Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích và đánh giá ưu nhược điểm việc thực thi chính sách lãi suất và chính sách tỉ giá của ngân hàng nông nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.53 KB, 14 trang )

Đề chẵn: Phân tích và đánh giá ưu nhược điểm việc thực thi chính
sách lãi suất và chính sách tỉ giá của NHNN VN trong giai đoạn
2007-2010. từ đó đưa ra những khuyến nghị về chính sách đối với
NHTW và chính phủ để ổn định hoạt động thị trường tài chính và
NHTM.
Lời mở đầu:
Bối cảnh nền kinh tế thế giới giai đoạn 2007 - 2010 có nhiều biến
động, bắt đầu bằng cuộc khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ, kéo theo sự
đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng
sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế
giới. Nền kinh tế Việt Nam cũng bị chịu không ít những khó khăn trong
cuộc khủng hoảng này như: Giá cả tăng cao, lạm phát cao, thất nghiệp,
gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân.
Trong những năm 2007-2010, Chính phủ và NHNN Việt Nam đã
rất nỗ lực trong công cuộc ổn định nền kinh tế vĩ mô bằng các công cụ
của chính sách tiền tệ. Có thể nói, trong chính sách kinh tế vĩ mô của
Nhà nước thì chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương đóng vai trò
rất quang trọng, đặc biệt chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá - đây là
những chính sách rất nhạy cảm đối với nền kinh tế.
1.1 Phân tích việc thực thi chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá
của NHNN Việt Nam trong giai đoạn 2007-2010
Từ năm 2007 đến nay, Việt Nam đã trải qua nhiều biến động của
nền kinh tế. Từ việc nền kinh tế đạt mức lạm phát cao kỷ lục trong vòng
gần 20 năm trở lại đây (năm 2008 là gần 24%) tới sự suy giảm kinh tế
trầm trọng bởi khủng hoảng tài chính tại Mỹ và Châu Âu bởi “cho vay
dưới chuẩn”. Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn đã đẩy các quốc gia phát
triển rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng nhất từ sau cuộc “đại suy
thoái” 1929-1933, hầu hết các nền kinh tế phát triển (Mỹ, Nhật, Euro
zone... đều tăng trưởng âm). Thậm chí có một số quốc gia còn rơi vào bờ
vực phá sản như Iceland, Ukraina, Pakistan, Hi Lạp...Với những yếu tố
bất lợi đó đã làm cho Việt Nam cũng không thoát khỏi vòng xoáy của sự


suy giảm kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam suy giảm
mạnh, từ mức 8,48% năm 2007 xuống còn 6,52% năm 2008 và chỉ còn
5,32% năm 2009(1). Đây là mức suy thoái tồi tệ nhất của Việt Nam trong
hơn 10 năm trở lại đây.
Trước tình huống đó, NHNN đã có hàng loạt các biện pháp quyết
liệt và đúng đắn để ngăn ngừa suy thoái kinh tế và dần lấy lại đà phục
hồi cho nền kinh tế Việt Nam. Nhìn chung, trong khoảng thời gian 3
năm 2007-2009, NHNN đã có những biện pháp khá linh hoạt trong điều
1


hành CSTT từ “thắt chặt” trong khoảng thời gian 2007-2008 và “nới
lỏng” từ đầu năm 2009-nay.
Giai đoạn 2007-2008: Khủng hoảng, lạm phát cao
Năm 2007-2008 đánh dấu thời điểm lạm phát “phi mã” sau nhiều
năm tốc độ lạm phát ở mức “vừa phải”. Nguyên nhân của lạm phát có
thể do tổng cầu của nền kinh tế gia tăng; do các yếu tố chi phí đầu vào
tăng; cung tiền tăng quá mức và yếu tố tâm lý (lạm phát kỳ vọng). Trong
điều hành CSTT, việc sử dụng công cụ thị trường mở và tỷ giá hối đoái
đôi khi có những sai lầm không đáng có, làm cho mức độ lạm phát lại có
xu hướng tăng. Đặc biệt là trong năm 2008, do tỷ giá giữa USD/VND
xuống thấp kỷ lục bởi đồng USD giảm giá do ảnh hưởng bởi suy thoái
kinh tế ở Mỹ và việc FED cắt giảm lãi suất cơ bản đồng USD xuống
mức thấp nhất trong nhiều năm qua (có lúc xuống 0,25%) khiến cho việc
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam gặp nhiều khó khăn.
Diến biến tỷ giá VND/USD từ 2007-2009

Để khuyến khích xuất khẩu, NHNN đã quyết định mua vào hơn 7
tỷ USD, tương đương với việc “bơm” thêm hơn 112.000 tỷ VND vào
nền kinh tế làm cho lạm phát càng thêm trầm trọng. Biện pháp mua vào

7 tỷ USD có mặt tích cực đó là gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia (còn
đang ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực), đồng thời nâng giá
trị đồng USD nhằm khuyến khích nền kinh tế xuất khẩu qua đó tạo điều
kiện phát triển sản xuất trong nước, điều chỉnh giảm bội chi cán cân
thương mại. Mặc dù sau đó, NHNN đã thực hiện nghiệp vụ thị trường
mở (Open Market) để “hút"”tiền trở lại nhưng chỉ thu hồi được hơn
82.000 tỷ. Tuy nhiên, việc làm này vẫn làm gia tăng áp lực lớn về lạm
phát vì với một khối lượng tiền quá lớn đã được NHNN cung vào nền
kinh tế. Thời kỳ này, NHNN đã áp dụng hàng loại các biện pháp quyết
liệt cùng Chính phủ sử dụng CSTK nhằm kiềm chế lạm phát. NHNN đã
sử dụng đồng bộ các công cụ của CSTT như: lãi suất cơ bản (LSCB)
VND được tăng lên mức cao nhất trong nhiều năm qua (14%/năm), dự
2


trữ bắt buộc (DTBB) là 11%, giảm hạn mức cho vay đầu tư bất động sản
và chứng khoán ở mức không quá 20% vốn điều lệ hoặc không vượt quá
3% tổng dư nợ tín dụng, bắt buộc các TCTD mua 20.300 tỷ tín phiếu bắt
buộc có kỳ hạn 12 tháng với lãi suất chỉ có 7,58%/năm và không được
sử dụng để tái chiết khấu tại NHNN, thực hiện các phiên giao dịch thị
trường mở (OM-Open market) để “hút” tiền về.
Biểu đồ lãi suất cơ bản VND (%/năm)

Nguồn: NHNN Việt Nam
Biến động tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi VNĐ ngắn hạn (%)

Nguồn: NHNN Việt Nam
Giai đoạn từ cuối năm 2008 - 2009: Phục hồi sau khủng hoảng,
suy thoái
CSTT bao giờ cũng có độ trễ thời gian nhất định. Việc “thắt chặt”

tiền tệ mạnh tay của Chính phủ đã có tác dụng làm giảm lạm phát nhanh
nhưng cũng làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại vì luồng tiền
dành cho nhu cầu đầu tư, tiêu dùng giảm, lãi suất vay vốn quá cao làm
cho các doanh nghiệp không thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng,
hàng loạt doanh nghiệp vừa và nhỏ rơi vào tình trạng khó khăn, thậm chí
phá sản. Cùng với việc nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng tài
chính bắt nguồn từ Mỹ do “cho vay dưới chuẩn” trong lĩnh vực bất động
3


sản gây ra. Mỹ, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác rơi vào suy thoái khiến
cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá giảm, chu chuyển vốn đầu tư FDI, FII
giảm gây khó khăn cho việc xuất khẩu và nguồn vốn đầu tư vào Việt
Nam đã càng làm cho kinh tế nước ta rơi vào suy thoái trầm trọng hơn.
Vì vậy, cuối năm 2008 khi lạm phát có xu hướng “hãm phanh” thì cũng
là lúc NHNN quay lại thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Điều đó
thể hiện ở việc Chính phủ tiến hành thực hiện 5 nhóm giải pháp cấp
bách nhằm “ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm
bảo an sinh xã hội”. Trong đó kích cầu nền kinh tế là một trong những
giải pháp trọng tâm. Chính phủ đã dùng 9 tỷ USD cho gói kích cầu kinh
tế (đứng thứ 3 thế giới về tỷ trọng gói kích cầu/tổng GDP, chỉ sau Trung
Quốc và Malaixia) trong đó dành riêng 1 tỷ đô la (tương đương hơn 17
ngàn tỷ đồng) từ dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ giảm 4% lãi suất
vay vốn lưu động ngắn hạn cho doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân để
sản xuất, kinh doanh nhằm giảm giá thành hàng hoá và tạo việc làm.
Đây là cách làm khá độc đáo và sáng tạo, “rất Việt Nam” nhưng mang
lại hiệu quả khá cao. Sau đó, vào ngày 04/04/2009, Chính phủ tiếp tục
hỗ trợ 4% lãi suất và kéo dài thời hạn hỗ trợ đến hết năm 2011 cho các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân vay vốn trung dài hạn để đầu tư mới cho
sản xuất kinh doanh. Bằng việc hỗ trợ lãi suất, Chính phủ đã khuyến

khích tăng nhanh chóng nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp vốn đang
rất thiếu vốn sản xuất đồng thời mở đầu ra cho các NHTM vốn đang
trong tình trạng dư thừa vốn. Tính đến 12/11/2009, theo NHNN, tổng dự
nợ trong chương trình hỗ trợ lãi suất đã lên tới trên 414.460,21 tỷ đồng
trong đó DNNN vay 62.605,20 tỷ đồng, DN ngoài quốc doanh
285.290,27 tỷ đồng, hộ sản xuất 66.565,02 tỷ đồng. Chính phủ cũng
quyết định giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 30% số TNDN
của quý IV/2008 và cả năm 2009. Đối với 70% số thuế còn lại của năm
2009, các doanh nghiệp được giãn thời hạn nộp trong 9 tháng. Các đơn
vị sản xuất hàng xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản, dệt may, da giày, linh
kiện điện tử được áp dụng thời hạn giãn thuế tương tự. Để thúc đẩy xuất
khẩu, Chính phủ cũng đã quyết định giảm 50% thuế suất thuế GTGT từ
01/02/2009 đến 31/12/2009 đối với một số hàng hóa, dịch vụ; tạm hoàn
90% thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa thực xuất và hoàn tiếp 10%
khi có chứng từ thanh toán.
Từ tháng 10/2008, NHNN đã chuyển hướng điều hành chính sách tiền
tệ từ ”thắt chặt” sang ”nới lỏng” một cách thận trọng bằng các biện
pháp:
4


- Điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản giảm từ
13%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14%/năm xuống
7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống 5%/năm).
Diễn biến lãi suất huy động, cho vay bằng VND và lạm phát từ
2008-2009

Nguồn: NHNN Việt Nam
- Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống
3%; điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ để

hỗ trợ thanh khoản cho NHTM; điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ
bắt buộc từ 10%/năm xuống 1,2%/năm.
- Điều hành linh hoạt tỷ giá USD/VND (điều chỉnh tăng tỷ giá giao
dịch USD/VND bình quân thị trường liên ngân hàng, tăng biên độ tỷ giá
giữa VND với USD từ +3% lên +5% đối với giao dịch mua bán của các
NHTM); can thiệp mua bán ngoại tệ và thực hiện các biện pháp chống
đầu cơ ngoại tệ.
- Cho phép các TCTD được xin chiết khấu, tái chiết khấu và thanh
toán trước hạn 20.300 tỷ tín phiếu bắt buộc đã mua trước hạn. Thực hiện
các phiên giao dịch thị trường mở mua vào các GTCG nhằm cung thêm
vốn cho nền kinh tế thông qua các TCTD. NHNN tiến hành nghiệp vụ
bán ngoại tệ làm giảm tỷ giá để hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu thiết yếu đảm
bảo ổn định sản xuất và đời sống, điều hoà cung cầu ngoại tệ trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng...
Giai đoạn 2009 - 2010: Phát triển nóng trở lại của nền kinh tế
Với các gói kích cầu trong năm 2009, kinh tế của Việt Nam có sự
phục hồi nhanh chóng sau tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn phục hồi chậm chạp và trong nước
gặp phải nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng
tương đối cao:tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II là 6,4%, quý III
5


tăng lên 7,14% và dự đoán quý IV sẽ đạt 7,41%. Uớc tính GDP cả năm
2010 có thể tăng 6,7%, cao hơn nhiệm vụ kế hoạch (6,5%).

.
Kinh tế phục hồi là một nguyên nhân quan trọng trong việc thúc đẩy
đầu tư phát triển và tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao trở lại. Thật vậy, năm
2010 lạm phát có những diễn biến phức tạp. Từ đầu năm đến cuối tháng

8 chỉ số giá tiêu dùng diễn biến theo chiều hướng ổn định ở mức tương
đối thấp, trừ hai tháng đầu năm CPI ở mức cao do ảnh hưởng bởi những
tháng Tết. Tuy nhiên, lạm phát đã thực sự trở thành mối lo ngại từ tháng
9 khi CPI tăng bắt đầu xu hướng tăng cao.

Lạm phát và giá cả của năm 2010 tăng cao xuất phát từ nhiều
nguyên nhân. Trong đó sự điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản của ngân hàng
nhà nước và sự gia tăng lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại
ở những tháng cuối năm 2010 góp phần gây sức ép làm lạm phát tăng
trở lại.
NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt
nhằm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ - tín dụng hoạt
6


động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát
gia tăng những tháng cuối năm một cách hiệu quả. Theo đó, NHNN đã
duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8% trong
suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai
tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát.

Nguồn: NHNN
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo
quy luật thì trường, có sự quản lý của nhà nước, NHNN từng bước bỏ
các quy định rằng buộc về các loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể là
trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông
tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD
được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thoả thuận. Tuy
nhiên trong năm vừa qua, chính sách điều hành cũng như chính sách lãi
suất vẫn bị chi phối bởi chính sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn

từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những khó
khăn nhất định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi suất của
NHNN.
Tỷ giá
Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì
chính sách ổn định đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến
tỷ giá trong năm 2010 là khá phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh
nâng tỷ giá liên ngân hàng hai lần vào tháng 2 và tháng 10, khoảng cách
giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do luôn ở mức cao. Tỷ
giá chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do tới
10%. Đến cuối tháng 11 năm 2010, tỷ giá trên thị trường tự do đã đạt
mức 21.500 đồng/USD.

7


Hình 3 cho thấy về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị
trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng. Những bất ổn về tỷ giá
có nguyên nhân sâu xa từ những bất ổn về kinh tế vĩ mô đó là bội chi
cao, nhập siêu lớn và hiệu quả đầu tư công thấp… làm cho cầu ngoại tệ
luôn lớn hơn cung ngoại tệ. Bên cạnh đó hiện tượng đầu cơ và tâm lý
cũng gây áp lực mạnh mẽ lên tỷ giá. Những bất ổn trên thị trường ngoại
hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động
xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát
trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát
có xu hướng gia tăng và tính không ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi
hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được
mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ.
1.2. Khuyến nghị về chính sách đối với NHTW và chính phủ
Một trong những vấn đề của năm 2009, mặc dù đã có những giải

đáp cụ thể về chính sách điều hành song trong những tháng đầu năm
2010, vẫn nổi lên những vấn đề tranh luận xoay quanh việc điều hành
chính sách lãi suất của NHNN, đặc biệt là việc dỡ bỏ trần lãi suất huy
động có được thực hiện hay không đã gây ảnh hưởng không tích cực đến
sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
1.2.1. Kiến nghị về chính sách lãi suất:
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn NHTƯ của các
nước trên thế giới cũng như NHNN VN là ổn định giá trị đồng tiền của
quốc gia – thông qua việc kiểm soát lạm phát. Trong đó, lãi suất là một
trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của NHTƯ để
đạt được mục tiêu tôn chỉ đó.
8


Đối với các nền kinh tế thị trường chưa phát triển như VN, nhiều
quan hệ kinh tế chưa thực sự mang tính thị trường thì việc vận dụng các
nền tảng lý thuyết (điển hình như quy tắc Taylor - giúp cho một NHTƯ
xác định được các tỷ lệ lãi suất trong ngắn hạn khi các điều kiện kinh tế
thay đổi để đạt được hai mục tiêu là ổn định kinh tế trong ngắn hạn và
kiểm soát lạm phát trong dài hạn), để hoạch định chính sách lãi suất cần
có sự linh hoạt, bám sát mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội
cũng như các diễn biến thực tế của thị trường. Trong điều kiện như hiện
nay, để đạt được mục tiêu định hướng nêu trên, hoạch định chính lãi suất
của NHNN cần phải xem xét đến các yếu tố thực tế.
Thực trạng của nền kinh tế VN hiện nay đang phải đối mặt với áp
lực lạm phát và với sức phục hồi nền kinh tế còn thiếu vững chắc. Cho
đến thời điểm hiện nay có thể thấy hệ thống Ngân hàng VN đã có sự
phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng các công
nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị,
khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không

đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao. Xét trong hệ thống
các TCTD với 73 ngân hàng và 8 tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ có
một số ít NHTM có vốn điều lệ và tài sản lớn. Riêng khối NHTM nhà
nước (2 NHTM NN, 3 NHTM mà trong đó Nhà nước chiếm cổ phần chi
phối, 1 ngân hàng chính sách xã hội) vốn điều lệ đã chiếm 27,28% tổng
vốn điều lệ của cả khối, thị phần huy động vốn và cung ứng tín dụng
khoảng 60%. Mức chênh lệch trong chiếm lĩnh thị phần của một ngân
hàng lớn nhất với một ngân hàng lớn kế tiếp là tương đối lớn. Mức độ
lớn về vốn điều lệ và tài sản quyết định khả năng cạnh tranh của ngân
hàng.
Đối với những ngân hàng có vốn nhỏ vẫn có sức mạnh trong cạnh
tranh thị trường, song với một cấu trúc thị trường tồn tại nhiều NHTM
có vốn và thị phần thấp thường nảy sinh những hành vi hạn chế cạnh
tranh hay cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, với nhóm ngân hàng
lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống, những hành vi chi
phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác động
tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói
riêng.
Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động
trong năm 2008, và những biểu hiện của thị trường những tháng đầu
năm 2010 là sự biểu hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu lành
mạnh. Khi NHNN thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay
trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao, khoảng 18%.
9


Mức lãi suất này đã hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM
(mức tăng trưởng tín dụng quý 1 chỉ đạt 3,34%). Trong quý 1/2010, tăng
trưởng tín dụng không cao, nguồn vốn vay của các NHTM từ NHNN để
đáp ứng thanh khoản tăng, điều đó cho thấy vốn của các NHTM không

khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất huy động mà NHNN đã khuyến cáo
các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của Hiệp hội Ngân hàng là
10,5% và lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm bảo một
mức lãi suất thực hợp lý cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các
NHTM là vẫn đua nhau tăng mức lãi suất huy động cao hơn dưới nhiều
hình thức. Những hiện tượng này biểu hiện sự bất cập lớn của thị
trường, nếu không có những biện pháp ngăn chặn sẽ gây ra những bất ổn
của hệ thống ngân hàng, từ đó có thể gây ra khủng hoảng ngân hàng.
Trong cấu trúc thị trường hiện nay, còn có một đặc điểm ảnh
hưởng không nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần
tín dụng áp dụng mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Dư nợ tín dụng
của ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển chiếm khoảng
12,1% tổng dư nợ trong nền kinh tế... Ngoài các khoản vay áp dụng cơ
chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các
dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện
thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự
án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác
nữa... Các chính sách ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển
nền kinh tế hiện nay, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả
của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị
trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn
qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó.
Hướng tới tự do hóa lãi suất
Là một nền kinh tế USD hóa, lãi suất nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ
giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa
lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại tệ cộng (+) với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ
làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa nội tệ và ngoại tệ của các thành viên
trong thị trường. Điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực
lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng cũng phải giải quyết hài
hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên như một

điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt
chính sách khác (như yêu cầu các TCty lớn bán ngoại tệ cho NHNN,
điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, quy
định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các DN...) đã phải hướng tới sự
ổn định này.
10


Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT. Vì vậy mục tiêu theo
đuổi của chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của CSTT, quá
trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải
đảm bảo mục tiêu bao trùm của CSTT là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm
phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có
nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú
sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát
lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch
định chính sách lãi suất từng thời kỳ.
Trên nguyên tắc đó, trong năm 2010 hai vấn đề nổi lên mà chính
sách lãi suất cần hướng tới nhiều hơn. Đó là áp lực lạm phát gắn với hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, chính sách
này phải giải quyết được những mối quan hệ ràng buộc và bất cập hiện
nay trên thị trường tiền tệ, nhưng đồng thời cùng với các công cụ chính
sách khác thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. Do vậy, tự do hóa lãi
suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về
cơ bản tuân theo quy luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song với
thực trạng nền kinh tế đang phải đối mặt với những bất cập của thị
trường tiền tệ thì áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết,
và từng bước tạo dựng những điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi suất.
Trước mắt, phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được
lãi suất thị trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để

có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản
thân NHTƯ của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều
hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc
lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng.Vì vậy,
việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản – làm cơ sở định
hướng chuẩn cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là
một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.
Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi
suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay
qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi
suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên trên thị
trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm bảo
các mức lãi suất mục tiêu.
Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường
hiện nay làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh,
cũng như là diễn biến của lãi suất thực huy động có thể làm kỳ vọng lạm
11


phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì mức lãi suất trần trong giai đoạn
này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất.
Đồng thời trong thời gian này NHNN cũng sẽ tích cực hỗ trợ thanh
khoản đối với NHTM với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với
trước đây, hỗ trợ thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ và chỉ đạo
các NHTM nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và điều
chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế.
Tuy nhiên về lâu dài, khi các xu hướng đầu tư đã rõ nét, nền kinh
tế dần ổn định thì việc tháo dỡ trần lãi suất huy động cũng sẽ được thực
hiện nhằm tuân thủ các nguyên tắc trên con đường tự do hóa lãi suất đã
lựa chọn.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất, ổn định mặt bằng lãi
suất để kiểm soát lạm phát hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ
trước mắt và trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2010. Để thực
hiện nhiệm vụ đó, ngành ngân hàng đang triển khai những giải pháp ứng
phó kịp thời. Tuy nhiên để hỗ trợ cho các giải pháp ngắn hạn này có
hiệu quả, có cơ sở đầy đủ cho việc xây dựng các giải pháp điều hành
trong dài hạn, bên cạnh sự nỗ lực của toàn ngành ngân hàng, cũng rất
cần thiết phải có sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ và sự phối hợp chặt
chẽ của các bộ ngành hữu quan trong việc cơ cấu lại thị trường tài chính,
giảm dần cho vay với lãi suất ưu đãi, phát triển các thị trường nợ một
cách có hiệu quả, từ đó sẽ giảm bớt gánh nặng cho khu vực ngân hàng
trong việc cung cấp vốn phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế của
cả nước.
1.2.2.Một số kiến nghị về chính sách tỷ giá:
Một trong những điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng một cách
bền vững là sự ổn định sức mua của đồng tiền, hay nói cách khác là cần
sự ổn định tỷ giá và lạm phát vừa phải, thấp hơn tốc độ tăng trưởng
GDP. Muốn vậy, phải cung cấp đủ vốn và đúng địa chỉ cho nền kinh tế.
Hiện tại, các doanh nghiệp phải chấp nhận tiếp cận vốn với chi phí quá
cao, khiến cho việc đẩy mạnh sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ trở
nên khó khăn. Kết quả là giá thành sản phẩm luôn ở mức cao, dẫn đến
lạm phát cao. Trong điều kiện huy động vốn từ dân cư khó khăn như
hiện nay, Chính phủ cần phải chấp nhận (tạm thời) cung thêm tiền ra.
Người Việt Nam vẫn có thói quen tích trữ vàng và USD; và những
thói quen này đã tác động rất lớn tới sự biến động của tỷ giá. Theo thống
kê chưa đầy đủ hiện có hàng tỷ USD, hàng trăm tấn vàng trong dân.
Dòng vốn này một mặt bị lãng phí (do không tham gia vào việc thúc đẩy
kinh tế), lại tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế khi nó tham gia thị trường một
12



cách tự phát, không được kiểm soát. Để có thể điều hành chính sách tỷ
giá một cách chính xác, điều kiện cần là NHNN phải nắm được đầy đủ
thông tin và đủ sức kiểm soát toàn bộ thị trường ngoại hối. Muốn vậy,
phải hạn chế tối đa phần ngoại tệ và vàng tích trữ trong dân thông qua
việc gia tăng niềm tin cho đồng nội tệ. Một mặt cần khống chế trần lãi
suất huy động vàng và ngoại tệ. Mặt khác, nên minh bạch hóa tình trạng
ngoại hối của Việt Nam để người dân yên tâm rằng Chính phủ đủ sức
giữ giá đồng VND. Điều này sẽ khiến người dân yên tâm khi bán vàng
và ngoại tệ cho ngân hàng để lấy VND. Cuối cùng Chính phủ phải triển
khai bằng được chính sách “chỉ được mua hàng hóa và dịch vụ trên đất
nước Việt Nam bằng VND” và ngăn chặn hiệu quả việc buôn lậu qua
biên giới, qua đó giảm được phần cầu ngoại tệ trong dân
1.2.3. Kiến nghị về kết hợp chính sách lãi suất và tỷ giá:
Trong bối cảnh khủng hoàng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu, hầu hết các NHTW các nước phát triển đã thực hiện chính sách tiền
tệ mở rộng. Theo đó, các mức lãi suất chit đạo của NHTW các nước đã
giảm xuống mức rất thấp như: Euro là 1.25%, Nhật Bản xấp xỉ 0%,
Canada là 0.5%, …Sự nới lỏng của chính sách tiền tệ của các nước phát
triển không có ảnh hưởng lớn đến thị trường do đặc điểm kinh tế của các
nước này không bị đô la hóa và thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi. Song,
đối với các nước đang phát triển (như Việt Nam) thì việc nâng hay hạ lãi
suất phải xem xét tới yếu tố đô la hóa và chính sách tỷ giá đang áp dụng.
Việt Nam được coi là nền kinh tế đô la hóa, nên mối quan hệ giữa
lãi suất và tỷ giá trên thị trường trở nên nhạy cảm. Mối quan hệ này chủ
yếu qua phương trình kết hợp giữa tỷ giá hiện hành với tỷ giá kỳ vọng
và mức chênh lệch giữa mức lãi suất trong nước với mức lãi suất quốc
tế. Khi tỷ giá hiện tại và tỷ giá kỳ vọng không thay đổi, nhưng lãi suất
trong nước cao hơn lãi suất kỳ vọng, dòng vốn ngoại tệ sẽ chảy vào
trong nước, hoặc trên thị trường tiền tệ sẽ có sự dịch chuyển từ đồng nội

tệ sang đồng ngoại tệ.
Trong thời gian qua, chính sách tỷ giá của Việt Nam được đánh giá
là khá thành công. Tuy vậy, các nhà điều hành chính sách cần phải lựa
chọn một cơ chế tỷ giá như thế nào là hữu hiệu, đảm bảo sự ổn định của
khu vực tài chính và hạn chế các biến động xấu về vĩ mô, khuyến khích
các trao đổi thương mại và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Thực
tế trên thị trường Việt Nam hiện nay là tâm lý của các nhà đầu tư kỳ
vọng ở mức tỷ giá kỳ vọng cao hơn mức tỷ giá hiện tại. hiện tượng găm
giữ ngoại tệ đã và đang diễn ra càng gây áp lực giảm giá VNĐ, gây ra sự
khan hiếm ngoại tệ giả tạo và tiềm ẩn sự bất ổn trên thị trường ngoại hối.
13


Việc điều hành chính sách của NHNN, ngoài việc hướng tới các mục
tiêu đã đề ra cần phải đặt trong mối quan hệ với tỷ giá, mức lãi suất của
quốc tế. Điều này có nghĩa là việc xác định các mức lãi suất chủ đạo cần
phải được xem xét ở mức hợp lý vùa đạt được mục tiêu hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế vừa kiểm soát được lạm phát và đảm bảo mối quan hệ hài
hòa với tỷ giá dể giữ ổn định thi trường tài chính.

14



×