MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án..............................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án .........................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án .......................................................3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..............................................................3
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án ...........................................................4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án .................................................................4
7. Kết cấu của luận án .................................................................................................4
Chương 1 ....................................................................................................................5
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..........5
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo
đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân .......................................................5
1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giáo dục đạo đức, giáo dục đạo
đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân .......................................................9
1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp giáo dục đạo đức cho trẻ em
trong gia đình, gia đình nông dân..............................................................................16
1.4. Tình hình nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân
Ninh Bình ..................................................................................................................19
1.5. Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án ..............................23
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................23
Chương 2 ..................................................................................................................25
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM
TRONG GIA ĐÌNH NÔNG DÂN .........................................................................25
2.1. Giáo dục đạo đức cho trẻ em..............................................................................25
2.2. Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân ......................................54
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................61
Chương 3 ..................................................................................................................62
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH NÔNG DÂN
Ở NINH BÌNH HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
...................................................................................................................................62
3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình
nông dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay .........................................................................62
3.2. Thực trạng và nguyên nhân việc giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình
nông dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay .........................................................................73
3.3. Những vấn đề đặt ra trong giáo dục đạo đức cho trẻ em tại các gia đình nông
dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay ................................................................................102
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................107
Chương 4 ................................................................................................................108
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH NÔNG DÂN Ở NINH
BÌNH HIỆN NAY ..................................................................................................108
4.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách .............................................................108
4.2. Nhóm giải pháp dành cho gia đình và các bậc cha mẹ ....................................118
4.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực tự ý thức, tự hoàn thiện của trẻ em trong các
gia đình nông dân Ninh Bình hiện nay ...................................................................139
4.4. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức cho trẻ em ...................................................................................140
Tiểu kết chương 4 ..................................................................................................147
KẾT LUẬN ............................................................................................................149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................180
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Giáo dục đạo đức là đề tài được quan tâm nghiên cứu từ xa xưa. Trong đó, giáo
dục đạo đức cho trẻ em có vai trò quan trọng. Đạo đức trẻ em được hình thành, phát
triển từ tổng hòa các yếu tố như tự nhiên - xã hội, truyền thống - hiện đại, hiểu biết - ý
thức - hành vi… Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình là một môi trường đặc
biệt, bởi lẽ gia đình không chỉ là tổ ấm, là trường học đầu tiên, là cái nôi nuôi dưỡng
của mỗi người mà còn là tế bào của xã hội. Gần đây, gia đình không chỉ nổi lên như
một vấn đề quan trọng và cấp thiết của riêng Việt Nam mà nó còn đang được đặt ra với
các dân tộc trên toàn thế giới. Ở mọi nơi, mọi lúc, gia đình đều chứng tỏ sức mạnh của
nó. Nó không chỉ mang tính cấp thiết của hiện tại mà còn gắn liền với quá khứ và góp
phần quyết định đối với tương lai.
Ở nước ta hiện nay, hơn 70% dân số là nông dân. Bởi vậy, gia đình nông dân có
vai trò là cầu nối cung cấp cho xã hội những thế hệ công dân tương lai. Do đó, việc
giáo dục trẻ em trong các gia đình nông dân có tầm quan trọng đặc biệt, ảnh hưởng tới
chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước mai sau.
Tuy nhiên, trong các gia đình nông dân hiện nay đang nổi lên nhiều vấn đề đáng
báo động. Nhiều bậc cha mẹ suốt ngày bận bịu với công việc đồng áng mà cuộc sống
vẫn khó khăn, không ít người phải lao vào kiếm tiền nên buông lỏng việc giáo dục con
cái. Họ ỉ lại vào ông bà, nhà trường và xã hội nên trẻ em trong các gia đình này có
nhiều biểu hiện lệch lạc về đạo đức, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hình thành
nhân cách như: không tôn trọng ông bà, cha mẹ, những người lớn tuổi; tự ý bỏ học mà
cha mẹ không hay biết; vô ý thức, không tôn trọng kỷ luật, nhiều em có hành vi nguy
hiểm cho xã hội, sa ngã vào các tệ nạn như ma túy, cờ bạc, giết người, cướp của...
Nhiều ổ nhóm tội phạm bị bắt giữ khi độ tuổi của các “thành viên” chưa tròn 16. Dư
luận không khỏi bàng hoàng trước những vụ giết người man rợ mà tội phạm là “trẻ
con” như vụ án Lê Văn Luyện giết người ở tiệm vàng Ngọc Bích… Thậm chí, nhiều
người còn cho rằng tội phạm ngày nay đang “trẻ hóa”, trẻ em đang trở thành “mồi
ngon” của tội phạm. Theo báo cáo thống kê tình hình phạm tội trong lứa tuổi chưa
thành niên trong 5 năm, giai đoạn từ (2006 đến 2010) cả nước có gần 500.000 vụ
2
với gần 76.000 em vi phạm pháp luật, tăng hơn 3.000 vụ so với 5 năm trước đó.
Điều đáng lưu tâm là 40,9% trẻ em phạm tội là những em có hoàn cảnh khó khăn,
bỏ học, lang thang, thiếu sự quan tâm của gia đình [152].
Ninh Bình là một trong những tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ nước ta. Thời gian
qua, đặc biệt là những năm gần đây, số trẻ em phạm tội có chiều hướng gia tăng. Theo
các báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện đề án IV “Đấu tranh phòng chống tội phạm xâm
hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên” của Công an tỉnh Ninh Bình từ
năm 2002 đến nay, toàn tỉnh phát hiện ngày càng nhiều vụ việc do đối tượng là người
chưa thành niên gây ra, đáng lo ngại là mức độ vi phạm ngày càng nghiêm trọng. Điều
này khiến cho không ít bậc làm cha, làm mẹ ở tỉnh Ninh Bình phải lo lắng.
Trẻ em vi phạm pháp luật ở tỉnh Ninh Bình ngày càng gia tăng do nhiều nguyên
nhân khác nhau, không loại trừ nguyên nhân chủ yếu từ phía gia đình, trong đó có gia
đình nông dân. Khi mà đời sống phải dựa vào kinh tế nông nghiệp là chính, các thành
viên của gia đình chủ yếu là giai cấp nông dân thì phần lớn thời gian phục vụ mục đích
mưu sinh. Đồng nghĩa với điều này là quỹ thời gian dành cho giáo dục trẻ em trong các
gia đình nông dân của tỉnh Ninh Bình bị thu hẹp. Không ít cha mẹ lo kiếm tiền để nuôi
con hơn là lo dạy con. Mặt khác, họ chưa được trang bị đầy đủ về những kiến thức cần
thiết về phương pháp dạy dỗ, những nội dung dạy dỗ phù hợp với từng lứa tuổi…
Đã đến lúc, chúng ta cần có sự nhìn nhận nghiêm túc hơn, đúng đắn, đầy đủ hơn
về công tác giáo dục đạo đức cho trẻ em ở nhiều cách tiếp cận khác nhau. Từ tất cả
những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các
gia đình nông dân ở Ninh Bình hiện nay”, với mong muốn đóng góp thêm vào sự
nghiệp “trồng người” bắt đầu từ môi trường giáo dục là các gia đình nông dân trên địa
bàn nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
- Mục đích
Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết, nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ em, luận án
phân tích thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân tỉnh Ninh
Bình; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục đạo đức
cho trẻ em trong các gia đình nông dân trên địa bàn tỉnh hiện nay.
3
- Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho trẻ em
+ Phân tích khái quát về gia đình và chức năng giáo dục đạo đức cho trẻ em của
gia đình
+ Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các
gia đình nông dân ở tỉnh Ninh Bình
+ Phân tích thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong giáo dục đạo
đức cho trẻ em tại các gia đình nông dân trên địa bản nghiên cứu
+ Phân tích yêu cầu và đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức cho trẻ em của các gia đình nông dân ở Ninh Bình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia
đình nông dân ở tỉnh Ninh Bình hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu về việc giáo dục đạo đức cho
trẻ Việt Nam dưới 16 tuổi, chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và lớp 10 trung học phổ
thông, đang sống trong các gia đình nông dân tại tỉnh Ninh Bình hiện nay.
+ Phạm vi không gian: Luận án tập trung nghiên cứu về việc giáo dục đạo đức
cho trẻ em trong các gia đình nông dân trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
+ Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu từ năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu, giải quyết các nhiệm vụ đề ra dựa trên quan điểm của triết
học và đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đạo đức, giáo dục đạo đức, các tài liệu tổng kết thực tiễn của
các cơ quan Đảng, Nhà nước, tỉnh Ninh Bình liên quan đến các nội dung trong luận án.
Đồng thời, luận án có sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa
học đã được công bố của các tác giả, hoặc tập thể tác giả ở trong và ngoài nước có liên
4
quan đến đề tài để góp phần làm sáng tỏ thực chất, ý nghĩa của giáo dục đạo đức cho
trẻ em trong gia đình nông dân nói chung, gia đình nông dân ở Ninh Bình nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chung của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp như:
lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, điều tra xã hội học…
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ bản chất và vai trò của giáo dục đạo đức cho trẻ
em trong gia đình nông dân.
- Luận án góp phần làm rõ sự cần thiết và những nội dung, phương pháp giáo
dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông dân.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình
nông dân ở Ninh Bình hiện nay, luận án nêu lên những luận cứ khoa học cho việc đề
xuất một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho trẻ em trong
gia đình nông dân trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình nông
dân.
- Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có ý nghĩa khuyến nghị trong vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các
gia đình nông dân Ninh Bình hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác
giả có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án
gồm 4 chương với 14 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo
đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân
Trên thế giới, nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu các vấn đề có liên
quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình.
Ở Liên Xô trước kia, các nhà khoa học đã quan tâm đến đạo đức, giáo dục
đạo đức cho trẻ em trong gia đình với những tác phẩm tiêu biểu như: “Nguyên lý
đạo đức cộng sản” của A. Siskin, “Giáo dục đạo đức cho học sinh trong lao động
công ích” của Busơlya, 2 tác phẩm “Giáo dục trong gia đình Mác” và “Dạy con
yêu lao động” của tác giả I.A. Pê-trec-nhi-cô-va, “Đạo đức học” - 2 tập của
Bandzeladze…
Một trong những tác phẩm tiêu biểu là “Nguyên lý đạo đức cộng sản” của A.
Siskin (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1961). Tác giả cuốn sách đã xuất phát từ
quan niệm về thực chất của đạo đức theo chủ nghĩa Mác - Lênin để từ đó đi sâu
phân tích những khía cạnh cụ thể của giáo dục đạo đức. Ông cho rằng đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh một lĩnh vực riêng biệt. Nói đến đạo đức là
nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người
trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày và nó đã trở thành khuôn phép, quy tắc điều
chỉnh hành vi của mỗi con người sống trong xã hội. Với xuất phát điểm như vậy,
khi giáo dục đạo đức, theo tác giả, các chủ thể giáo dục phải nhận thức được đạo
đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng trên cơ sở kinh tế xã hội, cho nên nó
thay đổi theo cơ sở đã đẻ ra nó. Vì vậy, người giáo dục đạo đức cần căn cứ vào
những chế độ xã hội nhất định để giáo dục những giá trị đạo đức được xã hội đó
thừa nhận. Đây là một đóng góp quan trọng của tác giả. Đặc biệt, chương III của
cuốn sách đã đưa ra những nguyên tắc, khuôn phép của nền đạo đức cộng sản chủ
nghĩa, trong đó có chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo…
được xem như những chuẩn mực của con người ở xã hội đương thời và theo chúng
6
tôi, đó chính là những điều mà khi giáo dục đạo đức, các chủ thể của quá trình giáo
dục phải hết sức quan tâm.
Tác giả Busơlya với cuốn sách: “Giáo dục đạo đức cho học sinh trong lao
động công ích” (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1962) [21] đưa ra quan niệm của
mình về lao động như là cơ sở để làm điểm xuất phát cho những vấn đề cần chuyển
tải đến bạn đọc. Tác giả đề cập tới tác dụng của lao động là nền tảng cuộc sống của
con người. Bởi lẽ, các giá trị vật chất cũng như tinh thần được tạo ra trong lao động,
chính bản thân con người cũng được phát triển, hoàn thiện thêm về thể lực, trí lực
và đạo đức. Theo tác giả, lao động công ích được coi là một phương tiện giáo dục
đạo đức quan trọng nhất cho học sinh. Toàn bộ cuốn sách tập trung minh chứng cho
điều này và tác giả đã rất thành công trong việc đưa những quan niệm của mình về
cách thức giáo dục đạo đức cho đối tượng là các em học sinh, góp phần phổ biến
một phương pháp giáo dục đạo đức gắn với lao động phục vụ cộng đồng. Cuốn
sách đưa ra những minh họa trong thực tiễn hàng ngày ở các nước xô viết đương
thời để thuyết phục người đọc. Đây là nhưng kinh nghiệm quý báu mà các bậc cha
mẹ có thể tham khảo khi giáo dục đạo đức cho con cái trong gia đình của mình.
Từ góc nhìn của các nhà khoa học Trung Quốc, những vấn đề lý luận trong
xây dựng đạo đức, giáo dục đạo đức trong nền kinh tế thị trường đã được đề cập
tương đối rõ nét trong ấn phẩm: “Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường” (Thông tin khoa học xã hội - chuyên đề, 1996) của tập thể tác giả Zhao
Xiuyi, Dong Fangshuo, Ren Jiantao … [142]. Đáng chú ý là các tác giả cho rằng
trong xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc hiện nay, xây dựng đạo
đức là một nhiệm vụ quan trọng vì nó liên quan mật thiết đến đời sống tinh thần của
con người, không những thế giáo dục đạo đức cho con người mà nó còn là một
trong những nội dung hạt nhân của quá trình xây dựng nền văn minh tinh thần ở
một nước đang đi theo con đường xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc. Đồng thời,
giáo dục đạo đức cho con người là một trong những vấn đề mà đông đảo quần
chúng nhân dân ở Trung Quốc quan tâm nhất. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi
7
nghiên cứu của giới lý luận như nhiều người từng quan niệm. Tác phẩm đã tập
trung vào mối quan hệ giữa việc phát triển kinh tế thị trường với các ảnh hưởng của
nó tới các vấn đề thuộc về lĩnh vực đạo đức, thông qua đó, tập thể tác giả đưa ra
những nhận định về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho con người nói chung,
đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay ở đất nước Trung Quốc là hết sức cần thiết.
Như vậy, các nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu ở Trung Quốc, trong quá
trình cải cách cũng xuất hiện mối quan hệ phức tạp giữa kinh tế thị trường với luân
lý đạo đức, giữa mặt truyền thống và mặt hiện đại trong giáo dục đạo đức. Mặc dù
phức tạp và đa dạng như vậy nhưng tập thể tác giả cho rằng việc thực hiện các
chuẩn mực và quy phạm đạo đức diễn ra một cách tự giác, tự nguyện sau khi các
thành viên xã hội đã nhận thức đúng đắn về một nền đạo đức xã hội nhất định. Vì
thế, những người tham gia vào quá trình giáo dục đạo đức cần lưu tâm một điều là
không nên ép buộc người khác thực hiện hành vi đạo đức mà nên làm cho họ hiểu
những giá trị đạo đức để họ thực hiện hành vi đạo đức một cách tự nguyện. Có thể
nói, đấy là đóng góp quan trọng mà cuốn sách mang lại cho người đọc quan tâm tới
vấn đề giáo dục đạo đức.
Các tác giả đã xuất phát từ quan niệm về thực chất của đạo đức theo chủ
nghĩa Mác - Lênin để từ đó đi sâu phân tích những khía cạnh cụ thể của giáo dục
đạo đức. Nói đến đạo đức là nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ
nhất định giữa người với người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày và nó đã trở
thành khuôn phép, quy tắc điều chỉnh hành vi của mỗi con người sống trong xã hội.
Người giáo dục đạo đức cần căn cứ vào những chế độ xã hội nhất định để giáo dục
những giá trị đạo đức được xã hội đó thừa nhận.
Ở nước ta, từ trước đến nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu quan tâm đến
vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình và gia
đình nông dân.
Cuốn sách: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” do Nhà
xuất bản Khoa học xã hội ấn hành (1980) của tác giả Trần Văn Giàu [53] đã đưa lại
8
cho người đọc một cái nhìn khái quát về các giá trị đạo đức cơ bản của dân tộc ta
như yêu nước, cần cù, sáng tạo, anh dũng, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Theo
tác giả, Hồ Chủ tịch là người kết tinh của các giá trị truyền thống và đạo đức cách
mạng Việt Nam, đồng thời cũng là người rất trọng đạo đức và giáo dục đạo đức.
Cuốn sách: “Tuổi thơ” (Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1985), của tác giả Trang
Thanh [114] là một cuốn nhật ký của chính tác giả viết về những kinh nghiệm của bản
thân trong quá trình nuôi dưỡng, giáo dục con cái tại gia đình. Những năm tháng đầu
tiên của tuổi thơ là khoảng thời gian xây dựng nền tảng cho toàn bộ quá trình phát triển
thể lực và trí lực của con người tương lai. Như vậy, tác giả đã cung cấp cho người đọc
những kinh nghiệm thực tiễn quý báu, góp thêm tiếng nói vào việc giáo dục đạo đức
cho trẻ em có hiệu quả hơn.
Trần Hậu Kiêm, Đoàn Đức Hiếu (2004) trong cuốn sách: “Hệ thống phạm trù
đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội) [77] các tác giả đi sâu phân tích hệ thống các phạm trù cơ bản của đạo đức học
như vấn đề lẽ sống, hạnh phúc, danh dự, lương tâm, thiện, ác… với tư cách là những
phạm trù luôn được thể hiện rõ nét ở cách hành xử của mỗi cá nhân trong cuộc sống
thường ngày.
“Đạo đức và phương pháp giáo dục đạo đức” do Nguyễn Hữu Hợp chủ biên
(Nhà xuất bản Giáo dục, 2010) [68] tập trung nghiên cứu sâu các phương pháp giáo
dục đạo đức cho từng nội dung cụ thể.
Tác giả Thích Minh Hòa (2011) trong cuốn sách: “Ý nghĩa giáo dục đạo đức”
(Nhà xuất bản Văn hóa nghệ thuật, Thành phố Hồ Chí Minh) [60] tiếp cận và trình bày
những ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức theo tinh thần của các pháp thế gian và theo
tinh thần của giáo lý Phật Đà.
Trên đây là những tài liệu có liên quan đến đạo đức, giáo dục đạo đức, giáo dục
đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân. Nhìn chung, các nghiên cứu đã
bàn luận xung quanh những vấn đề lý luận là chủ yếu. Tuy nhiên, tiếp cận vấn đề dưới
góc độ nghiên cứu ứng dụng vẫn còn cần tiếp tục khai thác và bổ sung.
9
1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giáo dục đạo đức, giáo
dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân
Ở nước ta, do đòi hỏi của thực tiễn, các công trình nghiên cứu về thực trạng giáo
dục đạo đức, giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân ngày càng
trở nên phong phú.
Một trong những đề tài cấp Nhà nước tiêu biểu là KX 07 - 09: “Vai trò của gia
đình trong sự hình thành phát triển nhân cách con người Việt Nam” của Trung tâm
nghiên cứu về gia đình và phụ nữ do GS. Lê Thi làm chủ nhiệm [118], được in ấn
thành sách: “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình”, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
phát hành năm 1994. Phần thứ nhất, các tác giả tập trung vào những vấn đề lý luận
chung về gia đình. Phần hai, các tác giả đi sâu phân tích chức năng giáo dục của gia
đình. Cuốn sách góp phần nêu lên một bức tranh tương đối toàn diện về vai trò của gia
đình, các thành viên trong gia đình với việc giáo dục thế hệ trẻ; những nội dung,
phương pháp giáo dục hiện nay cũng như sự ảnh hưởng của các môi trường giáo dục
khác đến giáo dục gia đình.
Luận án Tiến sĩ Triết học, đề tài: “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam” (1999) [101] của Trần Sĩ Phán đã tập trung
phân tích vai trò của giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong xu thế hội nhập hiện nay. Vì vậy, việc tập
trung nghiên cứu vai trò của giáo dục đạo đức cho lứa tuổi nhỏ hơn vẫn cần có sự đầu
tư hơn nữa, nhất là vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, bởi lẽ, đây là lứa
tuổi mà giáo dục gia đình sẽ quyết định tới sự hình thành nhân cách của trẻ ở giai đoạn
phát triển tiếp theo.
Nguyễn Văn Lý trong luận án Tiến sĩ Triết học (2000) với đề tài: “Kế thừa
và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay” [86] đặt ra vấn đề cấp thiết phải có những đổi mới
trong giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Theo tác giả, những nội dung các giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc ta rất phong phú, đa dạng, trong đó có yêu nước, nhân
ái, tinh thần đoàn kết cộng đồng, cần cù, tiết kiệm, khiêm tốn, giản dị, lạc quan,
10
thủy chung… là những nội dung cơ bản cần được giáo dục cho thế hệ trẻ. Bên cạnh
đó, luận án cũng đưa ra những vấn đề đạo đức hiện nay, mang hơi thở của thời đại
mà hàng ngày, hàng giờ chúng ta đang được tiếp xúc. Vấn đề mà tác giả đặt ra để
giải quyết là làm thế nào chúng ta vẫn giữ gìn được những nét tốt đẹp trong truyền
thống đạo đức đã có tự ngàn đời, đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh
hoa của xã hội hiện đại về lĩnh vực đạo đức. Tác giả khẳng định giáo dục phải quán
triệt trong cả ba môi trường là gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, gia đình,
nhà trường quan trọng đặc biệt, với điều kiện phát triển kinh tế như hiện nay, những
mặt tích cực, tiêu cực của xã hội đang dội vào cuộc sống của từng gia đình. Việc coi
trọng chức năng kinh tế của gia đình là rất cần thiết để tạo điều kiện cho việc thực
hiện các chức năng khác nhưng nhiều gia đình không chú trọng đến việc giáo dục,
tự giáo dục của các thành viên trong gia đình hoặc họ chú ý trí dục hơn đức dục.
Tác giả cũng đưa ra kết quả nghiên cứu có gia đình quan tâm đến giáo dục đạo đức
thì tỏ ra lúng túng trong triển khai nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức. Như
vậy, tác giả Nguyễn Văn Lý trong luận án tiến sĩ của mình đã tiếp cận, nghiên cứu
đề tài từ góc độ triết học, khẳng định trong bối cảnh hiện nay, đạo đức truyền thống
vẫn luôn là nền tảng để xây dựng đạo đức mới.
Trong luận án Tiến sĩ Triết học “Vai trò của đạo đức với sự hình thành nhân
cách con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay” (2000) tác giả Lê Thị
Thủy [122] cho rằng đạo đức với chức năng điều chỉnh hành vi của con người, chức
năng nhận thức, chức năng giáo dục, nó có vai trò quan trọng đối với sự hình thành
nhân cách con người Việt Nam. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đạo đức với quá trình
hình thành nhân cách của con người trong thời kỳ đổi mới ở nước ta.
Bài viết: “Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay và những
biến động trong lĩnh vực đạo đức” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn [25], đăng trên
Tạp chí Triết học số 9, tháng 12 - 2001. Tác giả đã phân tích mối quan hệ tác động
đan xem giữa những yếu tố thuộc về nền kinh tế thị trường với những vấn đề thuộc
11
về lĩnh vực đạo đức. Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng tất cả những biến động trong
lĩnh vực đạo đức ở các mức độ khác nhau đều liên quan tới sự biến động trong chế
độ kinh tế - xã hội. Vì vậy, để xây dựng một cách vững chắc các mối quan hệ đạo
đức và phẩm chất đạo đức lành mạnh trong điều kiện hiện nay ở nước ta thì phải kết
hợp những biện pháp mạnh của pháp luật với giáo dục đạo đức.
Luận án Tiến sĩ Triết học của tác giả Đỗ Tuyết Bảo (2001), đề tài: “Giáo dục
đạo đức cho học sinh trường Trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều
kiện đổi mới hiện nay” [13]. Tác giả luận án quan niệm giáo dục đạo đức là một trong
những điểm chủ yếu cốt lõi của nội dung giáo dục, nó giữ vị trí chủ đạo, xuyên suốt
toàn bộ quá trình giáo dục nhân cách để hình thành những phẩm chất cao đẹp của con
người. Chúng ta càng phải chú ý giáo dục đạo đức trong nhà trường phổ thông đối với
học sinh ở lứa tuổi thiếu niên, giúp các em xây dựng nền tảng vững chắc cho sự hình
thành, phát triển nhân cách của mình.
Tác giả Đỗ Tuyết Bảo cũng nhấn mạnh rằng sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang
đi vào chiều sâu trên mọi lĩnh vực, cơ chế thị trường, nền kinh tế nhiều thành phần
đang phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng mặt khác nó cũng
bộc lộ những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần, trong sự cảm thụ
văn hóa nghệ thuật cũng như trong tâm lý đạo đức của các tầng lớp dân cư. Những ảnh
hưởng tiêu cực đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ, làm sai lệch các chuẩn mực đạo
đức, dẫn tới suy thoái về đạo đức ở một bộ phận dân cư trong xã hội, ảnh hưởng xấu tới
nhân cách của thế hệ trẻ. Giáo dục đạo đức cho học sinh tại thành phố Hồ Chí Minh
trong điều kiện mới hiện nay được đặt ra trong khung cảnh và ý nghĩa xã hội đó.
Tác giả Lê Ngọc Anh (2002) trong bài viết: “Vấn đề giáo dục đạo đức và nếp
sống văn hóa gia đình truyền thống trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”
[6] đăng trên Tạp chí Triết học, số 1, tháng 1 - 2002 đề cập đến sự thay đổi của đạo đức
xã hội trong kinh tế thị trường. Quan niệm về sức mạnh của đồng tiền đã có ảnh hưởng
không nhỏ đến việc giáo dục các giá trị đạo đức nhân văn chân chính, giáo dục đạo lý
truyền thống trong gia đình. Trong bối cảnh đó, theo tác giả, gia đình vẫn mãi mãi là
cái nôi nuôi dưỡng, bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn cho con người từ lúc nhỏ đến lúc
12
trưởng thành. Gia đình là trường học đầu tiên giáo dưỡng nhân cách và lối sống có văn
hóa, có đạo lý cho con người. Gia giáo bao giờ cũng đi trước giáo dục xã hội. Vinh dự
và trách nhiệm của gia đình là cung cấp cho xã hội những công dân ưu tú cả về tài năng
lẫn đạo đức [6; tr. 20].
Bài viết: “Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường” của tác giả Nguyễn
Thị Khoa (2002) [76] đăng trên Tạp chí Triết học, số 4, tháng 4 - 2002 đề cập đến một
thực trạng đáng buồn là trong xã hội xuất hiện những hiện tượng coi thường giáo dục
gia đình xảy ra ngày càng nhiều. Hiện tượng buông lỏng giáo dục phẩm chất đạo đức,
cách ứng xử đúng đắn, tình nghĩa đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực, làm phá vỡ dần dần
những mối liên kết tinh thần của tổ ấm gia đình. Trước tình hình đó, tác giả nhận thấy
Nhà nước, cộng đồng, gia đình và mỗi cá nhân cần coi trọng việc xây dựng đạo đức gia
đình trên cơ sở kế thừa những quy tắc truyền thống như tôn kính, phụng dưỡng ông bà
cha mẹ, đề cao việc tu dưỡng bản thân… để góp phần xây dựng đạo đức xã hội [76; tr.
23].
Nguyễn Đức Mạnh (2002) trong luận án Tiến sĩ Xã hội học, đề tài: “Vai trò của
gia đình đối với việc giáo dục trẻ em hư ở thành phố: qua nghiên cứu ở thành phố Hà
Nội” [89] tập trung vào đối tượng là trẻ em hư ở thành phố. Giáo dục trẻ em hư là việc
làm khó khăn đối với nhiều gia đình. Tác giả đã nghiên cứu tìm tòi, điều tra xã hội học
và đi đến kết luận văn hóa gia đình có ý nghĩa to lớn. Những tính cách của các thành
viên trong gia đình chính là sản phẩm văn hóa trong gia đình mà họ đã tồn tại. Vì vậy,
một gia đình có môi trường văn hóa lành mạnh chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất tốt đến
tính cách sau này của con cháu.
Tác giả Lê Thị Hoài Thanh với công trình luận án Tiến sĩ Triết học (2003), đề
tài: “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho
thanh niên Việt Nam hiện nay” [112] đã làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa các yếu
tố truyền thống với các yếu tố hiện đại trong giáo dục đạo đức, tác giả chú ý phân tích
đặc điểm, xu hướng biến đổi về đạo đức của thanh niên nước ta hiện nay để tìm tòi ra
những vấn đề cần giải quyết. Tác giả đặc biệt chú ý đến việc chuyển tải các nội dung
chủ yếu thuộc về giá trị đạo đức truyền thống đến với thế hệ trẻ như: chủ nghĩa yêu
13
nước, lòng nhân ái, thương người, tinh thần đoàn kết cộng đồng, đức tính yêu lao động,
cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo, đức tính khiêm tốn,
giản dị, lạc quan… với mong muốn các em trên bước đường hội nhập, tiếp thu những
điều mới mẻ, hiện đại, đừng lãng quên những giá trị đạo đức tốt đẹp của cha ông đã
được hun đúc qua rất nhiều thế hệ trong lịch sử. Đây là một trong những nguồn tài liệu
quý báu để luận án làm cơ sở xây dựng tiêu chí đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức
cho trẻ em trong gia đình nông dân ở Ninh Bình.
Hoàng Bá Thịnh (2006) trong cuốn sách: “Biến đổi chức năng của gia đình và
giáo dục trẻ em hiện nay” (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội) [119] đã cho rằng
ngày nay, phương pháp giáo dục con cái theo kiểu độc đoán, áp đặt đã giảm, tính dân
chủ trong mối quan hệ gia đình được tôn trọng và đề cao hơn trước. Xuất phát từ nhận
định như vậy, tác giả tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của các chủ thể giáo dục trong
gia đình đối với sự phát triển của trẻ em nói chung và đạo đức trẻ em nói riêng. Tác giả
đem đến cho người đọc nhiều thông tin cho thấy cha mẹ có trình độ văn hóa thấp cũng
ảnh hưởng đến quá trình chăm sóc và giáo dục con cái. Một trong những biểu hiện rõ
nét là số liệu thống kê tư pháp cho thấy cứ 100 thanh thiếu niên phạm pháp thì 50%
trong số đó là có nguyên nhân từ việc gia đình buông lỏng quản lý, giáo dục thường
xuyên, dẫn đến uốn nắn những hành vi sai trái của con em mình không kịp thời, gây
nên hậu quả đáng buồn.
Tác giả Trịnh Duy Huy (2007) trong công trình luận án Tiến sĩ Triết học, đề tài:
“Vấn đề xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”
[69] tập trung phân tích những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, tác động của nó
đối với sự phát triển đạo đức, những chuẩn mực và thực trạng đạo đức của nước ta.
Trong thời gian gần đây, vấn đề giáo dục đạo đức tiếp tục được các học giả
nghiên cứu ở những khía cạnh cụ thể hơn với những đối tượng và địa bàn nghiên cứu
chuyên biệt hơn.
Tác giả Nguyễn Thị Thọ (2010) trong luận án Tiến sĩ Triết học, đề tài: “Đạo
đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” tập trung làm rõ tác
động của kinh tế thị trường đến đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay. Tác giả nhấn
14
mạnh khía cạnh giáo dục đạo đức, giáo dục nề nếp gia phong, gia lễ là quan trọng nhất
trong giáo dục gia đình, vì đạo đức là thành phần cốt lõi của nhân cách… giáo dục đạo
đức trong gia đình tạo nền tảng nhân cách cho con người vào đời, ở đời và làm người
[121; tr. 22]. Có thể nói, dưới góc độ triết học, đạo đức học, tác giả đã đưa ra được cái
nhìn tổng quát về đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta, tìm ra
những giải pháp mang tính định hướng trong việc xây dựng đạo đức gia đình.
Nguyễn Thị Tố Quyên trong luận án Tiến sĩ Xã hội học (2010), đề tài: “Vai trò
của gia đình trong giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi Trung học cơ sở ở Hà Nội
hiện nay” [110] đưa ra quan niệm giáo dục đạo đức gồm bốn nội dung cơ bản là giáo
dục giá trị đạo đức, giáo dục chuẩn mực đạo đức, giáo dục hành vi đạo đức và giáo dục
lý tưởng đạo đức. Tác giả luận án cũng đã phân tích đến các yếu tố ảnh hưởng như mức
sống của gia đình, tình trạng hôn nhân, số thành viên, số thế hệ trong gia đình, nghề
nghiệp, trình độ học vấn của cha mẹ, vị thế xã hội, tuổi tác… đến việc giáo dục đạo
đức cho học sinh Trung học cơ sở và địa bàn nghiên cứu mà tác giả thực hiện là thành
phố Hà Nội. Với sự phân tích của mình, tác giả đi đến khẳng định gia đình là môi
trường quan trọng bậc nhất của giáo dục đạo đức, là nơi bảo tồn những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc. Một xã hội muốn vững mạnh, một dân tộc muốn phát huy và
giữ gìn bản sắc của mình trước hết phải chăm lo xây dựng gia đình lành mạnh, trong đó
các giá trị đạo đức được nuôi dưỡng và phát triển [110; tr. 47]
Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu, tác giả đi đến nhận định về tầm quan trọng
của giáo dục gia đình là 15 năm đầu tiên trong cuộc đời một con người, gia đình chịu
trách nhiệm về con em mình 90.000 giờ, trong đó nhà trường phổ thông chỉ quản lý
con em chúng ta khoảng 15.000 giờ [110; tr. 32]
Tác giả Nguyễn Thị Tố Quyên đi sâu nghiên cứu vai trò của gia đình trong giáo
dục đạo đức cho trẻ em theo hướng tiếp cận xã hội học. Điểm đặc biệt của công trình
này là tìm hiểu, phân tích thái độ, hành vi tiếp nhận của con cái đối với giáo dục đạo
đức của cha mẹ trong gia đình. Qua khảo sát thực tế tại 2 khu vực là quận Ba Đình và
huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội, tác giả luận án nhận thấy là hầu hết các bậc phụ
huynh đều nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đạo đức trong gia đình đối với
15
sự hình thành, phát triển nhân cách của trẻ em. Tuy nhiên, do áp lực của công việc và
hoạt động kiếm sống nên nhiều bậc cha mẹ gặp phải khó khăn, thiếu thời gian quan
tâm chăm sóc, giáo dục con cái.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu, tác giả luận án đi đến kết luận chung rằng
trong một xã hội đang biến đổi, do hạn chế về tri thức, trình độ hiểu biết, kinh nghiệm
sống, phương pháp, kỹ năng giáo dục… vẫn còn một số lượng đáng kể các bậc cha mẹ
chưa làm tốt vai trò của mình trong việc thực hiện chức năng giáo dục con cái. Những
giá trị đạo đức quý báu của dân tộc như lòng hiếu thảo, nhân ái, yêu lao động, trung
thực… là những nội dung mà các phụ huynh tập trung giáo dục cho con cái trong gia
đình.
Ngô Thị Thu Ngà (2011) nghiên cứu đề tài: “Giá trị đạo đức truyền thống với
việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay” [98]. Trong luận án Tiến
sĩ Triết học này, tác giả đã phân tích tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức mới
cho thế hệ trẻ ở nước ta bối cảnh hiện nay, đặc biệt tập trung vào giáo dục những giá trị
đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta.
Liên quan đến đề tài còn có nhiều công trình như luận án Tiến sĩ Khoa học giáo
dục, đề tài: “Nghiên cứu thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức cho vận động viên
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” của tác giả Lê Ngọc Trung (2012) [126] cũng đề cập
đến giáo dục đạo đức nhưng hướng vào đối tượng vận động viên của nước ta là chủ
yếu. Hà Thị Kim Linh (2012) với luận án Tiến sĩ Giáo dục học đã tập trung nghiên cứu
đề tài: “Sử dụng trò chơi dân gian nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học miền
núi Đông bắc” [80] cũng đã đóng góp vào sự nghiệp giáo dục nói chung, giáo dục đạo
đức nói riêng.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục đạo đức, giáo
dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông dân trên đây đã giúp chúng ta
hình dung được một bức tranh tương đối đa dạng với nhiều nội dung, phương pháp
giáo dục khác nhau cho những thành viên của gia đình nói chung và trẻ em nói riêng.
Tuy nhiên, số lượng công trình nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng giáo dục đạo đức
cho trẻ em trong gia đình nông dân còn khá khiêm tốn, trong khi thực tế đang đặt ra
nhiều vấn đề bức xúc cần được sự quan tâm, sự chung tay góp sức của toàn xã hội.
16
1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp giáo dục đạo đức cho trẻ
em trong gia đình, gia đình nông dân
Trong tác phẩm “Nguyên lý đạo đức cộng sản”, tác giả A. Siskin không chỉ
dừng lại ở việc nêu, phân tích một số nội dung chủ yếu khi giáo dục đạo đức cho trẻ em
ở trong gia đình, còn đề cập đến phương pháp giáo dục như thế nào thì hiệu quả và như
thế nào là sai lầm. Tác giả đưa ra dẫn chứng về phương pháp dạy con theo kiểu nuông
chiều, đòi sao nghe vậy, mặc ý nghịch ngợm, không theo dõi, bảo ban, tha thứ đối với
những sai lầm nghiêm trọng của con cái, những thái độ đó rất dễ dẫn đến sai lầm. Nó
tiềm ẩn những nhân tố có thể làm hư hỏng trẻ em, làm cho chúng trở thành kẻ vị kỷ, trở
thành đứa trẻ lệch lạc về đạo đức. Ngược lại, lối giáo dục trẻ em chỉ dựa vào trừng
phạt, dọa nạt, roi vọt đánh mắng có nguy cơ tiềm ẩn là vùi dập trẻ em, biến các em
thành những người nhút nhát, sợ sệt, giả dối, a dua xu nịnh, lì lợm... Nguyên tắc tôn
trọng con người tới mức cao nhất là một trong những nguyên tắc rất quan trọng mà gia
đình Xô - viết dựa vào đó để tiến hành giáo dục đạo đức đúng đắn cho trẻ em [111; tr.
271]. Có thể nói, tác giả đã cung cấp cho người đọc một số điểm đáng lưu ý khi giáo
dục đạo đức phải căn cứ vào đối tượng giáo dục để có phương pháp hợp lý, mang lại
hiệu quả như mong muốn.
Cũng trong tác phẩm “Nguyên lý đạo đức cộng sản” tác giả còn đề cập đến
những cha mẹ giải quyết vấn đề giáo dục con cái theo quan điểm tiện cho cá nhân
mình, mà không nhớ rằng bản thân mình có trách nhiệm đối với xã hội. Theo tác giả,
khi cha mẹ chứng kiến những hành vi hư hỏng, xấu xa của con mình thì trước tiên phải
tự hỏi mình xem đã giáo dục con cái mình như thế nào. Điều này cũng có nghĩa là khi
sử dụng các phương pháp giáo dục, trong đó có việc nêu gương thì trước tiên, cha mẹ
với tư cách là các chủ thể giáo dục phải là những tấm gương sáng cho con cái họ noi
theo. Tác giả đưa ra ví dụ như những hành vi gương mẫu, uy tín đạo đức của cha mẹ,
quan hệ trong sạch giữa cha mẹ và con cái, việc tổ chức đúng đắn đời sống cá nhân, đời
sống chung trong gia đình… tất cả những cái đó thường xuyên có tác dụng lớn lao, có
thể nói vắn tắt là có tác dụng quyết định đối với việc giáo dục con cái trong gia đình.
Những người làm cha mẹ phải luôn luôn ghi nhớ mãi mãi rằng trách nhiệm lớn lao của
mình đối với xã hội là giáo dục người công dân tương lai cho đất nước, phải làm cho
17
con cái trở thành những người công dân trung thành với Tổ quốc. Người công dân ấy
phải có đầy lòng hăng hái, dũng cảm, cứng cỏi, quyết tâm khắc phục bất cứ một trở lực
nào, trung thành, thẳng thắn, thật thà. Các bậc cha mẹ phải làm tròn những nhiệm vụ
cao là trong giáo dục đạo đức cho con cái thì con cái mới biết ơn người làm cha làm
mẹ.
A. C. Ma-ca-ren-cô là nhà giáo dục nổi tiếng của Xô - viết trước đây đã dành
nhiều tâm huyết, năng lực và tình yêu cho con trẻ. Trong cuốn sách: “Nói chuyện về
giáo dục gia đình” (Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1978) [87] ông cho rằng giáo
dục con trẻ là việc làm lý thú, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho gia đình, nó không
khó khăn ghê gớm như nhiều người lầm tưởng. Cuốn sách khuyên các bậc cha mẹ phải
có tình yêu, trách nhiệm và kiến thức; giáo dục gia đình phải tiến hành ngay từ đầu, khi
các em còn nhỏ. Những nguyên lý giáo dục cũng như kinh nghiệm thực tiễn của tác giả
A. C. Ma-ca-ren-cô cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị.
Ngoài ra, từ trang 215 đến trang 227 của “Đạo đức học” - tập 2 (Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội, 1985) [11], Bandzeladze tập trung đề cập đến phương pháp nêu
gương của những người làm cha làm mẹ và tác dụng của phương pháp này. Trên cơ sở
phân tích cả về mặt lý thuyết lẫn những ví dụ thực tế, ông đưa ra nhận định rằng giáo
dục được những người có đức hạnh là một sự bảo đảm cho sự tiến bộ xã hội, đồng thời
đây cũng là một nguồn hạnh phúc cá nhân. Lớp trẻ được giáo dục tốt, đó là một sự đền
bù xứng đáng cho công lao của bố mẹ. Không phải chỉ có bố mẹ có nghĩa vụ với con,
ngược lại, con cũng có nghĩa vụ đối với bố mẹ [11; tr. 224]. Những quan niệm trên góp
phần vào việc giáo dục đạo đức đối với các thành viên trong gia đình đều phải quan
tâm chăm sóc lẫn nhau, tình cảm, trách nhiệm, nghĩa vụ đạo đức luôn đi liền với nhau,
biểu hiện ở nhiều góc độ với những chủ thể khác nhau, tránh tình trạng cha mẹ luôn là
người áp đặt việc thực hiện những hành vi đạo đức cho con cái và ngược lại.
Cuốn sách: “Những tình huống ứng xử trong gia đình” do Lê Minh chủ biên
(Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998) [95] đưa ra quan niệm đứa trẻ là thành viên
non nớt nhất, như một cái mầm cây vừa mới nhú, chưa thể một mình chống đỡ trước
bão táp, nhưng trẻ lại có một cơ thể đầy nhựa sống tiềm ẩn để phát triển. Tạo nhân cách
cho trẻ nhân cách cho trẻ ngay từ khi lọt lòng mẹ đến sau này là một khoa học và đòi
18
hỏi phải có nghệ thuật, trong đó, muốn giáo dục con có hiệu quả thì các thành viên phải
cùng nhau vun đắp tình yêu thương. Giáo dục đạo đức cho con cái trong gia đình bằng
tình cảm thương yêu của những người lớn tuổi, nhất là bố mẹ, dành cho con là một
trong những phương pháp được tác giả cho rằng có hiệu quả.
“Dạy con nên người” của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam - Thành phố Hà Nội
(2000) [62] cũng là một cuốn sách hay mà ở đó, các tác giả cung cấp những kiến thức
hết sức cần thiết về nội dung (trong đó có nội dung giáo dục đạo đức), phương pháp,
trách nhiệm của những người làm cha, làm mẹ khi giáo dục con cái trong gia đình của
mình, ở đó có những ví dụ minh họa cụ thể giúp các bậc cha mẹ dễ dàng hình dung và
đó là những tài liệu tham khảo hữu ích cho quá trình giáo dục con em mình.
Tác giả Phạm Minh Hạc chủ biên (2001) cuốn sách: “Về phát triển toàn diện
con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [55] vạch ra định hướng cơ bản xây
dựng đạo đức con người trong thời kỳ này là trau dồi hệ thống các chuẩn mực đạo đức
về những mối quan hệ sau: nhận thức chính trị - tư tưởng, sự tự hoàn thiện bản thân.
Tác giả Hồ Sỹ Vịnh trong bài viết: “Xây dựng bản lĩnh văn hóa Việt Nam để
thích nghi với xu thế toàn cầu hóa” được in ở cuốn sách: “Giá trị truyền thống trước
những thách thức của toàn cầu hóa” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002)
nhìn nhận vấn đề gia đình từ góc độ văn hóa. Ông cho rằng có sự mâu thuẫn giữa các
thành viên trong gia đình, đồng thời sẽ phải có những phương thức giải quyết thấu tình,
đạt lý, có sức thuyết phục, làm gương cho con cháu noi theo. Điều này có thể được bắt
đầu từ việc giáo dục cho các bậc làm cha, làm mẹ, đúng như Mác nói là người giáo dục
cũng cần được giáo dục. Đây không phải là quan niệm mới mẻ những không ít bậc phụ
huynh chưa ý thức sâu sắc về nó nên điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giáo
dục đạo đức trong môi trường gia đình.
Cuốn sách: “Dạy con nên người” do tác giả Hà Phương biên soạn, năm 2009
[104], tập trung nghiên cứu những cách thức giáo dục trẻ về tính độc lập, lòng bao
dung, lễ độ, tự tin… trong môi trường giáo dục là gia đình. Những ví dụ minh họa
được tác giả đưa ra hết sức cụ thể và thuyết phục.
19
Những công trình trên đã đưa ra nhiều tiếng nói khác nhau liên quan đến các
phương hướng, giải pháp giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình, gia đình nông
dân. Nhìn chung, các tác giả đã xuất phát từ việc phân tích thực trạng để rút ra
nguyên nhân, trên cơ sở đó có phương hướng giải quyết đúng đắn, giải pháp phù
hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Các công trình đã quan tâm lý giải, đưa
ra nhiều cách thức khác nhau để giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình sao cho
đạt hiệu quả cao. Hai đối tượng được quan tâm đề cập nhiều nhất khi nói về giải
pháp chính là chủ thể giáo dục (chủ yếu là cha mẹ) và khách thể giáo dục (trẻ em).
Tuy nhiên, nghiên cứu sâu về các phương hướng, giải pháp giáo dục đạo đức
cho trẻ em trong một loại gia đình nào đó như gia đình công nhân, gia đình nông dân,
gia đình trí thức… thì đây còn là mảng trống của lý luận và thực tiễn. Tìm hiểu việc
thực hiện chức năng giáo dục đạo đức cho trẻ em của gia đình nông dân tại một tỉnh là
Ninh Bình hiện nay vẫn là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu.
1.4. Tình hình nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân
Ninh Bình
“Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai”. Vì vậy, trẻ em phải được chăm sóc
trong điều kiện tốt nhất, đó không phải là nhiệm vụ của riêng các cấp hay các ngành
nào, mà chính là nhiệm vụ của toàn xã hội.
Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ được xem là một trong những chính sách ưu
tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước và địa phương trong việc đảm bảo an sinh xã
hội, vì mục tiêu phát triển ổn định, lâu dài của đất nước. Vì vậy, đã có nhiều văn
bản được đưa ra, đi vào thực tiễn cuộc sống để bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
tiêu biểu như:
Chỉ thị 20 - CT/TW ngày 5/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình
mới; Chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 - 2020; Công văn
số 1271/LĐTBXH-BVCSTE ngày 12/4/2013 của Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội về việc triển khai Tháng hành động vì trẻ em năm 2013, nhiều địa phương trên
cả nước đã xây dựng kế hoạch triển khai "Tháng hành động vì trẻ em" (1/6/2013 -
20
30/6/2013) với chủ đề: “Tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho trẻ em nghèo và trẻ em
dân tộc thiểu số". Chỉ thị 38/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII)
và Thông tri 04/TT-TW của Thường vụ Bộ chính trị về tăng cường lãnh đạo công
tác Bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em; Chỉ thị 06/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em; Thông tư liên tịch 121 giữa Uỷ ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam về
việc phối hợp hoạt động bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em trong cuộc vận động
"Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư". Nghị quyết Liên tịch số
01 giữa Bộ Công an và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam về tham gia “Quản lý giáo
dục con em trong gia đình không phạm tội và tệ nạn xã hội” giai đoạn 2008 - 2012.
Nhằm cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước, thực hiện
Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết từ năm 1990, thời gian
qua, các cấp, các ngành ở tỉnh Ninh Bình đã quan tâm ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo, triển khai công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; lồng ghép các mục tiêu
về trẻ em vào nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của địa
phương, qua đó tạo điều kiện để mọi chăm sóc toàn diện cho trẻ em về sức khỏe,
học tập, vui chơi giải trí, phát triển tài năng. Trên cơ sở văn bản của Trung ương,
của tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện và ủy ban nhân dân cấp xã đã ban hành nhiều
văn bản để hướng dẫn, chỉ đạo việc triển khai thực hiện luật và các chính sách về
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trên địa bàn.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền như ban hành các văn bản, in sách, tờ rơi,
loa đài truyền thanh, báo chí, truyền hình, pano, áp phích, khẩu hiệu, hội họp, diễn
đàn, tọa đàm…, nội dung Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em; Luật bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; 15 mục tiêu Chương trình hành động vì trẻ em; các
tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em, những nội dung phòng tránh tai nạn
thương tích, phòng ngừa xâm hại trẻ em... được phổ biến tới mọi người dân trong
tỉnh.
Công tác truyền thông, tuyên truyền, vận động được quan tâm đúng mức đã
góp phần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã
21
hội đối với công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, đóng góp vào việc thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh [153].
Ở tỉnh Ninh Bình, chưa có văn bản cụ thể về công tác giáo dục đạo đức cho
trẻ em trong gia đình nông dân. Những văn bản có liên quan đến vấn đề này là 102/
UBND - VP6 (18/5/2013) của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc hoạt động nhân ngày
gia đình Việt Nam 28/6; văn bản 19/ BC - UBND (1/3/2012) báo cáo tình hình đầu
tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn
2006 - 2011. Chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình số 13/2002 về việc triển
khai thực hiện nghị định 134/1999/ QĐ - TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt
chương trình hành động bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, giai đoạn 1999 - 2002.
Thông qua văn bản 20/ BC - UBND năm 2012, báo cáo tình hình thực hiện chương
trình hành động quốc gia vì trẻ em, Uỷ ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em Tỉnh phối hợp
với các ban, ngành, đoàn thể, Đài phát thanh truyền hình, Báo Ninh Bình tổ chức
tuyên truyền các quy định trong quyết định 134, các mục tiêu của chương trình hành
động góp phần đẩy mạnh sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các lực
lượng xã hội, các gia đình và mọi công dân đối với công tác bảo vệ chăm sóc trẻ
em.
Những năm qua, với sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền,
sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành, đoàn thể và sự ủng hộ của các tầng lớp
nhân dân, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em trên địa bàn tỉnh đã thực sự đi
vào cuộc sống. Công tác tuyên truyền được triển khai sâu rộng, đạt hiệu quả cao.
Thực hiện sự chỉ đạo của các cấp, các ngành, các phong trào thi đua diễn ra
sôi nổi, rộng khắp, tiêu biểu là: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây
dựng gia đình hạnh phúc”, “Nuôi con khoẻ, dạy con ngoan”, “xây dựng làng, xã, gia
đình văn hoá”, “Ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”… được đẩy mạnh, có sự
phối hợp tích cực giữa Hội Phụ nữ với ngành văn hoá, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể quần chúng nhân dân.
22
Nhìn chung, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của
các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội và toàn xã
hội mà trực tiếp là gia đình, nhà trường.
Trong các công trình nghiên cứu, các đề tài khoa học, các bài viết nêu trên, các
tác giả đã đứng ở nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau như tâm lý học, giáo dục học, xã
hội học, triết học, quản lý giáo dục… để cùng nhìn nhận, xem xét, đánh giá những vấn
đề có liên quan đến giáo dục đạo đức, gia đình và giáo dục đạo đức trong gia đình, giáo
dục đạo đức cho trẻ em. Vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình được nhiều
tác giả đề cập đến với tư cách là một nội dung chủ yếu của giáo dục gia đình. Điều này
có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành, phát triển nhân cách trẻ em.
Tựu chung lại, những tài liệu đã được công bố rộng rãi cung cấp cho người đọc
những cái nhìn tổng thể, bao quát giống như một bức tranh toàn cảnh những vấn đề
xung quanh việc làm rất có ý nghĩa là giáo dục đạo đức cho trẻ em tại gia đình.
Tuy nhiên, phần lớn những công trình nghiên cứu chủ yếu tiếp cận vấn đề ở
diện rộng, cũng có những công trình nghiên cứu công phu về giáo dục đạo đức cho đối
tượng là thế hệ trẻ nói chung, sinh viên Việt Nam, vận động viên, học sinh trung học cơ
sở sống trên địa bàn thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… nhưng bàn
về giáo dục đạo đức cho đối tượng trẻ em là con của gia đình nông dân, đặc biệt là
nghiên cứu đạo đức học vận dụng vào thực tiễn ở một tỉnh như Ninh Bình thì cho đến
nay vẫn còn là mảng trống của lý luận và thực tiễn. Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong
các gia đình nông dân ở Ninh Bình là vấn đề còn là vấn đề ít được quan tâm nghiên
cứu.
Chúng tôi nhận định rằng các tác giả đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau
xung quanh những biến đổi, những tác động của các yếu tố tới việc giáo dục đạo đức.
Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, mỗi công trình đề cập đến những khía cạnh khác
nhau. Song, chúng ta có thể thấy rằng, các nghiên cứu chuyên biệt về cách thức giáo
dục những giá trị đạo đức cho trẻ em vẫn cần được quan tâm thích đáng hơn nữa, bởi
các em chính là người chủ tương lai của quê hương, đất nước. Những công trình của
23
các tác giả đã được công bố với giá trị nhiều mặt của nó là tài liệu hết sức quý báu giúp
tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình nghiên cứu của mình.
1.5. Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề đặt
ra như sau:
Một là, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về giáo dục
đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân ở Ninh Bình.
Hai là, về phương diện lý luận, giáo dục đạo đức cho trẻ em có tầm quan trọng
đặc biệt, được cả nhân loại quan tâm. Điều này được thể hiện thông qua hoạt động của
các tổ chức quốc tế, nhưng ở mỗi nước, vấn đề trên được quan tâm ở nhiều mức độ
khác nhau. Vậy, làm thế nào để những tri thức lý luận về giáo dục đạo đức cho trẻ em
được đi vào thực tiễn cuộc sống là vấn đề được đặt ra, đòi hỏi sự quan tâm giải quyết
của các cấp, các ngành, các địa phương và sự chung tay của toàn xã hội.
Ba là, những đặc thù về kinh tế xã hội của các gia đình nông dân cũng như
những đặc thù của quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình đó cũng
đang là mảng trống, cần được tiếp tục khai thác, nghiên cứu sâu.
Bốn là, quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ em ở các gia đình nông dân tỉnh Ninh
Bình chịu tác động của những yếu tố nào, trong đó, yếu tố nào là chủ đạo? Đây cũng là
một vấn đề được đặt ra để giải quyết.
Năm là, Ninh Bình đã nỗ lực xây dựng và triển khai thực hiện nhiều chương
trình hành động để giáo dục đạo đức cho trẻ em. Vậy phương hướng cơ bản và những
giải pháp cụ thể nào được đưa ra để giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình
nông dân ở Ninh Bình mang lại hiệu quả cao?
Vì vậy, chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ hơn những vấn đề này trong luận án.
Tiểu kết chương 1
Vấn đề gia đình nói chung, giáo dục đạo đức trong gia đình nói riêng đã và đang
được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.
Thông qua việc đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở bốn nhóm
chính: Những nghiên cứu về giáo dục đạo đức; những nghiên cứu về gia đình và giáo