Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển chế biến nông sản ở nước ta hiện nay .DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237 KB, 30 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mục lục
Lời mở đầu......................................................................................................2
Nội dung..........................................................................................................3
1.Khái niệm về công nghiệp chế biến.............................................................3
2. Vai trò của chế biến nông sản……….........................................................3
2.1. Đáp ứng được nhu cầu đời sống nhân dân ngày càng cao.................4
2.2. Góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản................................4
2.3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp..........................4
2.4. Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động...........................5
2.5. Một số vai trò khác..............................................................................5
3. Đặc điểm của ngành chế biến nông sản......................................................6
3.1. Ngành chế biến nông sản vừa mang tính độc lập vừa mang tính phụ
thuộc vào sản xuất nông nghiệp ................................................................6
3.2. Hoạt động của ngành chế biến nông sản thường không hoàn toàn diễn
ra trong phạm vi doanh nghiệp...................................................................6
3.3. Ngành chế biến nông sản là một bộ phận cấu thành quan trọng của cơ
sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp..........................................................7
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến công nghiệp chế biến................................7
4.1. Nhóm nhân tố thị trường.....................................................................7
4.2. Nhóm nhân tố về cơ sở vật chất- kỹ thuật và công nghệ...................9
4.3. Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô..................................................10
5. Các chỉ tiêu đánh giá trình độ, kết quả và hiệu quả..................................12
5.1. Hệ thống chỉ tiêu các nhân tố............................................................12
5.1.1. Các chỉ tiêu khái quát.................................................................12
5.1.2. Chỉ tiêu kết quả tổng hợp...........................................................12
5.2. Hệ thống chỉ tiêu kết quả..................................................................13
5.2.1. Chỉ tiêu kết quả trực tiếp............................................................13
5.2.2. Chỉ tiêu kết quả tổng hợp...........................................................13
5.3. Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế của chế biến nông sản.........................14
5.3.1. Mức doanh lợi............................................................................14


5.3.2. Mức doanh lợi của đầu tư bổ sung.............................................14
6. Các ngành và các hình thức công nghiệp chế biến nông sản...................15
6.1. Các ngành công nghiệp chế biến nông sản.......................................15
6.2. Các hình thức chế biến nông sản......................................................16
7. Kinh nghiệm phát triển chế biến nông sản...............................................19
8. Kết luận......................................................................................................22
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
Nông nghiệp nước ta đang từ tình trạng lạc hậu, tiến lên xây dựng nền
nông nghiệp hàng hoá theo định hướng XHCN không qua giai đoạn phát triển
TBCN, với đa phần dân cư sống bằng nghề nông. Chính vì vậy để nâng cao
đời sống nhân dân cũng như góp phần phát triển đất nước cần phải coi trọng
vấn đề phát triển nông nghiệp, trong đó có chế biến nông sản làm tăng giá trị
nông sản và tăng thu nhập cho người dân. Trên con đường hiện đại hoá, công
nghiệp hoá, nông nghiệp Việt Nam đang từng bước tiến tới một nền sản xuất
hàng hoá lớn, với sản phẩm ngày càng dồi dào, giá thành ngày càng hạ. Cho
đến nay, sản xuất nông nghiệp đã đáp ứng tốt nhu cầu lương thực, thực phẩm
cho 80 triệu dân và một số hàng nông sản xuất khẩu của nước ta đã đứng hàng
thứ 2-3 trên thế giới. Tuy nhiên, thị trường năm qua cũng cho thấy tình trạng
thừa ứ một số mặt hàng nông sản đã làm cho người nông dân được mùa mà
không vui, thu hoạch tăng mà vẫn nghèo túng. Để chặn đứng hậu quả đó, con
đường đúng nhất là đẩy mạnh chế biến nông sản thực phẩm hàng hóa. Chỉ có
chế biến nông sản mới làm hạn chế được tình trạng hao phí, thối rữa do không
tiêu thụ kịp thời của mặt hàng nông sản, làm tăng giá trị hàng hoá, nâng cao
khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường… Mặc dù vậy, công nghiệp chế biến
ở nước ta có sự phát triển không tương xứng với khả năng sản xuất nông
nghiệp do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, làm hạn chế sự phát
triển của ngành nông nghiệp cũng như của cả nước.
Qua bài viết này em xin nêu lên một số ý chính trong vấn đề chế biến

nông sản ở nước ta hiện nay, với đề tài là: “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về phát triển chế biến nông sản ở nước ta hiện nay ”.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như lượng kiến thức nên đề tài của em
không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Nhưng với sự giúp đỡ tận tình
của các thầy cô trong bộ môn cũng như giáo viên hướng dẫn đã giúp đỡ em
rất nhiều trong việc hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn!
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1. Khái niệm về công nghiệp chế biến:
Trong các tài liệu thống kê quốc tế, công nghiệp chế biến (hay còn gọi
là công nghiệp chế tạo, manufacturing ) được hiểu là toàn bộ khu vực công
nghiệp loại trừ những ngành khai khoáng, xây dựng và những ngành cung cấp
những tiện ích sinh hoạt xã hội (điện, nước, ga) thuộc mã ngành 3 trong ISIC
(Bảng mã ngành công nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế ). Công nghiệp chế biến
có đặc trưng làm thay đổi về chất của các đối tượng lao động là nguyên liệu
nguyên thủy (sản phẩm của khai thác ) thành các sản phẩm trung gian và tiếp
tục biến thành sản phẩm cuối cùng.
Công nghiệp chế biến còn được hiểu là quá trình làm tăng giá trị của
nông sản. Sản phẩm chế biến có thể cất trữ lâu dài, vận chuyển đi xa mà
không bị hư hỏng. Công nghiệp chế biến có vai trò to lớn đối với nền kinh tế -
xã hội. So với nhiều ngành công nghiệp khác thì nó không đòi hỏi vốn quá
lớn, chúng ta có thể xây dựng nhanh công trình và đưa cơ sở mới vào hoạt
động, vốn chu chuyển nhanh, nhờ đó mà tạo được nguồn vốn tich lũy trong
nước, thúc đẩy sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
Một trong những sản phẩm đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam, do
đất nước giàu tiềm năng nông nghiệp là chế biến nông sản thực phẩm, và đặc
biệt là hải sản.
2. Vai trò của chế biến nông sản:
Công nghiệp chế biến có vai trò quyết định trong công nghiệp hóa và
phát triển kinh tế. Cồn nghiệp hòa thường được giải thích là quá trình trong

đó tỷ trọng của công nghiệp nói chung và đặc biệt là tỷ trọng của công nghiệp
chế biến tăng lên trong toàn bộ các hoạt động kinh tế. Công nghiệp chế biến
là bộ phận năng động nhất của công nghiệp, giữ vai trò chủ đạo trong chiến
lược phát triển. Năng suất lao động cao trong công nghiệp chế biến là chìa
khóa dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng sức mua, mở
rộng thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ. Một nền kinh tế trưởng thành khi
nó có tỷ trọng công nghiệp( hay công nghiệp chế biến ) cao trong GDP, trong
cơ cấu việc làm và cơ cấu xuất khẩu. Ta có thể thấy những vai trò cụ thể của
công nghiệp chế biến như sau:
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1. Đáp ứng được nhu cầu đời sống nhân dân ngày càng
cao:
Các sản phẩm nông nghiệp nói chung và nông sản chế biến nói riêng
giữ vai trò tối quan trọng đối với đời sống con người. Nhu cầu xã hội về nông
sản ngày càng tăng một mặt do dân số không ngừng tăng, mặt khác thu nhập
đầu người cũng tăng nên yêu cầu về số lượng và chất lượng ngày càng cao.
Những năm trước đây người dân chỉ quen dùng các sản phẩm tươi sống, chế
biến thô thì nay đã có sự chuyển biến rõ rệt. Các sản phẩm chế biến ngày càng
giữ vị trí quan trọng trong đời sống của nhân dân như các loại bánh, mì ăn
liền, rau quả hộp, thịt hộp, xúc xích… Rõ ràng sự đa dạng phong phú của sản
phẩm cũng như giá trị dinh dưỡng, sự tiện ích của sản phẩm đã thuyết phục
người dân tiêu dùng ngày một nhiều. Nhưng phải phát triển công nghiệp chế
biến mạnh hơn nữa mới đáp ứng được nhu cầu đang tăng nhanh của người
tiêu dùng, đặc biệt là người tiêu dùng có thu nhập cao ở thành phố, khu công
nghiệp.
2.2. Góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản:
Nông sản nếu không qua chế biến thì không thể vận chuyển đi xa, thời
gian tiêu thụ ngắn, không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của dân cư ở những
vùng khác nhau. Nhờ công nghiệp chế biến mà nông sản được vận chuyển dễ

dàng hơn cũng như được cất trữ để bán trên thị trường lúc trái vụ, điều này
khắc phục được điểm yếu của hàng hóa nông nghiệp là mang tính thời vụ cao.
Đồng thời công nghiệp chế biến cũng góp phần làm tăng xuẩt khẩu
nông sản. Nếu chỉ xuất khẩu dưới dạng thô, sơ chế thì không thể cạnh tranh
được với các nước khác, nhất là các nước trong khu vực. Chính vì vậy phát
triển công nghiệp chế biến đẻ phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, mở rộng thị
trường là rất cần thiết và cấp bách.
2.3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp,
phát triển sản xuất nông sản hàng hóa và hình thành vùng
chuyên canh quy mô lớn:
Nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phải tập trung, đồng nhất thì chế
biến mới đạt hiệu quả cao. Việc phát triển chế biến sản phẩm nào là do nắm
bắt thị trường cho nên sản xuất nông nghiệp sẽ thay đổi để đáp ứng nhu cầu
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguyên liệu của công nghiệp chế biến. Khi xây dựng nhà máy chế biến thì vấn
đề thì vấn đề đầu tiên là phải xây dựng được vùng nguyên liệu chon chế biến
để có quy mô, công nghệ hợp lý. Quy mô, tốc độ phát triển của chế biến nông
sản phụ thuộc vào trình độ, tính chất phát triển của sản xuất nông nghiệp mặt
khác nhờ sự phát triển chế biến nông sản mà xuất khẩu nông nghiệp sẽ phát
triển theo hướng chuyên canh có năng suất cao, tỷ suất hàng hóa lớn, hiệu quả
kinh tế cao.
Công nghiệp chế biến còn có vai trò to lớn trong việc chuyển dich cơ
cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng phát triển mạnh, vững chắc có
hiệu quả, công nghiệp-dịch vụ ở nông thôn tăng nhanh ngành này trong cơ
cấu nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ. Trong nội bộ ngành nông nghiệp
cũng bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với công nghiệp chế biến theo
hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, giảm tỷ trọng ngành trồng trọt và trong
nội bộ ngành trồng trọt thì giảm tỷ trọng cây lương thực, tăng tỷ trọng cây
công nghiệp, cây ăn quả…

2.4. Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động:
Công nghiệp chế biến tại chỗ trong nông nghiệp nông thôn góp phần
giải quyết nhu cầu việc làm cho lao động nhàn rỗi ở khu vực này. Chính công
nghiệp chế biến đã giải quyết tốt nạn di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành phố, đã
tạo việc làm cho hàng ngàn lao đông thất nghiệp và bán thất nghiệp ở nông
thôn. Chế biến nông sản vừa làm tăng giá trị vừa tăng giá trị sử dụng và cũng
làm tăng thu nhập của người lao động. Ngành công nghiệp chế biến nếu phát
triển tương xứng với tiếm năng, lợi thế của ngành sản xuất nông nghiệp thì sẽ
thu hút được rất nhiều lao động nông thôn vốn rất dồi dào, giá lại rẻ mạt…
Chủ trương chính sách của nhà nước là phải tận dụng được ưu thế này bằng
cách tạo ra những ngành nghề mới ở nông thôn, giải quyết việc làm cho người
lao động với yêu cầu không cao, đào tạo cơ bản ít tốn kém như các ngành chế
biến nông sản, chế biến hải sản đông lạnh…
2.5. Một số vai trò khác:
Bên cạnh những vai trò đã đề cập ở trên, chế biến nông sản còn có
nhiều vai trò quan trọng khác. Nó tác động mạnh đến sự phát triển của nhiều
ngành nghề kinh tế nhất là dịch vụ, nó ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh
tế- xã hội của người nông dân. Khi công nghiệp chế biến được chú trọng ở
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nông thôn thì cơ sở hạ tầng sẽ được nâng cấp, trình độ dân trí sẽ được cải
thiện một cách rõ nét…
3. Đặc điểm của ngành chế biến nông sản:
3.1. Ngành chế biến nông sản vừa mang tính độc lập vừa
mang tính phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp:
Hoạt động chế biến nông sản là hoạt động thuộc lĩnh vực công nghiệp,
được tiến hành theo quy trình công nghệ và dây chuyền sản xuất riêng với
những tiêu chuẩn kinh tế- kĩ thuật nghiêm ngặt của công nghiệp. Đặc điểm đó
chứng tỏ nó độc lập so với sản xuất nông nghiệp, cần phát huy lợi thế của
ngành độc lập để phát triển công nghiệp chế biến một cách vững chắc.

Tuy nhiên, nguyên liệu đầu vào cho ngành lại là các sản phẩm của ngành
nông nghiệp. Vì thế công nghiệp chế biến phải phù hợp với đặc điểm của sản
phẩm nông nghiệp, bị quy định bởi tính mùa vụ và quy mô của ngành nông
nghiệp, quy cách chất lượng nguyên liệu nông sản phẩm. Đây là mỗi quan hệ
hữu cơ lẫn nhau, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lớn, chất lượng
cao, đồng đều sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chế biến đạt hiệu quả tốt, ngược
lại chế biến phát triển sẽ là nơi tiêu nthụ sản phẩn đầu ra tốt nhất cho người
nông dân, giúp nông dân yên tâm sản xuất. Chế biến nông sản phụ thuộc vào
sản xuất nông nghiệp nên ta cần giải quyết tốt mối quan hệ này để cả hai cùng
phát triển.
3.2. Hoạt động của ngành chế biến nông sản thường không
hoàn toàn diễn ra trong phạm vi doanh nghiệp:
Đây là đặc điểm nổi bật của công nghiệp chế biến nông sản. Đối tượng
phục vụ cho chế biến là các nông sản hàng hóa vì thế trong phạm vi doanh
nghiệp thường không thể đáp ứng được nhu cầu của nhà máy mà phải thu
gom từ nhiều doanh nghiệp khác, các hộ nông dân trên dịa bàn. Đặc điểm này
đòi hỏi việc tổ chức các ngành chế biến nông sản phải gắn với hoạt động của
doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác và của các hộ nông dân, hộ dân cư
trên địa bàn.
Bên cạnh đó vấn đề thu gom, vận chuyển cũng đóng vai trò hết sức
quan trọng, và cũng không ít khó khăn. Có khi là do nguyên liệu thô thu gom
ở các hộ nông dân thường nhỏ lẻ, khó kiểm soát, có khi là sản phẩm cồng
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kềnh, tươi sống, khó bảo quản chuyên chở xa…Chính vì vậy doanh nghiệp
chế biến nông sản cần phải chú trọng, không được xem nhẹ vấn đề này.
3.3. Ngành chế biến nông sản là một bộ phận cấu thành
quan trọng của cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp:
Chế biến là hoạt động tiếp tục quá trình sản xuất hàng hóa có sự đan
xen giữa các thành phần kinh tế và các tổ chức sản xuất kinh doanh. Phải lựa

chọn các sản phẩm có lợi thế so sánh để có chủ trương đầu tư đúng đắn cho
chế biến. Chế biến là một khâu trong chuỗi sản xuất- chế biến- tiêu thụ. Rõ
ràng nếu chế biến tốt sẽ tạo điều kiện tiêu thụ nhanh và sản xuất được nâng
lên. Chính vì vậy cần phải có sự phát triển công nghiệp chế biến sao cho
tương xứng với sự phát triển của nền nông nghiệp, có như thế mới đưa nền
nông nghiệp phát triển lên một tầm cao mới.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến công nghiệp chế
biến:
4.1. Nhóm nhân tố thị trường:
Thị trường là nhân tố quan trọng tác động lớn đến hầu hết các lĩnh vực
của chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay các cơ sở sản xuất kinh doanh
nông nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Tùy theo quy mô, trình độ chuyên môn
hóa, trình độ công nghệ… của từng loại cơ sở sản xuất kinh doanh mà ảnh
hưởng của thị trường có khác nhau. Mặc dù vậy, nhân tố thị trường có ảnh
hưởng rất lứn chi phối quá trình sản xuất kinh doanh của các cơ sở chế biến
nông sản nói riêng và kinh doanh nông nghiệp nói riêng. Có thể xét trên 3 yếu
tố sau đây của thị trường:
- Nhu cầu thị trường: Nhu cầu thị trường là yếu tố hang đầu cần tính đến
trong cư sở kinh doanh chế biến nông sản, nhu cầu thị trường chính là động
lực cho các cơ sở kinh doanh ra đời và phát triển. Cầu về nông sản chế biến
phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu dân cư ở các vùng, các khu vực. Về nguyên
lý, thu nhập của dân cư tăng lên thì cầu cũng tăng lên, song đối với sản phẩm
nông nghiệp, khi thu nhập của dân cư tăng lên thì cầu về hàng nông sản có thể
diễn ra theo chiều hướng tăng lên đối với các sản phẩm có nhu cầu thiết yếu
hàng ngày của dân cư và các sản phẩm cao cấp, đồng thời giảm đối với các
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sản phẩm kém phẩm chất và cấp thấp. Trong giai đoạn hiện nay, khi dân số
ngay một gia tăng về số lượng cũng như sự tăng thêm thu nhập của mỗi người

dân đòi hỏi một lượng lớn hơn số lượng hàng hóa nông sản đã qua chế biến.
Cơ cấu dân cư ở các vùng cũng có ảnh hưởng lớn đến cầu. Đối với vùng nông
thôn mà cư dân nông thôn là chủ yếu, phần lớn nhu cầu lương thực là tịa chỗ,
tự cung ứng, chính vì vậy các sản phẩm nông sản chế biến không được tiêu
dùng phổ biến. Còn đối với các vùng thành thị, nhu cầu về nông sản chế biến
ngày càng đòi hỏi số lượng lớn và chất lượng cao…
- Nguyên liệu chế biến: cũng là một vấn đề quan trọng cần quan tâm.
Khi xây dựng nhà máy chế biến một loại nông sản nào đó thì trước hết phải
xác định được vùng nguyên liệu cho nhà máy, khả năng cung cấp nguyên liệu
cho nhà máy. Những năm qua có những doanh nghiệp vì xem nhẹ yếu tố này
nên khi đi vào hoạt động thiếu nguyên liệu hoặc nguyên liệu không đảm bảo
yêu cầu dẫn đến tình trạng công suất nhà máy đạt rất thấp, hiệu quả kém, một
số nhà máy phải đóng cửa vì thiếu nguyên liệu. Việc xây dựng các vùng
nguyên liệu tập trung cho chế biến công nghiệp vẫn tiến hành chậm. Hiệu quả
của một số ngành công nghiệp chế biến nông sản còn thấp (mía đường, rau
quả). Nhiều nhà máy chưa chủ động xây dựng vùng nguyên liệu đảm bảo đủ
cho chế biến. Việc xây dựng nhà máy chế biến và phát triển vùng nguyên liệu
còn chưa đồng bộ. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng (đường xá, thủy lợi...) chưa theo
kịp với việc xây dựng nhà máy chế biến. Sản xuất nông nghiệp lệ thuộc vào
điều kiện tự nhiên nên nguyên liệu không phải bao giờ cũng như ý muốn mà
phải dự kiến đến những rủi ro do yếu tố khách quan mang lại. Trong một số
trường hợp còn xảy ra hiện tượng phát triển ngành chế biến nông-lâm-thuỷ
sản theo phong trào (đường, tôm, cà phê, tinh bột sắn...), nên hiệu quả không
những thấp, mà đôi khi còn gây nên những thiệt hại lớn đối với bà con nông
dân và Nhà nước. Tính mùa vụ của sản xuất nông nghiệp dẫn đến tính mùa vụ
trong chế biến nông sản. Để khắc phục những nhược điểm đó ta cần xây dựng
nhà máy chế biến một số loại nông sản xen kẽ nhau hoặc sử dụng máy móc đa
chức năng, chẳng hạn nhà máy đường lúc trái vụ có thể chế biến xen kẽ một
số sản rau quả khác.
Chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm chế

biến, nguyên liệu tốt sẽ có điều kiện tạo ra sản phẩm tốt, còn nguyên liệu kém
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thì không thể tạo ra được sản phẩm chất lượng cao. Để có nguyên liệu tốt cần
có giống, vật tư kỹ thuật tốt, nhà máy chế biến cần cung cấp cho người sản
xuất nông nghiệp những yếu tố đó để họ yên tâm sản xuất vì đã có nơi tiêu
thụ đầu ra ổn định.
- Giá cả là một yếu tố quan trọng, là thước đo sự cân bằng cung- cầu
trong nền kinh tế thị trường. Giá cả tăng cho thấy sản phẩm đó đang khan
hiếm, cầu lớn hơn cung và ngược lại. Đối với nông sản chế biến thì khi thu
nhập tăng sẽ có mức cầu càng tăng, đồng thời nông sản qua chế biến thường
tăng về giá trị, chính vì vậy phải có mức giá hợp lý để có thị trường tiêu thụ
rộng hơn, với số lượng ngày càng tăng.
- Ngoài ra khi xem xét yêu cầu sản phẩm cũng phải tính đến những thị
hiếu, tập quán và thói quen tiêu dùng của cư dân.
4.2. Nhóm nhân tố về cơ sở vật chất- kỹ thuật và công nghệ:
- Các nhân tố về cơ sở vật chất- kỹ thuật bao gồm hệ thống cơ sở hạ
tầng như đường sá giao thông, phương tiện vận tải, hệ thống bến cảng kho
bãi, hệ thống thông tin liên lạc… Hệ thống này đóng vai trò quan trọng trong
việc lưu thông nhanh chóng kịp thời, đảm bảo an toàn cho việc tiêu thụ sản
phẩm, cũng như việc vận chuyển nguyên liệu kịp thời cho dây chuyền chế
biến.
- Các nhân tố về kĩ thuật và công nghệ và thiết bị chế biến: Tuỳ từng
loại đối tượng chế biến mà lựa chọn công nghệ và thiết bị cho phù hợp. Công
nghệ và thiết bị tốt sẽ cho ra sản phẩm có chất lượng cao, phế phẩm ít, mẫu
mã đẹp đáp ứng được nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của người tiêu dùng.
Nếu không sẽ dẫn đến tình trạng chất lượng sản phẩm không đảm bảo, năng
suất thấp, hiệu quả kinh tế không cao. Cần dựa vào yêu cầu, sự đòi hỏi của
người tiêu dùng về sản phẩm để trang bị những công nghệ phù hợp, những
sản phẩm xuất khẩu thì cần đầu tư công nghệ thiết bị hiện đại hơn. Khi lắp đặt

công nghệ phải đánh giá được công nghệ của nó, tránh tình trạng vừa đưa vào
sử dụng đã hỏng hóc hoặc lạc hậu gây tổn thất lớn. Công nghệ, thiết bị chế
biến không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm mà nó còn ảnh hưởng đến
giá thành sản xuất do đó cần có kế hoạch khấu hao hợp lý, giảm hao mòn vô
hình. Công nghệ thiết bị được xem là tối ưu khi nó có tuổi thọ cao, công suất
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lớn, cho ra sản phẩm có chất lượng tốt, ít hư hao và giá thành vừa phải. Để có
được những điều đó cần chú ý những điểm sau:
+ Thiết bị phải đồng bộ, đủ phụ tùng thay thế. Yêu cầu người đi mua
phải có hiểu biết về máy móc thiết bị.
+ Thuê chuyên gia để hướng dẫn cách sử dụng, sửa chữa đồng thời đào
tạo công nhân kỹ thuật để vận hành, bảo dưỡng và quản lý thiết bị để kéo dài
tuổi thọ, phát huy công suất tối đa với hiệu quả kinh tế cao nhất.
+ Có sự liên doanh liên kết hợp tác với nước ngoài để thu hút vốn đầu
tư, thiết bị công nghệ, phương pháp sản xuất tiên tiến vào việc phát triển
mạnh công nghệ chế biến nông sản ở nước ta.
+ Phải đánh giá, xem xét một cách toàn diện, sâu sắc để lựa chọn công
nghệ, thiết bị thích hợp nhất.
4.3. Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô:
Một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến phát triển công
nghiệp chế biến đó là nhân tố chính sách. Nếu chính sách đúng đắn, hợp lý sẽ
khuyến khích sản xuất phát triển, ngược lại chính sách sai lệch sẽ kìm hãm
sản xuất dẫn đến trì trệ. Chính sách ở đây bao gồm nhiều chính sách ảnh
hưởng trực tiếp đến công nghiệp chế biến và những chính sách ảnh hưởng đến
sản xuất nông nghiệp, đến thị trường… Có nhiều loại chính sách, thời gian
ban hành khác nhau nên dễ gây ra sự mâu thuẫn, chồng chéo và không đồng
bộ. Cho nên khi ban hành chính sách nhà nước phải xem xét, cân nhắc kỹ để
tránh gây ra hậu quả không mong muốn.
Những chính sách quan trọng ảnh hưởng tới công nghiệp chế biến:

- Chính sách đầu tư và tín dụng: Chính sách này sẽ định hướng, khuyến
khích phát triển ngành nào. Cần căn cứ vào chế biến loại nông sản gì để quy
định thời gian hoàn vốn, lãi xuất vay hợp lý. Chính sách này tạo điều kiện cho
người nông dân có điều kiên mở rộng vùng nguyên liệu, áp dụng những giống
cây con có năng suất cao, phẩm chất tốt vào sản xuất. Còn nhà máy chế biến
thì còn có điều kiện để tiếp cận công nghệ hiên đại, nâng cao năng suất chế
biến.
- Chính sách khoa học công nghệ: Việc thất thoát các sản phẩm nông-
lâm-nghiệp sau khi thu hoạch ở nước ta hiện chiếm tỉ lệ khá lớn, khoảng 10%
tống sản lượng thu hoạch, và thường do các khâu: Thu hoạch, vận chuyển và
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
công nghệ bảo quản. Chính vì vậy, chính sách khoa học công nghệ ưu tiên
nghiên cứu công nghệ chế biến và quy mô thích hợp đối với cả hai sản phẩm
thô và tinh có giá trị sử dụng trong nước và xuất khấu. Đồng thời nghiên cứu
vấn đề vệ sinh công nghiệp và mẫu mã bao bì. Nhanh chóng đưa các công
nghệ chế biến mới, thiết bị tiên tiến để đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng đầu ra
cho sản xuất nông nghiệp như: chiên chân không, sấy tầng sôi, sấy thăng hoa,
đóng gói chân không, nạp khí trơ, thực phẩm chế biến sẵn, thực phẩm ăn
liền… Thiết kế bổ sung một số khâu trong dây chuyền chế biến đường, đánh
bóng gạo, tách tấm, hoàn thiện công nghệ xay xát đã lạc hậu,nhập thiết bị
phân loại màu nhằm nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu; dây chuyền chế biến
thức ăn gia súc, dây chuyền chế biến chè, cà phê…Hiện đại hoá hệ thống
kiểm tra chất lượng nông sản, thực phẩm chế biến theo công nghệ tương hợp
với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực nhằm đáp ứng nhu cầu chất lượng hàng
xuất khẩu và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nước.
- Chính sách giá cả và vấn đề trợ giá: Giữa giá mua nguyên liệu và giá
sản phẩm chế biến có mối quan hệ với nhau. Nếu giá nguyên liệu rẻ thì giá
bán sản phẩm cơ bản sẽ không cao và ngược lại, thế nhưng nếu giá nguyên
liệu quá thấp người sản xuất nông nghiệp sẽ bị thua thiệt dẫn đến tình trạng

nhà máy thiếu nguyên liệu mà người nông dân không muốn thu hoạch vì
không dủ bù đắp chi phí. Nhà nước cần có chính sách để vừa khuyến khích
người sản xuất nông nghiệp vừa tạo điều kiện cho công nghiệp chế biến phát
triển.
- Chính sách thuế, chính sách xuất khẩu: Xuất khẩu là con đường mang
lại ngoại tệ để phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, nếu như chỉ xuất thô
thì hiệu quả không cao. Nhà nước cần đánh thuế cao vào những sản phẩm
xuất thô và quy định mức thuế thấp đối với sản phẩm tinh chế. Đó là điều
kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất phải đầu tư phát triển công nghiệp chế
biến nông sản, vừa giải quyết tốt cho lao động trong nước vừa mang lại hiệu
quả kinh tế cao.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5. Các chỉ tiêu đánh giá trình độ, kết quả và hiệu quả
chế biến nông sản:
5.1. Hệ thống chỉ tiêu các nhân tố:
5.1.1. Các chỉ tiêu khái quát:
- Tổng số vốn sản xuất (bao gồm vốn cố định và vốn lưu động). Chỉ tiêu
này phản ánh đầy đủ nhất tư liệu sản xuất và lao động ứng trước. Ưu việt của
vốn sản xuất biểu hiện chủ yếu ở sự tập trung hoá đầy đủ nhất các nhân tố và
điều kiện vào quá trình sản xuất. Khuynh hướng chunh trong việc thay đổi các
nhân tố của vốn sản xuất thông thường là sự tăng lên của vốn lưu động trên
với việc hạ thấp chi phí lao động sống và thù lao lao động. Nhưng do các yếu
tố khác nhau cấu thành vốn sản xuất có chức năng khác nhau trong quá trình
sản xuất và tham gia không giống nhau trong việc tạo thành giá trị sản phẩm,
nên khi sử dụng chỉ tiêu này cần kèm theo chỉ tiêu khác để đảm bảo tính chất
toàn diện của quá trình chế biến nông sản.
- Tổng chi phí sản xuất (bao gồm chi phí thực tế về tư liệu sản xuất và
lao động). Chỉ tiêu này phản ánh đầy đủ nhất chi phí thực tế và nó có ý nghĩa
trực tiếp để tăng khối lượng sản phẩm. Thông qua chỉ tiêu này có thể so sánh

chính xác hơn kết quả thu được với chi phí đã tiêu hao, từ đó xác định được
lượng tuyệt đối của kết quả sản xuất và hiệu quả kinh tế trong quá trình sản
xuất chế biến nông sản. Tuy nhiên chỉ tiêu này không phản ánh được toàn bộ
lượng vốn sản xuất ứng trước mà thiếu khoản này không thể nhận được kết
quả sản xuất. Vì thế khi sử dụng chỉ tiêu này phải đồng thới sử dụng chỉ tiêu
vốn sản xuất trên đơn vị diện tích.
5.1.2. Các chỉ tiêu bộ phận bao gồm:
- Tổng số vốn cố định: Nó biểu hiện dưới hình thức máy móc, công cụ,
các phương tiện giao thông… có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tăng
sản phẩm trên đơn vị diẹn tích và hạ thấp chi phí sản xuất. Chỉ tiêu này có ý
nghĩa trực tiếp đến việc nâng cao vốn trang bị lao động, năng suất sống và
hiệu quả sản xuất.
- Giá trị công cụ máy móc: Là bộ phận cấu thành trong vốn cố định,
máy móc có tác động trực tiếp đến việc hạ thấp chi phí lao động, đồng thời có
ảnh hưởng gián tiếp đến việc tăng khối lượng sản phẩm, thông qua việc tạo
12

×