tiến trình cổ phần hóa đang tạo nhiều hàng
hóa cho thị trường.Thêm nữa, Việt Nam cũng là nước có quy mô
dân sốđông và trẻ với nhu cầuchi tiêu lớn. Điều này sẽ kích thích
sự sôi động của thị trường vốn. Vấn đềmấu chốt ở đây là phải có
những giải pháp thích hợp nào có thể huy động nguồn vốn đóđể sử
dụng có hiệu quả nhất.
Sự phát triển bền vững và liên tục của nền kinh tế Việt nam trong
một
thế giới mà xu thế toàn cầu hóa đang tạo ra rất nhiều cơ hội cũng
nhưáp lực,

thách thức đòi hỏi mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp …không chỉ
biết làm
giầu cho mình mà còn phải biết làm giầu cho toàn xã hội. Qui luật
cạnh tranh
đã buộc bất cứ một nhà doanh nghiệp nào cũng phải không ngừng
mở rộng
vốn đầu tưđể phát triển doanh nghiệp. Con đường duy nhất để mở
rộng vốn
đầu tư của mình chính là con đường phải tích luỹ ngày càng nhiều
hơn để tái
sản xuất mở rộng. Vì thế Nhà nước cần nuôi dưỡng khát vọng cho
cả cộng
đồng dân cư luôn biết say mê tích luỹđể mở rộng đầu tư hơn nữa.
Mặt khác


việc thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI ,
ODA…. ) sẽ có
tác động hỗ trợ rất lớn. Đó chính là con đường dẫn đến sự thành
công của sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước, khẳng định tính đúng đắn của chính
sách mở
cửa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, sớm
đạt mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
4) Sự tăng trưởng Việt Nam những năm gần đây
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã đề ra đường
lối Đổi mới với trọng tâm là đổi mới kinh tế. Đây là một mốc quan
trọng trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam thời kỳ mới.
Đường lối Đổi mới đã tiếp tục được Đảng khẳng định và hoàn

thiện qua các kỳ Đại hội sau đó. Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam
từ một nước nhập khẩu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu
gạo lớn thứ hai thế giới, nhiều chủng loại hàng hóa được xuất khẩu
và nhiều thương hiệu hàng hóa được thế giới biết đến; kinh tế đạt
tăng trưởng cao vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX và những
năm đầu tiên của thế kỷ XXI, đời sống nhân dân ngày càng được
cải thiện và nâng cao, chính sách xã hội được chú trọng hơn hệ
thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, quản lý xã hội trên cơ
sở luật pháp dần đi vào nề nếp, an ninh quốc phòng được giữ vững,
quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt
Nam, điểm nổi bật chiếm vị trí hàng đầu và trở thành chuẩn mực
đạo lý Việt Nam là tinh thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường,
truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Cuộc sống lao động
gian khổ đã tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng tạo và kiên
nhẫn; yêu cầu phải liên kết lại để đấu tranh với những khó khăn,
thách thức đã tạo ra sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa
con người với nhau trong mối quan hệ gia đình, láng giềng, dòng
họ của người Việt cũng như trong cộng đồng nhà – làng - nước -


dân tộc. Lịch sử cũng cho con người Việt Nam truyền thống tương
thân tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì
đồng cam cộng khổ, cả nước một lòng; tính thích nghi và hội nhập;
lối ứng xử mềm mỏng và truyền thống hiếu học, trọng nghĩa,
khoan dung. Đây chính là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận
cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Nhưng một sự chuyển đổi khác của Việt Nam—để trở thành một
nền kinh tế công nghiệp, hiện đại—hầu như mới chỉ bắt đầu. Theo

Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội, Việt Nam mong muốn đạt
được mức thu nhập bình quân đầu người 3.000 đô la Mỹ vào năm
2020. Điều này có nghĩa là mức thu nhập bình quân đầu người phải
tăng gần 10% mỗi năm—đòi hỏi Việt Nam phải nhân rộng và duy
trì được thành tựu kinh tế mà mình đã đạt được trong mười năm
qua trong vòng mười năm tiếp theo. Để đạt được mục tiêu này,
theo Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội, Việt Nam cần phải bình
ổn kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ sở hạ tầng tiêu chuẩn thế giới, xây
dựng nguồn nhân lực có trình độ, kỹ năng và tăng cường các thể
chế kinh tế thị trường của mình.
Đạt được những nguyện vọng này không phải là điều dễ dàng.
Việt Nam đã phải trải qua những cơn sóng gió chưa từng có trong
nền kinh tế vĩ mô trong những năm gần đây—lạm phát hai con số,
tiền đồng mất giá, nguồn vốn tháo chạy và suy giảm dự trữ ngoại
hối—làm xói mòn lòng tin của nhà đầu tư. Tăng trưởng nhanh
cũng làm bộc lộ những vấn đề mang tính cơ cấu. Chất lượng và
tính bền vững của tăng trưởng vẫn là nguyên nhân gây quan ngại
nặng nề do tăng trưởng kinh tế sử dụng quá nhiều tài nguyên, ô
nhiễm cao và hàng xuất khẩu thiếu đa dạng và ít có giá trị gia tăng,
tỉ trọng đóng góp của năng suất vào tăng trưởng ngày càng giảm.
Năng lực cạnh tranh của Việt Nam đang bị đe dọa bởi sản xuất
điện không theo kịp nhu cầu, chi phí hậu cần và giá cả bất động
sản leo thang, tình trạng thiếu lao động có kỹ năng ngày càng phổ
biến
Vào thời điểm Lễ Kỷ niệm Bạc (25 năm) Đổi Mới, Báo cáo Phát


triển Việt Nam năm nay (VDR 2012) sẽ xem xét một số vấn đề nổi
cộm mà Việt Nam phải giải quyết để xây dựng một nền tảng mạnh
mẽ hơn nhằm trở thành quốc gia công nghiệp hóa vào năm 2020.

Theo Kế hoạch 5 năm mới được thông qua gần đây, ba lĩnh vực
cần đặc biệt chú trọng là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, nâng
cao hiệu quả chi tiêu công và bình ổn khu vực tài chính. Những
phân tích đưa ra trong báo cáo này tập trung vào hai ưu tiên đầu.
Thứ nhất, phân tích cho thấy các doanh nghiệp nhà nước được sở
hữu nguồn vốn cố định (đất đai và tín dụng) không tương xứng với
quy mô của chúng, sử dụng vốn kém hiệu quả hơn so với các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài—đòi hỏi phải tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà
nước. Thứ hai, phân tích cho thấy cách thức Việt Nam phân bổ
nguồn lực công đang tạo ra một cơ sở hạ tầng kém tối ưu và manh
mún ở cấp địa phương, điều này không góp phần tích cực cho việc
xây dựng một hệ thống hạ tầng hiệu quả cho toàn quốc, do vậy cho
thấy rõ cần phải thay đổi cơ chế phân bổ nguồn lực. Tiếp đó, báo
cáo chỉ ra những lý do giải thích cho sự kém hiệu quả của các
DNNN trong đầu tư công và đưa ra một số phương án chính sách
tổng quát để thảo luận.
phân tích cho thấy các doanh nghiệp nhà nước được sở hữu
nguồn vốn cố định (đất đai và tín dụng) không tương xứng với quy
mô của chúng, sử dụng vốn kém hiệu quả hơn so với các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài—đòi hỏi phải tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước
(xem chương 2). Thứ hai, phân tích cho thấy cách thức Việt Nam
phân bổ nguồn lực công đang tạo ra một cơ sở hạ tầng kém tối ưu
và manh mún ở cấp địa phương, điều này không góp phần tích cực
cho việc xây dựng một hệ thống hạ tầng hiệu quả cho toàn quốc,
do vậy cho thấy rõ cần phải thay đổi cơ chế phân bổ nguồn lực
(xem chương 3). Tiếp đó, báo cáo chỉ ra những lý do giải thích cho
sự kém hiệu quả của các DNNN trong đầu tư công và đưa ra một
số phương án chính sách tổng quát để thảo luận (xem chương 4).

Sau đó, báo cáo nhận diện các nguyên nhân dẫn tới hoạt động thiếu


hiệu quả của các DNNN và sự thiếu hiệu quả trong đầu tư công và
đề xuất một số hành động chính sách chung để thảo luận.
Báo cáo cho rằng nguyên nhân căn cơ của những vấn đề hiện tại
nằm ở chỗ sự chuyển đổi chưa hoàn thiện của Việt Nam sang nền
kinh tế thị trường. Đặc biệt, báo cáo tập trung vào các thể chế yếu
(weakinstitutions), cơ chế khuyến khích bị bóp méo
(distorted incentives) và thiếu thông tin (inadequateinformation)
– được gọi là 3 chữ I của kinh tế thị trường – để giải thích cho
những khó khăn hiện tại của Việt Nam. Báo cáo cung cấp một loạt
ý tưởng và khuyến nghị để giải quyết các vấn đề này nhằm giúp
tạo nền móng duy trì phát triển nhanh cho Việt Nam trong 10 năm
tới.
5) Vận dụng để phát triển Việt Nam
Muốn phát triển bền vững, không chỉ có chính sách kinh tế quyết
định mà cần gắn với chính sách kinh tế với an sinh xã hội, phát
triển nguồn nhân lực và bảo vệ môi trường. Nút thắt về nguồn nhân
lực đã được các nhà hoạch định chính sách nhìn thấy song đến nay
vẫn chưa có chiến lược nào được thực thi để tháo gỡ. Suốt hàng
thập kỷ qua giáo dục cũng phát triển với tốc độ “bong bóng”, tỷ lệ
có bằng đại học thuộc loại cao nhất thế giới nhưng chất lượng
nguồn nhân lực thì không được thị trường công nhận. Nguồn nhân
lực giá rẻ chứng tỏ chất lượng lao động thấp, chỉ thu hút đầu tư vào
những ngành sử dụng lao động giản đơn, hiệu quả thấp, ít sử dụng
công nghệ cao. Thành quả của nền giáo dục chính là tương lai của
nền kinh tế, song với chất lượng giáo dục thấp như vậy thì kinh tế
không thể cất cánh được.
Nền kinh tế phát triển có bền vững hay không còn phụ thuộc vào

các yếu tố xã hội và môi trường. Sự phát triển kinh tế trên cơ sở
nhu cầu và các mối quan hệ xã hội, đồng thời thúc đẩy các lực
lượng xã hội phát triển. Việc hài hòa các lợi ích về kinh tế và xây
dựng các mối quan hệ xã hội tuy khó nhưng không thể tách rời.
Nếu hoạch định chính sách kinh tế thiếu gắn kết với chính sách an


sinh xã hội chắc chắn sẽ không thể duy trì được tăng trưởng mà có
thể gây ra những tác động bất lợi cho sự phát triển ổn định.
Thời gian qua, đã có nhiều chính sách được ban hành để kích thích
phát triển kinh tế nhưng vẫn thiếu các chính sách thúc đẩy các lĩnh
vực xã hội như y tế, giáo dục, môi trường… phát triển theo hướng
tạo nền tảng cho kinh tế phát triển chứ không phải phát triển tương
tự như một ngành kinh tế. Nhiều mối quan hệ xã hội được nảy sinh
cùng với tốc độ phát triển nhưng chưa có chính sách, thể chế đầy
đủ để định hướng phát triển như chính sách về hội, về báo chí, về
lao động…
Gần đây, biến đổi khí hậu đã trở thành mối quan tâm của các nhà
hoạch định chính sách. Tuy nhiên, những nhận thức đó chưa được
thể hiện nhiều trên thực tế, hiện tượng phá hoại môi trường sống
đang diễn ra khắp nơi, ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống. Việt
Nam vẫn thiếu những kế hoạch hành động cụ thể và khả thi để bảo
vệ môi trường cũng chính là mang lại lợi ích kinh tế. Nếu mỗi
chính sách được ban hành đều tính toán đến lợi ích về môi trường
thì lợi ích kinh tế sẽ thu được nhiều hơn và bảo đảm tính bền vững
hơn.
Để thực hiện các chính sách đã được hoạch định thì cần cải tổ bộ
máy thực thi chính sách ở tất cả các lĩnh vực theo hướng Nhà nước
phục vụ dân, đáp ứng nhu cầu của thị trường, của cuộc sống. Đây
là giải pháp cuối cùng và thiết thực nhất nhưng cũng gian nan nhất

để đưa chính sách vào cuộc sống. Đặc biệt là cải cách thể chế và hệ
thống tư pháp để pháp luật được thực thi một cách công khai, minh
bạch và bình đẳng, để người dân được hưởng các quyền một cách
chính đáng, phát huy được khả năng và đóng góp cho sự phát triển
của xã hội.
Việc hoạch định chính sách cần nhắm tới mục đích cuối cùng là
phát triển bền vững với chiến lược 30, 50 năm chứ không chỉ vì
mục tiêu 5, 10 năm tới, nhưng nếu không kiên trì xây dựng và thực
thi từng bước ngay từ hôm nay thì không thể có tương lai tươi sáng
của đất nước.


Đây là giải pháp cơ bản và toàn diện để phát triển bền vững. Về
kinh tế, phát triển bền vững đã được Nghị quyết của Đảng khẳng
định là chuyển hướng đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại
nền kinh tế, chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp
lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả của
nền kinh tế. Song với bệnh thành tích về tăng trưởng đã ăn sâu hơn
thập kỷ qua thì việc chuyển hướng này chắc chắn sẽ gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt ở các cơ quan thực thi chính sách ở cấp cơ sở. Muốn
vậy, ngay từ cấp hoạch định chính sách ở trung ương cần quyết
tâm rất cao với những giải pháp quyết liệt và được quán triệt tư
duy ở tất cả các cơ quan xây dựng và thực thi chính sách ở cả trung
ương và địa phương.
Hoàn thiện thể chế làm cơ sở cho sự phát triển của kinh tế thị
trường cần được khởi động lại với các chính sách giải phóng các
nguồn lực trong nước, đặc biệt là khu vực tư nhân với nguồn nội
lực to lớn và huy động tối đa các nguồn lực từ bên ngoài. Việt
Nam với địa thế rất thuận lợi trong khu vực để phát triển giao
thương và du lịch với bãi biển dài hàng ngàn mét có đủ cả 3S (sun

- sea - sand) nhưng chưa có chính sách chiến lược đầu tư để phát
triển các lợi thế, mang lại hiệu quả kinh tế cao, cạnh tranh được
với các nền kinh tế trong khu vực. Cần thay đổi tư duy phát triển
63 nền kinh tế địa phương với cơ cấu kinh tế tương tự nhau, khu
kinh tế, khu công nghịêp mở khắp nơi nhưng hiệu quả rất thấp.
Bên cạnh đó, cũng cần ban hành một số chính sách “nói không”
với những dự án đầu tư không mang lại nhiều hiệu quả hoặc có thể
gây ra những tác động bất lợi, kể cả về mặt xã hội hơn là những
khoản lợi nhuận kinh tế trước mắt. Năm 2010, Quốc hội đã từng
“nói không” với dự án đường sắt cao tốc. Đến nay cần tiếp tục
nghiên cứu, phân tích lợi - hại để đưa ra các quyết sách kịp thời với
thủy điện, điện hạt nhân, khai thác tài nguyên (bauxite, than…),
bất động sản, tiền tệ, dịch vụ tài chính, ngân hàng... Thời gian qua,
kinh tế phát triển với tốc độ nhanh chủ yếu vẫn dựa vào các nguồn
lực từ bên ngoài và các chính sách “bong bóng”. Nếu không có can
đảm “xì hơi” dần thì những bong bóng này chắc chắn sẽ gây ra hậu


quả và không thể mang đến sự phát triển bền vững.
Tích lũy tư bản làm cho nền kinh tế nước ta tích lũy được nguồn
vốn phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để đạt được
điều đó các doanh nghiệp cần phải năng động sáng tạo tiếp thu các
thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tạo ra hàng hóa có
chất lượng tốt, năng suất cao, nâng cao sức cạnh tranh của hàng
hóa trên thị trường. Đồng thời cần mở rộng hội nhập để mở rộng
thị trường tiêu thụ hàng hóa. Đào tạo đội ngũ công nhân, lao động
có tay nghề, thúc đẩy sản xuất. Bên cạnh đó cũng có những tác
động tiêu cực: Việc tích lũy tư bản không đúng mục đích làm cho
xã hội Việt Nam có sự phân hóa giàu nghèo, tạo nên sự mất bình
đẳng xã hội ngày càng lớn, tăng nguy cơ thất nghiệp, các tệ nạn xã

hội tăng



×