Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Chế định hợp đồng trong bộ luật hồng đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.74 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

BÀI TIỂU LUẬN MÔN

LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LỚP: 152LS05
NHÓM: 5.2
ĐỀ TÀI: Chế định hợp đồng trong BLHĐ và những điểm nhân
văn, tiến bộ (hợp đồng là gì? Điều kiện, hình thức, phân loại... Trong
số các nội dung này, nội dung nào thể hiện rõ nét tính nhân v ăn, ti ến
bộ? Tại sao chế định hợp đồng trong BLHĐ phát triển hơn so v ới các
giai đoạn phong kiến trước và sau nhà Lê sơ? Nhận xét, đánh giá.)

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM:
1


Mục lục:
I. Sơ lược về vua Lê Thánh Tông
II.

Chế định hợp đồng trong bộ luật Hồng Đức
1. Khái niệm
2. Điều kiện
3. Phân loại khế ước

III.

Nội dung thể hiện nét nhân văn, tiến bộ trong


chế định hợp đồng bộ luật Hồng Đức

IV.

Chế định hợp đồng trong bộ luật Hồng Đức phát triển hơn so
với các giai đoạn phong kiến khác trước và sau nhà Lê Sơ
1.Giai đoạn trước thời Lê Sơ
2.Giai đoạn sau Lê Sơ
3.Giai đoạn nhà Lê Sơ

V.

Nhìn chung, tổng kết

2


I.Sơ lược về vua Lê Thánh Tông:
Vua Lê Thánh Tông tên thật là Lê Tư Thành (còn có tên khác là Lê Hậu),
hiệu Thiên Nam động chủ, con thứ tư của vua Lê Thái Tông, mẹ là bà Ngô
Thị Ngọc Dao. Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442) tại nhà
ông ngoại ở khu đất chùa Huy Văn , Khâm Thiên, Hà Nội ngày nay.
Tên tuổi và sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông gắn chặt với một giai đoạn
phát triển cường thịnh của đất nước. Sách “Các triều đại Việt Nam” của tác
giả Quỳnh Cư- Đỗ Đức Hùng đánh giá về ông: “Là ông vua ở ngôi gần như
lâu nhất trong lịch sử Việt Nam (38 năm). Nhưng điều đáng nhớ không phải
vì ông ở ngôi lâu mà vì những đóng góp của triều vua này vào đời sống mọi
mặt của quốc gia Đại Việt cường thịnh thời đó”. Thời trẻ, Lê Thánh Tông
với thiên tư thông minh và rất chăm chỉ học hành thể hiện con người có chí
khí lớn. Việc lên ngôi vua của Lê Thánh Tông được sử sách ghi chép lại rất

rõ. Khi Lê Nghi Dân- ông vua cướp ngôi bị lật đổ, các vị quan đại thần trong
triều, đứng đầu là Nguyễn Xí, đều nhận định rằng Lê Tư Thành, thiên tư
sáng suốt, hùng tài đại lược thật xứng đáng làm vua. Họ đã đem xe kiệu đến
đón vua ở cung riêng (gọi là cung Gia Đế). Lê Thánh Tông lên làm vua năm
1460, hai lần đổi niên hiệu: Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (14701497). Trong gần 40 năm làm vua, ông đã đưa triều Lê phát triển tới đỉnh
cao về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, an ninh quốc phòng, văn hóa…
Nhờ sự ủng hộ sáng suốt, quyết liệt của nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh
Liệt..., Lê Thánh Tông đã bước lên ngai vàng giữa lúc triều chính nhà Lê
đang lục đục mâu thuẫn. Lên nắm chính quyền, Lê Thánh Tông quan tâm
nhất việc nội trị, an dân. Vua đã nhanh chóng chấm dứt tình trạng phe phái
trong cung đình, khẩn trương tổ chức xây dựng đất nước với một tinh thần
cải cách mạnh mẽ, táo bạo. Bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh
Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế
khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mở đồn
điền, khai khẩn đất hoang, cho đào kênh, khơi ngòi, mở mang đường xá, chợ
búa làm cho muôn dân được phát triển an lành.. Những nỗ lực nhằm xây
dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông đã được phản ánh khá rõ qua
các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban như: Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn
điền, Chiếu định quan chế...
Bộ luật Hồng Đức là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của sự
nghiệp Lê Thánh Tông và của cả thời đại ông. Dù là con vua nhưng Lê
Thánh Tông phải trải qua một tuổi thơ hết sức cơ cực mà tất cả các vị vua
trong lịch sử phong kiến Việt Nam không ai sánh bằng. Ông cùng mẹ mình
phải tha hương nhiều nơi, sống một cuộc sống của dân đen để né tránh sự
nhòm ngó của bọn quan nịnh thần. Tuy nhiên nhờ sống với dân, vất vả kiếm
3


từng bửa cơm, manh áo qua ngày mà Lê Thánh Tông mới thấu hiểu được sự
thống khổ, lầm than của xã hội bấy giờ. Từ đó ông hình thành nên nhiều ý

tưởng hết sức lớn lao để xây đựng đất nước, cứu rỗi người dân. Và sự ra đời
của bộ luật Hồng Đức mà ông ban hành sau này đã mang đậm những tư
tưởng nhân văn, tiến bộ; cũng như là một sự kiện đánh dấu trình độ văn
minh của xã hội Việt Nam thế kỉ XV. Lê Thánh Tông, người khởi xướng
luật Hồng Đức, cũng là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban
hành. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng: "Pháp luật là phép tắc
chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo".
Có thể nói, ông là một trong những ông vua của các triều đại phong kiến
nước Việt xưa có tình yêu và ý thức về chủ quyền biên giới, cũng như biển
đảo rất lớn, rất sâu sắc, rất đáng trân trọng, tự hào. Hơn thế nữa, vua Lê
Thánh Tông còn là một nhà văn hóa, nhà thơ lớn. Ông mất ngày 30 tháng
giêng năm Đinh Tỵ (1497). Mọi thế hệ người Việt Nam vẫn luôn luôn
ngưỡng mộ, tỏ lòng thành kính, biết ơn công lao của các vị tiền bối đã giữ
yên xã tắc sơn hà cho dân tộc; trong đó vua Lê Thánh Tông- một đấng vua
minh quân toàn tài mưu lược và đầy khí phách ở thế kỷ XV.
II.Chế định hợp đồng:
1.Khái niệm
1.Hợp đồng là gì ?
Pháp luật nhà Lê không định nghĩa hợp đồng nhưng lại quy định về điều
kiện, hình thức, nội dung cơ bản của hợp đồng … Mặc dù những quy định
này không có tính hệ thống nhưng nghiên cứu các văn bản pháp luật có liên
quan pháp luật nhà Lê cũng thể hiện nhiều quan niệm về hợp đồng. Dựa vào
những quy định đó có thể hiểu rằng, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
chủ thể về một giá trị tài sản nào đó khi đáp ứng được các điều kiện cơ bản
sau :
2.Điều kiện:
2.1 Thứ nhất:
Tài sản được giao kết phải thuộc quyền sở hữu của bên chuyển nhượng bất
kể khế ước đó là mua bán, cầm cố cho thuê, trao đổi… Theo Quốc triều thư
khế thể thức (mẫu 4,5,6,7,8...), khi đem tài sản để giao dịch, bên chuyển

nhượng phải ghi rõ trong hợp đồng: “Số ruộng đất, tài sản này là của tôi (ghi
tên của người chuyển nhượng ) và không liên quan đến người khác; nếu có
gì man trá tôi xin chịu tội”. Đây là điều khoản cứng (bắt buộc phải thể hiện
trong khế ước), thiếu nó khế ước không có giá trị.
2.2 Thứ hai :
4


Khế ước được ký kết trên cơ sở tự do tự nguyện nên pháp luật nghiêm cấm
mọi hành vi cưỡng bức, lừa dối, đe dọa hay có những hành vi khác trái với ý
chí của bên chuyển giao tài sản. Điều 638 quy định: ” Các quan cai quản
quân dân cùng nhà quyền quý mà sánh nhiễu vay mượn tài sản của dân trong
quản hạt ( nơi đang cai quản ) thì khép vào tội uổng pháp (lạm dụng quyền
lực), tài sản trả lại cho dân”; Điều 355 quy định :” người nào ức hiếp người
khác để mua ruộng đát để biếm hai tư, trả lại ruộng đất”. Hơn nữa, theo quốc
triều thư khế thể thức, để khế ước có giá trị nhất thiết các bên, nhất là bên
chuyển dịch tài sản phải ghi rõ sự “tự nguyện” của mình (mẫu số 5, số 7…),
đồng thời phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên.
Thông qua những quy định này, tính tự nguyện không chỉ phản ánh sự tự
nguyện của các bên mà còn cụ thể hóa bằng hành vi (ký, điểm chỉ).
2.3 Thứ ba:
Nội dung trong khế ước phải phù hợp với quy định của pháp luật. Pháp
luật không quy định một cánh rõ ràng như vậy nhưng qua một số điều luật
ràng buộc các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ không được trái với pháp
luật. Các điều 73,74,75,76… không cho phép mua bán, cầm cố, trao đổi tài
sản là vũ khí, sản vật quý hiếm( các loại sừng tê giác, ngà voi, trân châu…)
hay mua bán lương thực mắm muối, cho vay với người nước ngoài … Điều
587 quy định mức lãi xuất trong hợp đồng vay không quá 15 đồng tiền
kẽm/quan/tháng (một quan tiền bằng 600 đồng kẽm, nên mức lãi xuất cao
nhất không quá 2,5%/ tháng khi vay một quan tiền).

2.4 Thứ tư:
Hình thức của khế ước phải phù hợp với quy định của pháp luật. Điều 366
quy định: “Khi tập thể khế ước phải chờ quan trưởng trong làng viết hộ và
làm chứng, trừ trường hợp các bên biết chữ thì tự lập lấy “. Pháp luật nhà Lê
không quy định rõ trường hợp nào khế ước được ký kết bằng miệng hay
bằng văn bản (văn khế). Tuy nhiên, theo quy định trong Quốc triều thư khế
thể thức thì đối tượng của hợp đồng là ruộng đất, trâu bò, ngựa, thuyền be
hay văn khế vay mượn đều phải lập văn bản theo mẫu chung. Những đối
tượng khác của khế ước có thể được giao ước bằng miệng hay văn khế tùy
theo sự thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp như
mua bán nô tỳ, ngoài việc lập khế ước theo mẫu còn có sự xác lập nhận hay
cho phép của quan trong làng xã thì việc mua bán mới hợp pháp (Điều 363)
=> Tóm lại, pháp luật nhà Lê không đưa ra khái niệm cũng như điều kiện
của khế ước một cách hệ thống nhưng thông qua một số quy định nêu trên
cho thấy pháp luật có một số ràng buộc nhất định đối với các bên tham gia
khế ước theo những chuẩn mực, điều kiện cụ thể. Khi đó khế ước có giá trị
pháp lý và hiệu lực đối với các bên, được nhà nước đảm bảo thực hiện;
5


ngược lại pháp luật thường dùng cụm từ “ trả lại tài sản” nhằm không thừa
nhận một giao dịch nào đó, tức bị vô hiệu.
3.Phân loại khế ước :
-Căn cứ vào hình thức:
Có hai loại khế ước miệng ( tức khẩu ước ) và khế ước bằng văn bản (tức
văn khế). Theo quốc triều thư khế thể thức, một số loại hợp đông liên quan
đến ruộng đất, trâu bò (sức kéo), nhà cửa, tàu be bắt buộc phải lập văn bản.
Còn những đối tượng khác không được quy định trong tập văn bản này. Như
vậy, đối với những loại tài sản như lúa gạo, phân bón hay nhu yếu phẩm
hằng ngày có thể được giao kết bằng miệng .

-Căn cứ vào nội dung:
Có hai loại: Khế ước đoạn mại và khế ước điển mại. Đoạn (đứt) mại (bán)
nên đoạn mại là mua đứt bán đoạn, điển (ngắn,tạm thời) mại là mua bán tạm.
Pháp luật nhà Lê quy định loại khế ước khác nhau. Đối với loại khế ước mà
bên chủ sở hữu dịch chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác
được gọi là bán đứt, tức đoạn mại (điều 534, 383...); đối với loại khế ước
này, chủ sở hữu không dịch chuyển quyền sở hữu tài sản mà dịch chuyển
quyền chiếm hữu hoặc/ và quyền sử dụng cho bên kia trong một thời hạn
nhất định nên gọi là mua bán tạm (tức điển mại hay bán đợ ).
Pháp luật nhà Lê quy định rất nhiều loại hợp đồng: mua bán, trao đổi, cho
thuê, cho vay hoặc không có cầm cố,…Trong số đó, pháp luật dành nhiều
điều khoản hơn để quy định về hợp đồng vay có cầm cố ruộng đất với một
số nội dung sau:
Lãi suất: Điều 587 BLHĐ quy định mức lãi xuất không quá 15 tiền
kẽm/quan/tháng (mỗi quan bằng 600 tiền kẽm nên mức lãi xuất có thể hiểu
là cao nhất không quá 2,5 %/vốn/tháng). Như vậy, mức lãi xuất do các bên
tự thỏa thuận nhưng không được quá mức pháp luật quy định .
Thời hạn vay : do các bên thỏa thuận nhưng không được quá 20 năm(đối
với người ngoài) và 30 năm (đối với người có quan hệ hôn nhân, huyết
thống). Quá thời hạn nay, nếu bên đi vay không trả nợ thì mất số ruộng đất
cầm, người cho vay có quyền thanh lúy ruộng đất để thu hồi vốn và lãi
suất.Đối với ruộng lúa mùa, thời hạn chuộc lại ruộng đất cuối cùng là 15/3
và ruộng lúa chiêm là 15/9 (âm lịch hằng năm).
Nếu bên đi vay đã trả nợ nhưng người cho vay không trả lại tài sản đã cầm
thì tùy mức độ sẽ bị sử lý hình sự.
Với những quy định trên, có thể hiểu quan niệm của nhà làm luật về hợp
đồng vay như sau: hợp đồng vay là sự thỏa thuận giữa các bên , theo đó
người có tiền hoặc tài sản (bên cho vay) giao cho người vay (tức bên đi vay )
một khoản tiền hoặc tài sản trong một thời gian nhất định; hết thời hạn đó,
6



bên đi vay phải trả lại khoản tiền đã vay và lãi suất theo thảo thuận, trường
hợp bên cho vay có nhận cầm tài sản thì phải trả lại tài sản đó.
III.Nội dung thể hiện nét văn minh, tiến bộ:
Bộ luật Hồng Đức là một tên gọi khác của bộ Quốc triều hình luật (Lê
triều hình luật), đây là một công trình pháp luật tiêu biểu được nhà Hậu Lê
xây dựng, được coi là bộ luật nổi bật nhất, quan trọng nhất và có vai trò rất
đặc biệt nhất trong lịch sử pháp quyền phong kiến Việt Nam.
Mặc dù mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng bộ luật Hồng Đức lại
chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của
người dân, của tầng lớp dưới, của nô tì, người cô quả, tật … Nhiều quy định
của bộ luật tập chung bảo vệ người dân chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của
cường hào, quan lại. Đặc biệt bộ luật Hồng Đức còn có một số quy định bảo
vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, điều đó phản ánh
truyền thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy dân làm
gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc gia… Tính dân tộc thể hiện đậm nét
trong việc kế thừa và phát huy những thành tựu pháp luật của các triều đại
trước, kết hợp với những ưu điểm của pháp luật phong kiến Trung Hoa để
xây dựng lên một bộ luật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Bên cạnh đó Những điều kiện về chế định hợp đồng, phân loại hợp
đồng cũng được các nhà làm luật rất quan tâm đi sâu vào khai thác để tạo
nên bộ luật Hồng Đức mang những điểm tiến bộ, nhân đạo của pháp luật
thời Hậu Lê.
1. Những điều kiện tiến bộ trong chế định hợp đồng của Bộ luật Hồng Đức
về tài sản được giao kết phải thuộc quyền sở hữu của bên chuyển nhượng.
- Theo Quốc triều thư khế thể thức , khi đem tài sản để giao dịch, bên
chuyển nhượng phải ghi rỏ trong hợp đồng: “Số ruộng đất, tài sản này là
của tôi (ghi tên người chuyển nhượng ) và không liên quan đến người khác,
nếu có gì man trá tôi xin chịu tội” Đây là khoản cứng (bắt buộc phải thể hiện

trong hợp đồng), thiếu nó hợp đồng không có giá trị.
- Đối với bên nhận tài sản có thể là bất kỳ người nào. Tuy nhiên để bảo vệ
lợi ích công cộng hay bảo đảm ổn định kinh tế, an ninh quốc phòng, pháp
luật nghiêm cấm người Việt thực hiện giao dịch với người Trung Hoa( nhất
là người man Liêu ở biên giới phía Bắc Đại Việt)
=> Tóm lại, với các quy định trên ta thấy rằng vấn đề chủ sở hữu đối với
ruộng đất được nhà làm luật rất quan tâm, đặc biệt đối với tài sản thuộc sở
hữu nhà nước mà người đại diện là vua. Bên cạnh việc không thừa nhận
những hợp đồng như trên là hợp pháp, nhà làm luật còn quy định một số
7


biện pháp kem theo như: hình phạt, buộc bồi thường, sung công tài sản đó
… Như vậy, pháp luật bảo vệ một cách tuyệt đối quyền chủ sở hữu (bất kể
đó là công hữu hay tư hữu). Hơn nữa, pháp luật cũng bắt buộc người nhận
tài sản phải biết rõ nguồn gốc khối tài sản đó trước khi tham gia thiết lập hợp
đồng, nếu không sẽ bị vạ lây về hình phạt hay có thể mất khoản tiền đã giao
kết.
2. Những quy định tiến bộ và nhân đạo trong chế định hợp đồng của Bộ luật
Hồng Đức về điều kiện ý chí.
- Điều kiện tạo nên một bản hợp đồng có giá trị pháp lý là hợp đồng được kí
kết phải là kết quả của sự tự nguyện, tự do về mặt ý chí của các bên, để hợp
đồng phản ánh được đúng ý nguyện của các bên và được pháp luật bảo vệ,
nhất thiết phải ghi rõ sự “tự nguyện” của mình đồng thời phải có chữ ký
hoặc điểm chỉ của các bên. Bởi hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các cá nhân
trong xã hội vì một lợi ích vật chất nào đó. Chính vì vậy, những hành vi như
cưỡng bức, đe dọa buộc phải kí kết hợp đồng không thể tạo nên một giao
dịch, hợp đồng có giá trị về mặt pháp lý.
=> Thông qua những quy định này, tính tự nguyện không chỉ phản ánh ý chí
của các bên mà còn cụ thể hóa bằng hành vi (ký, điểm chỉ). Những hành vi

không mang tính tự nguyện, không phản ánh được đúng ý chí của các bên sẽ
không tạo thành một giao dịch, hợp đồng có giá trị về mặt pháp lý. Bên cạnh
đó còn nghiêm cấm những hành vi cưỡng bức, đe dọa buộc phải ký kết hợp
đồng . Hành vi này thường xảy ra ở những người có chức vụ, quyền hạn và
lợi dụng vị thế đó để nhiễu sách, o ép người dân thiết lập dân sự.
3. Những quy định tiến bộ và nhân đạo trong điều kiện nội dung hợp đồng
phải phù hợp với quy định pháp luật :
Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ
thể, và các quyền và nghĩa vụ này không được trái với pháp luật .Nhưng
cũng có hai hình thức thể hiện trái nội dung của hợp đồng có thể trái pháp
luật:
- Các bên thỏa thuận nội dung mà pháp luật cấm. Đối với trường hợp này, tài
sản các bên giao kết bị pháp luật cấm (mua bán, cầm cố trao đổi vũ khí, sản
vật quý hiếm..) hoặc các bên không được thỏa thuận những nội dung vượt
quá giới hạn pháp luật cho phép. Chẳng hạn thỏa thuận mức lãi suất, thời
hạn cầm cố ruộng đất trong những thời hạn nhất định.
4.Những quy định tiến bộ về điều kiện và hình thức của hợp đồng phải phù
hợp với quy định của pháp luật:
8


Hình thức hợp đồng là phương tiện để các bên chủ thể triển khai nội dung
của hợp đồng, là cách thức để các bên chủ thể bày tỏ ý kiến của mình .
Quốc triều thư kế thể thức, các hợp đồng có liên quan đến ruộng đất, nô tỳ,
thuyền be,.. đều phải lập văn bản những đối tượng khác của hợp đồng
(không bắt buộc phải lập văn bản) thì do bên chủ thể thỏa thuận, lựa chọn
hình thức.
=> So với hợp đồng bằng miệng, hợp đồng bằng văn bản có nhiều điểu kiện
chặt chẽ hơn. Tóm lại, pháp luật nhà Lê không đưa ra khái niệm cũng như
điều kiện của hợp đồng một cách hệ thống nhưng thông qua một số quy định

nêu trên cho thấy pháp luật có những ràng buộc nhất định đối với các bên
tham gia hợp đồng theo những chuẩn mực, điều kiện cụ thể. Khi đó, hợp
đồng có giá trị pháp lý và hiệu lực đối với các bên, được nhà nước bảo đảm
thực hiện; ngược lại pháp luật thường dùng cụm từ “trả lại tài sản” nhằm
không thùa nhận một giao dịch nào đó, tức bị vô hiệu.
5. Những điểm tiến bộ trong phân loại hợp đồng :
+Hợp đồng mua bán:
Là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán là chủ sở hữu tài sản
chuyển giao tài sản cho bên mua, bên mua trả cho bên bán một khoản tiền,
đồng thời được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó, pháp luật thời Lê sơ
chia hợp đồng mua bán có hai loại: Hợp đông đoạn mại và hợp đồng điển
mại.
Với những quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên khi thời
hạn điểm mại kết thúc; đồng thời ngăn ngừa sự xung đột hay tranh chấp về
lợi ích vật chất trong đời sống xã hội. Đây là một quy định khá chặt chẽ, độc
đáo, phù hợp với tập quán canh nông ở nước ta, thể hiện tính sáng tạo của
nhà làm luật thời Lê.
+Hợp đồng cho vay :
Bên cho vay có quyền nhận lại số tiền, tài sản cho vay và hưởng lãi xuất
theo thỏa thuận. Bên cạnh đó, bên cho vay phải giao tiền, tài sản cho vay
theo đúng số lượng, chất lượng, thời gian theo hợp đồng đã ký kết. Khi bên
vay thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ và lãi xuất theo thỏa thuận thì bên cho
vay phải trả tài sản nhận cầm, nếu cố tình trì hoãn sẽ xử phạt theo quy định.
=> Qua đó cho thấy được hợp đồng cho vay thể hiện được quyền và nghĩa
vụ của các bên.
=>Có thể nói bộ Luật Hồng Đức hay Quốc triều hình luật là văn bản pháp
lý bậc nhất, là đỉnh cao nhất của thành tựu pháp luật Việt Nam so với các
triều đại trước đó và cả về sau. Đánh giá về giá trị của bộ luật Hồng Đức,
sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú viết: “Đời vua Lê có
ban hành bộ Hồng Đức hình luật, các đời sau vẫn theo bộ luật ấy.

9


Tuy có vài sự sửa đổi nhỏ trong lời văn, hay trong cách xếp đặt loại mục tuỳ
theo thời kỳ, song các điều khoản căn bản vẫn không thay đổi. Bộ luật Hồng
Đức đã được dùng làm quy củ để cai trị trong nước và cải thiện lòng người”.
Những điều đó đã đủ thấy rằng bộ luật Hồng Đức đã được vận dụng vào
công quyền Việt Nam và được xem là chuẩn mực của nền cổ luật nước ta
qua nhiều triều đại; bên cạnh tính giai cấp nó còn mang tính nhân đạo, tiến
bộ và tính dân tộc đặc trưng.
IV. Chế định hợp đồng trong bộ luật Hồng Đức phát triển hơn so với
các giai đoạn phong kiến khác trước và sau nhà Lê Sơ.
Nhận xét và đánh giá:
Luật pháp là hiện tượng lịch sử có quá trình hình thành, phát triển. Do đó,
những nguyên nhân xuất hiện nhà nước và tình hình kinh tế chính trị của n
hà nước cũng chính là nguyên nhân xuất hiện pháp luật.Tại sao chế định hợp
đồng trong bộ luật Hồng Đức lại phát triển hơn giai đoạn phong kiến trước
và sau thời Lê sơ. Muốn trả lời được câu hỏi đó, chúng ta phải xét toàn bộ
tình hình kình tế chính trị, xã hội của các thời đại trước và sau thời Lê sơ để
có cái nhìn tổng quát và chính xác.
1) Các giai đoạn trước thời Lê sơ:
• Tình hình chính trị xã hội nước ta thế kỉ X đứng trước nhiều khó khăn
và thách thức. Sau thời gian dài bị áp bức bóc lột, cùng với việc mô
hình nhà nước Trung Quốc áp đặt lên Việt Nam, điều khó khăn nhất là
xây dựng chính quyền độc lập. Tuy nhiên, tình hình chính trị lại có
nhiều biến động, thêm vào đó là sự thay đổi nhanh chóng của các triều
đại, do đó việc hình thành được một bộ luật là không dễ dàng.
• Văn Lang là nhà nước đầu tiên của Việt Nam, ra đời vào thế kỷ VII
TCN. Thời kỳ này bắt đầu có phân hóa xã hội, dẫn tới nhà nước hình
thành. Luật pháp thời Văn Lang – Âu Lạc là luật không thành văn,

nhưng bước đầu chuyển sang luật pháp sơ khai. Luật không thành văn
đó là lệ làng, luật tục và tập quán chính trị; luật thành văn gồm: văn
bản đơn nhất, hội điển và pháp điển.
• Sau đó nước ta nằm dưới ách đô hộ, người Trung Quốc tiến hành
chính sách đồng hóa dân ta ra khắp quận, huyện, biến nước ta thành
nội thuộc Trung Quốc. Các chính quyền đô hộ Trung Quốc ở Âu Lạc
cai trị theo luật Hán kết hợp với lệ làng người Việt, do vậy mà luật
pháp thời đó mang màu sắc giống Trung Quốc.
Pháp luật thời Bắc thuộc:
10


- Hình sự: quy định các tội hình sự sau có thể bị xử phạt nặng: phản
loạn chống chính quyền đô hộ, tham nhũng, buôn bán muối và sắt.
- Dân sự: liên quan đến sở hữu, chiếm hữu ruộng đất.
-

Hôn nhân, gia đình: nó thuộc về luật dân sự trừ các trọng tội. Theo
quy định hôn nhân, trai kết hôn ở tuổi 20 – 50; gái từ 15 – 40; một số
nơi trai 16, gái 13 đã kết hôn.
Như vậy thì vẫn chưa có sự ra đời của chế định hợp đồng

• Giai đoạn Ngô - Đinh - Tiền Lê:
- Nhà Ngô: Thời gian tồn tại khá ngắn, lại có nhiều biến động lớn về
ngôi vua, đất nước nhìn chung là bất ổn. Đầu năm 939, Ngô Quyền
xưng vương giành lại độc lập. Về sau ông mất, Dương Tam Kha nắm
quyền. Kể từ đó, mâu thuẫn nội bộ ngày càng gia tăng, tạo điều kiện
cho các thủ lĩnh địa phương dổi dậy, loạn lạc kéo dài.
- Nhà Đinh: Sau hai năm dẹp loạn 12 sứ quân Đinh Bộ Lĩnh thống
nhất đất nước. Tuy nhiên, nắm quyền không được bao lâu thì hai cha

con Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết hại. Đất nước lại
thêm lần nữa rối loạn.
- Nhà Tiền Lê: Năm 980, trước sự xâm lược của nhà Tống và được sự
suy tôn của Thái hậu Dương Vân Nga, Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế,
lập ra nhà Tiền Lê. Tuy nhiên, sau khi ông chết thì các con lại tranh
giành quyền lực mà không lo cai trị đất nước.
Tóm lại, nhà nước Ngô - Đinh - Tiền Lê được xây dựng trong giai đoạn
vừa giành được độc lập sau hơn một nghìn năm bị đô hộ bởi phong kiến
phương Bắc, phải đối mặt với đe dọa từ bên trong ( tình trạng nội chiến,
phân tán, cát cứ ) lẫn bên ngoài chống giặc ngoại xâm. Hơn nữa các triều đại
tồn tại tương đối ngắn nên chưa có điều kiện hoàn thành hệ thống pháp luật.
Việc cấp thiết bấy giờ là hàn gắn vết thương chiến tranh và củng cố độc lập.
Ở thời này, pháp luật đã thành văn nhưng chưa có điều kiện phát triển, luật
chỉ tập trung vào các hình phạt dã man, chế định hợp đồng và các luật khác
thì mờ nhạt.
• Gian đoạn Lý - Trần - Hồ
11


- Nhà Lý: Cuối thời kí bạo ngược của Lê Long Đĩnh, đất nước khủng
hoảng nghiêm trọng, nhân dân mất lòng tin vào triều đình. Trước khó
khăn thù trong giặc ngoài, Lý Công Uẩn được mọi người tin tưởng
giao tôn lên làm vua. Tuy vậy đến thời Lí Chiêu Hoàng, Trần Thủ
Độ đã lợi dụng chuyện cưới gả để cướp ngôi.
- Nhà Trần: Ở giai đoạn đầu, các vị vua thương dân, tài giỏi đã tạo
nên một thời kì phát triển thịnh vượng, chống giặc Nguyên - Mông
thành công, giữ vững chủ quyền lãnh thổ. Đến thời Trần Dụ Tông,
đất nước loạn lạc triền miên, nhân dân đói khổ, mất mùa thiên tai,
Chiêm Thành thì công kích táo bạo, ở phía Bắc Trung Quốc lại nhìn
ngó. Đến thời của Trần Thiếu Đế thì đất nước đã quá suy yếu.

- Nhà Hồ: Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất nhà Trần lập nên nhà Hồ.
Tuy nhiên, do tiếp quản từ một nhà Trần bị rệu rã về nhiều mặt,
những chính sách đưa ra tuy tiến bộ nhưng chưa có thời gian tổ chức
triệt để. Bên cạnh đó, dân chúng đã mất niềm tin. Vì vậy, khi quân
Minh xâm lược, nhà Hồ thất bại.
Nhìn chung, pháp luật thời Lý - Trần - Hồ cũng đạt được nhiều thành tựu,
pháp luật về quyền sở hữu được quan tâm, sở hữu tư nhân về ruộng đất đã
phát triển, hoạt động tranh chấp,mua bán ruộng đất diễn ra không ít, chế
định hợp đồng cũng khá phát triển. Tuy nhiên nhiều vấn đề không rõ ràng
như quá hạn mà vẫn đòi chuộc thì bị xử lí ra sao, hay người bán đòi chuộc
lại ruộng mà người mua không cho chuộc thì bị xử lí như thế nào…, còn
nhiều bất cập.
2) Các giai đoạn sau thời Lê sơ:
Bước sang thế kỷ thứ XVI, nhà Lê suy yếu, đất nước rơi vào tình trạng nội
chiến kéo dài, luật pháp dân sự, chế định hợp đồng không có nhiều thay đổi
chủ yếu dựa vào triều đại trước.
Bắt nguồn từ thời kì Nam-Bắc triều, sau khi giành ngôi từ nhà Hậu Lê,
Mạc Đăng Dung lập nên nhà Mạc. Nhà Lê lại được tái lập vài năm sau đó
với sự giúp đỡ của Nguyễn Kim. Sau khi Nguyễn Kim chết, người con rễ
Trịnh Kiểm dành quyền bính, 60 năm chiến thắng nhà Mạc, mở ra thời kì
vua Lê chúa Trịnh những mâu thuẫn trong nội bộ đã phân chia đất nước ra
làm hai lãnh thổ. Vua Lê chỉ có danh vị hoàng đế trên danh nghĩa. Sau đó là
thời kì đất nước bị chia cắt thành hai đàng trong đàng ngoài. Thời kì này
ngoại thương sôi động, tham gia vào ngoại thương toàn cầu, tạo điều kiện
cho chế định hợp đồng được duy trì và phát triển. Tuy nhiên đến thế kỷ 18
thì hoạt động thương mại này giảm sút ở cả hai đàng. Thêm vào đó hoạt
động Nam tiến nhằm tìm đất nông nghiệp để cung cấp lương thực gia tăng
dân số. Lãnh thổ nước ta dần được mở rộng xuống phía Nam. Sau những lần
12



xâm chiếm gây chiến tranh với Chăm Pa, với vương quốc Khơ me vương
quốc Ayutthaya, đàng trong đã giành được hoàn toàn Nam Bộ, sự kiểm soát
của mình.
Do cuộc Nam tiến này và sự ảnh hưởng văn hóa người Chăm Pa , Khơ me,
cùng với sự trù phú của thiên nhiên rộng rãi về đất đai nên nhiều người dân
rất thoải mái việc phân chia rạch ròi qua hợp đống trở nên không quan trọng
nữa. Giữa thế kỉ 18, chiến tranh nổ ra liên miên làm cho đời sống người dân
thêm cùng quẫn, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra phong trào Tây Sơn nổ ra
thống nhất lại đất nước. Trong khi đó, miền Bắc bị quân Mãn Thanh xâm
lược.Tình hình đất nước bất ổn. Sau đó nội bộ Tây Sơn suy yếu chính quyền
lục đục và sụp đổ rơi vào tay nhà Nguyễn vị vua đầu tiên là Gia Long cai trị
đất nước. Ông cố gắng xây dựng Việt Nam theo phương pháp hành chính
Trung Hoa, những người kế tục lại chọn chính quyền đã lỗi thời và coi trong
phát triển nông nghiệp, ngăn cản tôn giáo từ phương Tây. Với sự cai trị độc
đoán và mang tính chất Trung Hoa sâu sắc không phù hợp với nước nhà
đồng thời lại bị thực dân Pháp lâm le xâm chiếm. Vì chọn sai phương pháp
pháp triển và cai trị đất nước bất ổn kéo dài, chế định hợp đồng trở nên mờ
nhạt cùng sự độc đoán của pháp luật nhà Nguyễn dần đầu hàng với thực dân
Pháp.
3) Giai đoạn nhà Lê sơ:
Sau sự thất bại của nhà Hồ, quân Minh thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt.
Nhà Minh đã cai trị nước ta bằng một chế độ hết sức tàn bạo, hà khắc. Dưới
ách đô hộ của nhà Minh, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổi lên tiêu biểu là khởi
nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi. Sau 10 năm trường kì kháng chiến (1418-1428),
khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng đất nước, khôi phục nền
độc lập dân tộc, mở ra vương triều Hậu Lê là một triều đại lịch sử tồn tại lâu
dài (1428-1789), là giai đoạn phát triển rực rỡ trong lịch sử nhà nước và
pháp luật Việt Nam. Đặc biệt, triều Lê Thánh Tông là giai đoạn rực rỡ nhất,
Vua Lê Thánh Tông được đánh giá là một vị vua minh quân không chỉ bởi

ông đã tiến hành những cải cách vừa có lợi cho chính quyền của ông
mà những cải cách đó còn phát huy được tiềm năng của kinh tế nông nghiệp,
góp phần phát triển kinh tế của đất nước. Ngay sau khi lên ngôi, Thánh Tông
đã ban hành các chính sách phát triển kinh tế, đặc biệt với tư tưởng “trọng
nông ức thương”, thì ruộng đất trở thành vấn đề trung tâm của cải cách kinh
tế. Các chế độ ruộng đất tiếp tục được củng cố, hoàn thiện bởi những chính
sách cải cách phù hợp.
- Chế độ lộc điền với chính sách ban cấp ruộng lộc cho quý tộc, quan lại
Thời nhà Lê, chế độ lộc điền là đem ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà
nước
13


- Chính sách quân điền đối với ruộng đất công làng xã.
Cũng như chính sách lộc điền, chính sách quân điền đã được thực hiện từ
những triều vua đầu tiên của nhà Lê sơ. Đến đời vua Thánh Tông từ năm
1477, chính sách quân điền mới được chính thức ban hành và từ năm 1481,
đã thực hiện thống nhất trên quy mô cả nước theo nguyên tắc:
+ Tất cả mọi người từ quan tam phẩm đến cô nhi quả phụ đều được chia
ruộng công. Những gia đình nông dân thường đã có ruộng đất riêng đầy đủ
thì không
được
cấp.
+ Ruộng xã nào chia cho dân xã ấy, xã nào ruộng quá nhiều, người ít thì
cho phép lấy bớt ruộng xã nhiều chia cho xã bên cạnh ruộng ít, người nhiều.
+ Dân trong xã tùy theo thứ hạng được cấp phần ruộng đất khác nhau.
Quan tam phẩm được 11 phần, ngũ phẩm được 9,5 phần… Cô nhi, quả phụ
được 3
phần.
+ Ruộng công làng xã cứ 6 năm chia lại một lần. Mọi người cày cấy ruộng

công đều phải nộp tô cho nhà nước. Riêng quan tứ phẩm trở lên do lộc điền
ít
nên không
phải
nộp
tô.
Chính
sách
khẩn
hoang

lập
đồn
điền
Bên cạnh việc củng cố các chế độ ruộng đất, nhà Lê ngay từ rất sớm còn
đưa ra những chính sách khuyến khích nông dân các làng xã khai hoang lập
làng để phục hồi nền kinh tế nông nghiệp, đặc biệt thời vua Lê Thánh Tông.
Điều 349 trong bộ luật Hồng Đức quy định việc khai hoang, khai thác hết
diện tích cày cấy thành pháp lệnh của nhà nước. Ngoài ra, Lê Thánh Tông
còn đẩy mạnh việc khai hoang lập đồn điền. Chính sách này được bắt đầu thi
hành từ thời vua Thái Tổ và được mở rộng dưới thời Thánh Tông. Chỉ dụ
năm 1481 nêu rõ mục đích lập đồn điền của nhà nước “để khai thác hết sức
nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho nước”. Lực lượng được huy động
bao gồm cả quân lính đồn trú, tù binh, tội nhân.
- Chính sách phát triển nông nghiệp.
Để phát triển nông nghiệp, Lê Thành Tông còn đưa ra nhiều chính sách.
Trước tiên là chính sách tăng cường sức sản xuất. Nhằm tăng cường sức lao
động cho nông nghiệp vào vụ cần kíp, Lê Thánh Tông không chỉ cho quân
đội được thay phiên nhau về làm ruộng mà còn huy động cả các lực lượng
“phi nông nghiệp” khác như lực lượng thợ bách tác cho mùa vụ. Những việc

xây dựng, tu sửa không được huy động sức dân vào lúc đương mùa vụ.
Thậm chí thời Lê còn quy định chỉ cho phép chuộc ruộng vào các tháng 3,
tháng 6 là những tháng rỗi rãi. Nếu giữa kì làm ruộng mà cưỡng đòi chuộc
thì theo luật, người vi phạm bị đánh 80 trượng và bị tội đồ.
Nhà Lê rất chăm lo đến thủy lợi, đê điều. Các thừa tuyên đều có chức
quan hà đê chuyên phối hợp với các quan phủ, huyện trông nom, sửa đắp đê
điều. Năm 1498, mỗi xã phải cử một xã trưởng chuyên trách việc đê điều và
14


khuyến nông. Trường hợp đê vỡ, triều đình sẽ cử quan đi khám xét, huy
động nhân dân, quân lính, công tượng, học sinh Quốc tử giám đi sửa đắp,
cứu hộ.
Ngoài ra, nhà nước còn quy định mọi công trình xây dựng cần điều động
dân phu đều phải tiến hành ngoài thời vụ cày cấy, gặt mùa, “hễ công việc gì
có hại cho nghề nông thì không được khinh động sức dân”. Pháp luật nhà Lê
bảo vệ chặt chẽ sức kéo trong nông nghiệp. Tội ăn trộm trâu bò bị trừng phạt
nặng.
Năm 1489, Thánh Tông ra lệnh cấm giết trâu bò ban đêm.
Với sự phát triển kinh tế, nông nghiệp phát triển, đời sống nhân dân ổn
định, dẫn đến thời nhà Lê sơ pháp luật sở hữu cực kì được quan tâm:
Các quyền sở hữu:
• Quyền chiếm giữ: chủ sở hữu là người có quyền chiếm giữ tài sản thuộc
sở hữu của mình. Quyền chiếm giữ thuộc về người có tài sản những hành
vi xâm chiếm bất hợp pháp buộc phải chấm dứt, khôi phục lại quyền
chiếm giữ của chủ sở hữu; đồng thời người vi phạm còn bị ghép vào tội
trộm cắp (Điều 444, 445, 446…BLHĐ).
• Quyền dùng tài sản: pháp luật thừa nhận và cho phép người có tài sản
được sử dụng tài sản theo ý muốn của mình như trực tiếp khai thác lợi ích
của tài sản hoặc đem cầm cố, thuê mướn … Trường hợp người nhặt được

tài sản thất lạc phải đến báo quan hoặc trả lại cho chủ, nếu giữ lấy đùng
thì xử tội biếm hay tội đồ (Điều 579), hoặc nhận giữ tài sản đó cũng
không được dung.
• Quyền chuyển nhượng: (tức quyền định đoạt tài sản bằng cách chuyển
quyền sở hữu tài sản cho người khác. Quyền định đoạt được thực hiện
bằng cách: bán, tặng cho, trao đổi, để lại thừa kế…Ngoài người có tài
sản, không một ai có quyền định đoạt thay.
• Hình thức sở hữu ruộng đất:
Có hai chế độ sở hữu ruộng đất trong thời kỳ phong kiến là: sở hữu nhà
nước (ruộng công/ công điền/công thổ) và sở hữu tư nhân (ruộng tư/tư
điền/tư thổ).
- Ruộng đất công hữu: do đã có chế độ lộc điền-công điền tương đối
toàn diện về vấn đề ruộng đất công nên trong bộ luật này quyền sở
hữu nhà nước về ruộng đất chỉ được thể hiện thành các chế tài áp
dụng đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng ruộng đất công
như: không được bán ruộng đất công (điều 342), không được chiếm
ruộng đất công quá hạn mức (điều 343), không được nhận bậy ruộng
đất công đã giao cho người khác (điều 344), cấm làm sai quy định
phân cấp ruộng đất công (điều 347), không để bỏ hoang ruộng đất
15


công (điều 350), cấm biến ruộng đất công thành tư (điều 353),
không được ẩn lậu để trốn thuế (điều 345) …
- Ruộng đất tư hữu: được hình thành bằng cách được nhà vua ban
cho thừa kế nhưng phổ biến nhất là thông qua giao dịch dân sự hợp
pháp (mua, bán tặng, trao đổi…). Vì vậy không chỉ quan lại, địa chủ
phong kiến mà kể cả dân thường cũng có quyền tư hữu ruộng đất và
được nhà nước bảo vệ như nhau bằng các qui định về hình sự, dân
sự…

- Tất cả điều kiện kinh tế xã hội, chính trị ổn định cùng với tài năng
của vua Lê Thánh Tông với hàng loạt cải cách, pháp luật sở hữu rõ
ràng đến từng quyền một. Đặc biệt việc thừa nhận mọi người đều có
quyền tư hữu ruộng đất đã làm cho đời sống người dân khá sung túc,
kinh tế phát triển mạnh mẽ, là cơ sở quan trọng để khẳng định chế
định hợp đồng trong giai đoạn này là phát triển nhất trong các thời
đại bởi lẽ người dân có quyền định đoạt cũng như mua, bán, cho
thuê, cho vay,… tài sản, ruộng đất đòi hỏi phải có văn bản khuế ước
được ký kết hợp pháp, để tránh xảy ra tranh chấp về sau.
V.

Nhìn chung, tổng kết:

- Suốt thời kỳ nhà nước phong kiến Đại Việt, đặc biệt từ thế kỉ XV đến
thế kỉ XVIII, pháp luật phong kiến đã không ngừng được xây dựng và cải
thiện. Mỗi triều đại thường chỉ ban hành 1 bộ luật và bộ luật này có giá
trị đến hết triều đó. Triều Vua Lê cũng vậy, từ thời vua Lê Thái Tổ đến
Lê Thái Tông và tiếp đến thời vua Lê Thánh Tông, hoạt động xây dựng
pháp luật có thể nói là rực rỡ nhất.
-Trong vòng 40 năm trị vì của mình, Lê Thánh Tông đã ban hành nhiều
luật lệ và còn được lưu hành đến ngày nay. Trong đó, điểm đáng chú ý
nhất ở đây, chính là sự ra đời của Bộ Luật Hồng Đức (Quốc Triều Hình
luật), đây chính là đỉnh cao của thành tựu lập pháp từ thế kỉ 15 đến thế kỉ
18, là bộ luật tiêu biểu nhất trong lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam.
Sỡ dĩ như vậy là vì Lê Thánh Tông là vị Vua có tầm nhìn xa trông rộng,
dùng pháp luật để trị vì đất nước. Bộ luật Hồng Đức bao gồm nhiều nội
dung, tuy nhiên điểm nổi bật như đã phân tích trên chính là sự ra đời của
Chế định hợp đồng (khế ước), có thể nói đây là điểm rất tiến bộ trong
thời kỳ này và đã phần nào minh chứng được tầm nhìn xa rộng của Vua
Lê Thánh Tông khi mà chế định này tuy ra đời từ rất sớm, thế kỉ 15 đến

thế kỉ 18, song cho đến ngày nay, điều khoản này vẫn được kế thừa và áp
dụng cách linh hoạt, điển hình là điều luật: hợp đồng phải được thực hiện
16


trên cơ sở tự nguyện, phải bình đẳng, phải trung thực, tài sản đem giao
dịch phải là tải sản hợp pháp của chủ sở hữu.
-Chế định hợp đồng trong Bộ luật Hồng Đức bao gồm 4 loại hợp đồng
được quy định rất cụ thể và dễ hiểu, dễ áp dụng: đó là hợp đồng mua bán
ruộng đất, hợp đồng thuê mướn ruộng đất, hợp đồng về cấm cố ruộng đất
và hợp đồng vay nợ. Điều này tạo ra một hệ thống nguyên tắc chặt chẽ
trong đời sống người dân, tạo ra sự thống nhất trong hành động của mọi
người và tạo ra sự ổn định trong xã hội, thúc đẩy sự phát triển của đất
nước.
-Cùng với các điều luật về chế định hợp đồng, BLHĐ còn quy định thêm
về trách nhiệm bồi thường dân sự do gây thiệt hại, đã tăng thêm tính kỷ
luật cho Quốc triều hình luật thời này. Việc ban hành chế định hợp đồng
ở thời Lê là vô cùng tiến bộ, do nhận thấy được quyền con người, đó là
quyền định đoạt cũng như thực hiện mọi hành vi trao đổi, mua, bán liên
quan đến tài sản để phục vụ cho nhu cầu hằng ngày trong cuộc sống của
họ, giúp đời sống xã hội lúc bấy giờ trở nên tốt đẹp hơn.
-Bộ luật Hồng Đức là bộ luật rực sáng nhất trong thời kỳ phong kiến, đó
là điều mà cho đến ngày nay, không một ai có thể phủ nhận được, có
nhiều điều luật còn được duy trì và có giá trị đến hôm nay, một trong
những điều đó là liên quan đến chế định hợp đồng, vô cùng phát triển và
có nhiều điểm nhân văn, tiến bộ hơn so với thời kỳ trước và sau nhà Lê
sơ nhờ vị vua tài giỏi và điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội phát triển ổn
định.

Tập thể nhóm 5.2 chân thành cảm ơn thầy đã dành

thời gian đọc bài tiểu luận của nhóm. Chúc thầy sức
khỏe!

17



×