Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Ôn tập Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.85 KB, 31 trang )

Câu 1. Bằng lý luận và thực tiễn hãy chứng minh: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu của
cách mạng Việt Nam. Ý nghĩa hiện thực của vấn đề?
Trả lời:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, là con đường
duy nhất đúng mà Đảng ta và dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua cho chúng ta nhận thức sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là con đường tất yếu khách quan,
hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lịng người. Đó là sự lựa chọn của lịch sử, của nhân dân ta đi theo Đảng, Bác Hồ,
làm nên những thắng lợi vĩ đại, đưa dân tộc lên tầm cao mới của thời đại.
1. Sự lựa chọn khách quan của lịch sử
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Từ
năm 1858 đến năm 1930, đã có hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các nhân sĩ,
trí thức, nơng dân, binh lính u nước diễn ra theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau. Đó là các cuộc khởi nghĩa chống
thực dân Pháp của nông dân Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực; các cuộc
chiến quyết tử bảo vệ thành Gia Định, thành Hà Nội của Nguyễn Tri Phương, Hồng Diệu, phong trào Cần Vương; phong trào
Đơng Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân; cuộc khởi nghĩa của Hồng Hoa Thám. Dù tràn đầy lịng u nước, đức hi sinh
nhưng các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đó đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Vấn đề độc lập dân tộc không
được giải quyết, trước hết là do khơng có đường lối cách mạng đúng đắn giới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa
học và cách mạng. Đó là sự khủng hoảng đường lối cứu nước.
Tháng 6-1911 người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu
nước. Người đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm
của các nước, rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích, là cơ sở cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.
Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Ái Quốc. Nhưng bước ngoặt lớn
trong tư tưởng của Người là khi được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I.Lênin (1920), tác phẩm lý luận bàn về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong thời đại cách mạng
vơ sản. Người đã tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đơ hộ của thực dân Pháp.
Đó là con đường cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội;
cách mạng giải phóng dân tộc từng nước gắn với phong trào cách mạng thế giới… Người khẳng định: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác là con đường cách mạng vơ sản”. Từ niềm tin đó, Người tổ chức truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành được hết thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Tồn dân ta đi theo Đảng. Vì vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử


Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
Căn cứ chủ yếu của sự lựa chọn đó thể hiện ở các điểm sau:
Một là, cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới. Chính tính chất của thời đại mới tạo ra khả năng hiện thực
cho những dân tộc lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những khả năng hiện thực này giúp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa đang bế tắc về hướng đi.
Hai là, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp vô sản và nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột bất
cơng, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở thành những người làm chủ
xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa xã hội thì mới vững chắc. “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực
hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc” như Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mơ hình
phát triển độc lập cả về chính trị, văn hóa.
Chủ nghĩa xã hội thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; con
người được phát triển tồn diện, có năng lực và điều kiện làm chủ, xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nơ dịch của dân tộc này
với dân tộc khác về chính trị, kinh tế và tinh thần.
Chủ nghĩa xã hội tạo ra sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên ngun tắc tơn trọng chủ quyền
của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới khơng có chiến tranh, khơng có sự hồnh hành của cái ác, của những sự tàn
bạo và bất công, bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc.
2. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng cộng sản lãnh đạo đã khẳng định: độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn


Trong hơn 80 năm qua, Đảng và nhân dân ta ln kiên trì và thực hiện mục tiêu này. Nhờ vậy mà cách mạng nước ta
đã dành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại:
Một là, thắng lợi của cách mạng Tháng tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây
là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 - 1945 đến cao trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Cách mạng Tháng Tám đã xóa
bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực

dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội, góp phần quan trọng vào việc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
quốc tế đưa đất nước từng bước quá độ lện chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”; củng cố vững chắc hơn độc lập dân tộc, từng bước đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bài học lớn, được đặt ở vị trí hàng đầu qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng là bài học phải “ kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
3. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991) xác định:
- Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, đi lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất rất thấp.
- Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt kéo dài nhiều chục năm, hậu quả xã hội do chiến tranh để lại rất nặng nề.
- Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại.
Đó là những khó khăn khách quan trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cho thấy thời kỳ quá độ ở
Việt Nam là một thời kỳ lịch sử lâu dài, phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp, chưa có tiền lệ.
Bên cạnh đó, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng có nhiều thuận lợi:
- Đất nước hịa bình và thống nhất.
- Dân tộc Việt Nam có truyền thống anh hùng, bất khuất, nhân dân có lịng yêu nước và cần cù lao động.
- Chúng ta đã có một số cơ sở vật chất ban đầu.
- Thời cơ phát triển do cách mạng khoa học và công nghệ và xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới tạo ra.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) (sau đây gọi
tắt là Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)) xác định:
- Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và
cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen (Cương lĩnh năm 1991 chỉ nêu yêu cầu về sự
cần thiết phải có bước đi, hình thức, biện pháp thích hợp).
- Chỉ rõ những thuận lợi cơ bản:
+ Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có cương
lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo (bổ sung so với Cương lĩnh năm 1991).

+ Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có lịng u nước nồng nàn, có truyền
thống đồn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng (kế thừa, trình
bày rõ hơn Cương lĩnh năm 1991).
+ Chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng (kế thừa Cương lĩnh năm
1991).
+ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với q trình tồn
cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.
Như vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau là con đường tất yếu của dân tộc Việt Nam. Khẳng
định tính tất yếu của nó khơng có nghĩa là không cần đến điều kiện, không cần tạo ra những điều kiện để tạo ra những điều tất
yếu đó. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất yếu vì rằng, đó là quy luật phát triển của xã hội Việt Nam, sớm hay


muộn rồi xã hội Việt Nam sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội, khơng ai có thể ngăn cản nổi. Điều này khơng những đúng đối với
Việt Nam mà cịn đúng với thế giới. Những khúc vận động quanh co của lịch sử, những thất bại là điều thường thấy trên
đường đi tới đích. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất yếu chỉ khi nó gắn với các điều kiện bảo đảm đó và nó
nằm ngay trong yếu tố chủ quan của chính sự hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó quan trọng nhất là phụ thuộc vào
chính yếu tố chủ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, do đó, trở thành yếu tố then chốt
bảo đảm cho dân tộc Việt Nam phát triển đúng hướng, đúng quy luật, bảo đảm và giữ vững ngọn cờ chiến lược độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Câu 2: Nội dung cơ bản của bài học sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Phân tích kinh
nghiệm: Tồn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân?
Trả lời:
2.2.1. Tồn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân
Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng, lãnh đạo từ năm 1930 đến
nay. Cuộc cách mạng đó đã lơi cuốn được đông đảo nhân dân tham gia, làm nên những phong trào cách mạng rộng lớn và
giành được những thắng lợi vĩ đại. Có được thành quả đó là nhờ hoạt động lãnh đạo của Đảng trong mỗi thời kỳ, trên từng lĩnh
vực và suốt quá trình đã đáp ứng đúng nhu cầu lợi ích, nguyện vọng chính đáng của tồn thể nhân dân, đặc biệt là lợi ích giai cấp
cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất và năng lực, luôn luôn gương mẫu, dũng
cảm, đi đầu trong đấu tranh, hy sinh quên mình vì quyền lợi tối cao của đất nước, dân tộc và quần chúng nhân dân lao động,

được nhân dân hết lòng tin tưởng, một lòng một dạ đi theo Đảng, theo cách mạng.
Lợi ích, nguyện vọng chân chính của nhân dân vừa là mục tiêu phấn đấu của Đảng, vừa là động lực thúc đẩy nhân dân
hăng hái, sáng tạo trong đấu tranh giải phóng dân tộc và trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng lôi
cuốn được đông đảo nhân dân tham gia phong trào cách mạng trước hết là Đảng có đường lối, chính sách đúng, phù hợp ý
Đảng lòng dân. Đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng không chỉ phản ánh sự vận dụng sáng tạo lý luận MácLênin vào thực tiễn Việt Nam, phù hợp xu thế của thời đại, mà cịn phản ánh được đúng nguyện vọng, lợi ích chân chính và
khả năng thực hiện của quần chúng nhân dân; kết hợp hài hịa các lợi ích giữa cá nhân, tập thể, cộng đồng; thống nhất được
quyền lợi và nghĩa vụ của quần chúng nhân dân; quan tâm hết thảy lợi ích chân chính của mọi giai cấp, giai tầng trong xã hội.
Cán bộ, đảng viên của Đảng là người có trí tuệ, ln ln tiên phong, gương mẫu trong hành động cách mạng và đạo đức, lối
sống; thực sự là đầy tớ trung thành với lợi ích của nhân dân. Thực tiễn quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng
minh:
Từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập cho dân
tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày. Nhiệm vụ đó khơng chỉ đáp ứng đúng lợi ích, nguyện vọng của giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng
dân Việt Nam, mà cịn đáp ứng lợi ích tối cao của các tầng lớp, giai cấp khác là giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Trong mỗi thời
kỳ cách mạng, Đảng lại có chủ trương, chính sách, phương pháp cách mạng cụ thể phù hợp với khả năng và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân. Vì vậy, đã khơi dậy được động lực to lớn của quần chúng nhân dân trong phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo.


2.2.2. Đảng phải có chủ trương, biện pháp đúng đắn nhằm phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân trong mỗi giai
đoạn cách mạng
Sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân thời kỳ nào cũng to lớn. Nhưng để khơi dậy, quy tụ được nguồn sức mạnh đó và hướng
vào thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng lại phụ thuộc vào chủ trương, chính
sách, biện pháp đúng đắn của Đảng.
Dân tộc ta dưới thời phong kiến, mặc dù còn những hạn chế bởi thời đại lịch sử, nhưng ông cha ta đã có chính sách, biện
pháp thích hợp để huy động sức mạnh tồn dân, cả nước vào cơng cuộc dựng nước và giữ nước, như chính sách “Ngụ binh ư
nơng”, “ Bách tính giai binh”, chăm lo phát triển kinh tế “Khoan thư sức dân”…vv
Cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã chứng minh giai đoạn cách mạng nào Đảng ta có chủ trương, chính sách,
biện pháp lãnh đạo và tổ chức quần chúng phù hợp thì khi đó tập hợp được đơng đảo quần chúng nhân dân, giác ngộ, tổ chức, phát
huy được tài năng, sức mạnh của quần chúng đấu tranh, thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.

Như vậy, phát huy nguồn sức mạnh và sức sáng tạo của quần chúng nhân dân đến đâu trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cách
mạng phụ thuộc trước hết vào chủ trương, chính sách, biện pháp đúng đắn của Đảng ta. Do vậy, trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi
Đảng phải được xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trước hết là sự vững mạnh về chính trị, có đủ năng
lực hoạch định đường lối, chủ trương chính sách đúng đắn, biện pháp tổ chức thực hiện thích hợp vừa tầm đưa sự nghiệp đổi
mới tiến lên.
2.2.3. Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân, kiên quyết đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu, mệnh
lệnh, xa rời nhân dân
Nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Thường xuyên củng cố, tăng cường
mối liên hệ với quần chúng nhân dân là một quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là điều kiện bảo đảm cho sự
thành công của cách mạng. V.I.Lênin đã nhiều lần nhắc nhở, nguồn gốc chủ yếu sức mạnh của Đảng là ở mối liên hệ mật thiết
với quần chúng, đội tiên phong chỉ làm trịn sứ mệnh lịch sử của mình khi nó biết gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và
thật sự dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Người nhấn mạnh, đối với Đảng “một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ
nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”1.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ
máu thịt với nhân dân. Đảng luôn gần dân, hiểu dân, vận động, giác ngộ và tổ chức nhân dân đấu tranh cách mạng vì lợi ích
của Tổ quốc và nhân dân. Do đó, nhân dân ln ln dành cho Đảng tình cảm thiêng liêng, tốt đẹp nhất. Những khi cách
mạng gặp khó khăn, cán bộ, đảng viên hoạt động trong vùng địch hậu đều được nhân dân đùm bọc, che chở để lãnh đạo
phong trào. Những khi Đảng phạm sai lầm, khuyến điểm cũng được nhân dân chân tình cảm thơng, giúp đỡ để Đảng sửa
chữa. Do đó, Đảng ta có được sức mạnh chiến đấu, lãnh đạo cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2.2.1. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân
Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng, lãnh đạo từ năm 1930 đến
nay. Cuộc cách mạng đó đã lơi cuốn được đông đảo nhân dân tham gia, làm nên những phong trào cách mạng rộng lớn và
giành được những thắng lợi vĩ đại. Có được thành quả đó là nhờ hoạt động lãnh đạo của Đảng trong mỗi thời kỳ, trên từng lĩnh
vực và suốt quá trình đã đáp ứng đúng nhu cầu lợi ích, nguyện vọng chính đáng của tồn thể nhân dân, đặc biệt là lợi ích giai cấp
cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất và năng lực, luôn luôn gương mẫu, dũng
cảm, đi đầu trong đấu tranh, hy sinh quên mình vì quyền lợi tối cao của đất nước, dân tộc và quần chúng nhân dân lao động,
được nhân dân hết lòng tin tưởng, một lòng một dạ đi theo Đảng, theo cách mạng.
1

V.I Lênin Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr. 426.



Lợi ích, nguyện vọng chân chính của nhân dân vừa là mục tiêu phấn đấu của Đảng, vừa là động lực thúc đẩy nhân dân
hăng hái, sáng tạo trong đấu tranh giải phóng dân tộc và trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng lôi
cuốn được đông đảo nhân dân tham gia phong trào cách mạng trước hết là Đảng có đường lối, chính sách đúng, phù hợp ý
Đảng lòng dân. Đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng không chỉ phản ánh sự vận dụng sáng tạo lý luận MácLênin vào thực tiễn Việt Nam, phù hợp xu thế của thời đại, mà còn phản ánh được đúng nguyện vọng, lợi ích chân chính và
khả năng thực hiện của quần chúng nhân dân; kết hợp hài hịa các lợi ích giữa cá nhân, tập thể, cộng đồng; thống nhất được
quyền lợi và nghĩa vụ của quần chúng nhân dân; quan tâm hết thảy lợi ích chân chính của mọi giai cấp, giai tầng trong xã hội.
Cán bộ, đảng viên của Đảng là người có trí tuệ, ln ln tiên phong, gương mẫu trong hành động cách mạng và đạo đức, lối
sống; thực sự là đầy tớ trung thành với lợi ích của nhân dân. Thực tiễn quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng
minh:
Từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập cho dân
tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày. Nhiệm vụ đó khơng chỉ đáp ứng đúng lợi ích, nguyện vọng của giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng
dân Việt Nam, mà cịn đáp ứng lợi ích tối cao của các tầng lớp, giai cấp khác là giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Trong mỗi thời
kỳ cách mạng, Đảng lại có chủ trương, chính sách, phương pháp cách mạng cụ thể phù hợp với khả năng và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân. Vì vậy, đã khơi dậy được động lực to lớn của quần chúng nhân dân trong phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Thời kỳ Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), Đảng chủ trương đánh đổ đế quốc, phong kiến
giành độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho nơng dân, lập ra chính phủ cơng - nơng - binh. Về chỉ đạo cách mạng, Đảng chủ
trương đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai phản động giải phóng dân tộc, đem lại lợi ích tối cao, cấp thiết,
nóng bỏng nhất cho các giai cấp, tầng lớp nhân dân. Vì thế, đã phát huy được cao nhất sức mạnh của hơn 20 triệu đồng bào
cả nước vùng dậy khởi nghĩa làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật nhào chế độ thực dân
phong kiến, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Thời kỳ Đảng lãnh đạo bảo vệ thành quả cách mạng, tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19451954), Đảng đã dựa vào dân, khơi dậy nguồn sức mạnh từ nhân dân bảo vệ thành quả cách mạng, kháng chiến kiến quốc, giải
phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng vừa mới ra
đời đã phải đứng trước những khó khăn thử thách nặng nề. Tình thế cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhiệm vụ cơ bản
đặt ra cho Đảng là lãnh đạo nhân dân bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đảng đã chủ trương thực hiện nhiệm vụ
cấp bách trước mắt là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Khẩu hiệu hành động là “Độc lập trên hết” , “Tổ quốc
trên hết”. Mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng đề ra đã đáp ứng đúng nhu cầu, lợi ích của nhân dân, d o đó, mọi nhiệm vụ, công việc

của cách mạng đều được nhân dân hăng hái tham gia, hết lịng ủng hộ, mọi khó khăn trở ngại đều vượt qua. Khi cả nước bước
vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược (12/1946 - 7/1954), mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng đều
hướng tới động viên cao nhất sức mạnh của nhân dân kháng chiến, kiến quốc vì mục tiêu giành độc lập, thống nhất Tổ quốc
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng vừa lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực
cánh sinh để giải phóng dân tộc, vừa lãnh đạo phát triển chế độ dân chủ nhân dân, động viên toàn dân ra sức tăng gia sản xuất
phục vụ kháng chiến, bồi dưỡng sức dân; có chính sách thiết thực điều hịa lợi ích của các giai cấp, giai tầng trong xã hội.
Đường lối kháng chiến, kiến quốc đúng đắn của Đảng cùng với sự chỉ đạo nhạy bén, sáng tạo và phát huy vai trò tiền phong
gương mẫu của cán bộ, đảng viên trên các mặt trận, đã thực sự làm cho nhân dân thấu hiểu hết cuộc kháng chiến, kiến quốc do
Đảng lãnh đạo thực sự đem lại lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài cho họ và con cháu sau này. Vì thế cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược đã thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, nhân dân đã quyết tâm kháng chiến với


tinh thần “thà chết tự do hơn sống làm nô lệ”. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã thắng lợi là một tất yếu lịch
sử.
Thời kỳ 1954 - 1975, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Đảng chủ
trương tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, tiến tới hồ bình, độc lập, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở mỗi miền và cả
nước, Đảng có đường lối, chính sách cụ thể, phù hợp lợi ích, nguyện vọng, khả năng cách mạng của nhân dân mỗi miền và cả
nước, hướng tới thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng mỗi miền và cả nước. Đường lối chung của cách mạng Việt
Nam và đường lối cách mạng mỗi miền phù hợp khơng chỉ đối với lợi ích, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam mà còn phù
hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thế giới. Do đó khơng chỉ huy động được cao nhất sức mạnh toàn thể nhân dân
Việt Nam tham gia cuộc đấu tranh cách mạng mà còn tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ của tồn thể nhân dân tiến
bộ, u chuộng hịa bình trên thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, tạo thành sức mạnh tổng
hợp làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, với khẩu hiệu “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”,
Đảng chỉ ra mục tiêu, phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thời, Đảng có nhiều cố gắng chăm lo đời
sống nhân dân. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, Đảng ta đã phạm phải sai lầm về một số chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, thể hiện trong giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân,
tập thể, cộng đồng chưa đúng đắn. Do đó, chưa khơi dậy được đầy đủ nguồn sức mạnh và sức sáng tạo to lớn của nhân dân trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Khắc phục hạn chế đó, Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI (12/1986), Đảng ta xác định “Mọi chủ trương, chính sách
của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng
ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của
Đảng. Đồng thời, Đảng tin tưởng rằng “Nhân dân ta rất cách mạng, có những phẩm chất rất quý báu, trải qua trên nửa thế kỷ
chiến đấu liên tục, chịu đựng biết bao hy sinh, gian khổ, luôn luôn nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lao động cần cù,
chiến đấu dũng cảm vì độc lập, tự do của Tổ quốc và vì chủ nghĩa xã hội. Trong hồn cảnh Đảng có sai lầm, khuyết điểm,
nhân dân vẫn thiết tha mong đợi Đảng khắc phục sai lầm, đưa đất nước tiến lên” 2. Đảng đã hướng mọi hoạt động của mình vào
việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới tồn diện và khơng ngừng bổ sung phát triển, hoàn chỉnh cho phù hợp với
thực tiễn đất nước, lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Đồng thời, hướng toàn bộ hoạt động thực tiễn của Đảng
vào công tác vận động và tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới vì mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với những nỗ lực khơng ngừng trong tồn bộ hoạt
động của Đảng, Nhà nước, của cán bộ, đảng viên, đã lôi cuốn được tồn thể nhân dân tham gia tích cực, sáng tạo, đẩy mạnh cơng
cuộc đổi mới tồn diện, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ thực tiễn trên cho thấy, khi nào Đảng quan tâm lợi
ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, quán triệt đầy đủ vào trong toàn bộ đường lối, chủ trương chính sách và hoạt động thực
tiễn của mình thì khi đó Đảng phát huy được nguồn sức mạnh to lớn của nhân dân thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ cách
mạng đặt ra.

Câu 3: Nội dung nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH trong giai đoạn cách mạng XHCN. Phân tích nội dung: Tiếp
tục kiên định con ng i lờn CNXH?
Tr li:

2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kin HB toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hµ Néi, 1987, tr. 29.


Sau 30/4/1975, cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt
Nam, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hòa quyện vào nhau. Dân tộc Việt Nam là dân tộc xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ
mới, Đảng ta ln kiên trì, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là nền tảng của mọi chiến lược, sách
lược trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Từ lý luận, thực tiễn Việt Nam và thế giới trong những năm qua, đã khẳng định trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa phải tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không thể chỉ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã
hội, hạ thấp ngọn cờ độc lập dân tộc hoặc ngược lại. Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ bị thất bại.
1.3.2. Nội dung nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Một là, tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa
chọn.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đã kiểm nghiệm, chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm cho
độc lập bền vững và cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Vì vậy, đổi mới là làm cho chủ nghĩa xã hội tiếp tục được
nhận thức đầy đủ hơn, được thực hiện bằng những nội dung, hình thức mới, làm cho chủ nghĩa xã hội sống động, phát triển
chứ không phải thay đổi chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong thời gian qua tuy có nhiều khó khăn, thậm
chí có lúc tưởng chừng không thể vượt qua nổi. Đặc biệt là tác động từ sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
và Liên Xô đã ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân. Nhưng do kiên trì với những nguyên tắc căn bản
của chủ nghĩa xã hội, cho nên cách mạng Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, liên tiếp giành được những thành tựu to lớn,
giữ vững ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế cao, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện… qua đó chứng tỏ đường
lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là đúng đắn,
ngày càng phát huy hiệu quả to lớn.
Vì vậy, bên cạnh việc khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, là tất yếu khách quan và có thể thực hiện được,
chúng ta cần phê phán những biểu hiện lệch lạc, dao động, hoài nghi, suy giảm lòng tin mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, phê phán những khuynh hướng nhân danh đổi mới, tìm kiếm con đường phát triển đất nước để lái con đường cách
mạng Việt Nam theo con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ, chủ nghĩa tư bản…
Hai là, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sự vận dụng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quy luật dựng nước
đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm lịch sử vào điều kiện mới.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011) của Đảng đều xác
định đúng đắn và ngày càng rõ hơn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội phải nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết để giữ vững độc
lập dân tộc. Mặt khác, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ

cuộc sống của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển ổn định, vững chắc.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, cần phải đổi mới tư duy về kết hợp hai nhiệm vụ đó
cho phù hợp với đặc điểm tình hình mới. Hiện nay, phải tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tốc độ xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Trong xây dựng đã chứa đựng nội dung bảo vệ, xây dựng đất nước đạt hiệu quả, tạo điều kiện bảo vệ Tổ


quốc. Do đó, phải tăng cường sức mạnh đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, bảo vệ tốt sẽ tạo điều kiện để
xây dựng có hiệu quả.
Kết hợp xây dựng và bảo vệ trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phịng, an ninh và đối
ngoại. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của mọi cấp, mọi ngành. Sự kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay phải được quán triệt trong đường lối, chủ trương, chính sách, trong quy hoạch, kế hoạch cụ thể, từ Trung ương
đến địa phương.
Trong khi thực hiện sự kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quân và dân ta cần phải phê
phán tư tưởng và hành động muốn tuyệt đối hóa một nhiệm vụ nào đó, hoặc tách rời mối quan hệ mật thiết hai nhiệm vụ chiến
lược đó với nhau.
Ba là, nắm vững và vận dụng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, định ra đường lối, phương
pháp cách mạng đúng.
Chủ nghĩa xã hội khơng có mơ hình chung, nhưng có quy luật chung, nguyên tắc chung mà bất cứ ở đâu cũng phải tuân
theo, đó là những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa xã hội lại xây dựng trên mỗi quốc gia, dân tộc với
những đặc điểm lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hóa khác nhau. Vì vậy, Đảng Cộng sản cầm quyền ở mỗi nước phải biết vận dụng
sáng tạo những quy luật phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước để định ra đường lối, phương pháp
cách mạng phù hợp.
Đối với nước ta, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta khẳng định lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam chỉ đạo cách mạng nước ta. Đó là cơ sở lý luận để định ra đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Muốn vậy, địi hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn qn khơng ngừng nắm vững, có hệ thống, toàn diện bản chất cách
mạng, khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; biết vận dụng, phát triển sáng tạo trong điều kiện cụ thể Việt
Nam, để từng bước hình thành nên tư duy mới, quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. đồng thời chúng ta phải phê phán, đấu tranh với các quan điểm sai trái, góp phần bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng.
Bốn là, phát huy mọi nguồn lực trong nước, ngoài nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực chất, đó là sự kết hợp nội lực với ngoại lực nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Phát huy nội lực có ý nghĩa quyết định, yếu tố ngoại lực rất quan trọng, nhưng phải thơng qua các yếu tố
bên trong mới có thể phát huy được tác dụng.
Nguồn lực bên trong bao gồm các yếu tố lịch sử, truyền thống dân tộc; đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn;
thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại do công cuộc đổi mới đưa lại; tài nguyên đất
nước, tinh thần lao động cần cù, thông minh, sáng tạo của nhân dân.
Nguồn lực bên ngoài là, sự phát triển của khoa học, công nghệ trên thế giới; tinh thần đoàn kết, hợp tác quốc tế; xu hướng
tồn cầu hóa, hợp tác kinh tế quốc tế, phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Vì sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải chủ động thực hiện sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Muốn vậy, Đảng, Nhà nước phải định ra đường lối đối nội, đối ngoại, chủ trương, chính sách, chỉ đạo sự kết hợp đó có
hiệu quả. Phải phát huy tính năng động, tự chủ, sáng tạo của mọi cấp, mọi ngành trong quá trình mở rộng hợp tác quốc tế, nhất
là lĩnh vực kinh tế.


Quá trình thực hiện sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại không thể trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài; khắc
phục tư tưởng tự ti dân tộc, hoặc tư tưởng nước lớn trong quan hệ quốc tế. Giữ vững độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia trong
quá trình thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
ý 2:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra 5 bài
học lớn của cách mạng Việt Nam, trong đó có bài học “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” đến Đại
hội XI của Đảng đã yêu cầu phải “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH”, coi đây là một nội dung của cơng tác
xây dựng Đảng về chính trị, của việc nâng cao bản lĩnh chính trị của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên trong giai
đoạn cách mạng mới, giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lê Nin và đã tìm
thấy ở Chủ nghĩa Mác- Lê Nin “Con đường cách mạng vô sản”. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản” Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ, “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hồn tồn” “có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân

mình mỗi ngày một no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiền đề đặt
nền móng cho việc hình thành nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ, là sự lựa chọn nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và nhân dân ta trong suốt hơn 85 năm qua. Dù trong hoàn cảnh nào, lúc thuận lợi hay khó khăn, kể cả khi trong
tình thế “hiểm nghèo”, Đảng ta vẫn không rời xa mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi vì con đường xã
hội chủ nghĩa là con đường đúng đắn, phù hợp với quy luật và xu thế phát triển của thời đại, phù hợp quy luật, phù hợp với
lịng dân. Chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm dân tộc độc lập thực sự, đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mới thực hiện được mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động
và của cả dân tộc Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng, ln gắn bó mật
thiết với nhân dân, dày dạn trong đấu tranh cách mạng, hồn tồn có khả năng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, điều kiện tiên quyết, yếu tố quyết định là Đảng phải vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải là một đảng là đạo đức là văn minh; phải tiếp tục coi trọng công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới, đặc biệt là phải thực hiện tốt
Nghị quyết trung ương 4 khóa XI về “một số vấn đề cấp bách xây dựng đảng hiện nay”. Toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên
phải kiên định Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên
định đường lối đổi mới, khơng dao động trong bất kỳ khó khăn và thử thách nào, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu
diễn biến hịa bình của các thế lực thù địch.
Câu 4: Nội dung cơ bản của bài học sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Phân tích kinh
nghiệm: Đảng phải có chủ trương, biện pháp đúng đắn nhằm phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân. Ý nghĩa
hiện thực của vấn đề?
Trả lời:
2.2.1. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân
Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng, lãnh đạo từ năm 1930 đến
nay. Cuộc cách mạng đó đã lơi cuốn được đơng đảo nhân dân tham gia, làm nên những phong trào cách mạng rộng lớn và


giành được những thắng lợi vĩ đại. Có được thành quả đó là nhờ hoạt động lãnh đạo của Đảng trong mỗi thời kỳ, trên từng lĩnh
vực và suốt quá trình đã đáp ứng đúng nhu cầu lợi ích, nguyện vọng chính đáng của tồn thể nhân dân, đặc biệt là lợi ích giai cấp
cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất và năng lực, ln ln gương mẫu, dũng

cảm, đi đầu trong đấu tranh, hy sinh quên mình vì quyền lợi tối cao của đất nước, dân tộc và quần chúng nhân dân lao động,
được nhân dân hết lòng tin tưởng, một lòng một dạ đi theo Đảng, theo cách mạng.
Lợi ích, nguyện vọng chân chính của nhân dân vừa là mục tiêu phấn đấu của Đảng, vừa là động lực thúc đẩy nhân dân
hăng hái, sáng tạo trong đấu tranh giải phóng dân tộc và trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng lôi
cuốn được đông đảo nhân dân tham gia phong trào cách mạng trước hết là Đảng có đường lối, chính sách đúng, phù hợp ý
Đảng lịng dân. Đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng không chỉ phản ánh sự vận dụng sáng tạo lý luận MácLênin vào thực tiễn Việt Nam, phù hợp xu thế của thời đại, mà còn phản ánh được đúng nguyện vọng, lợi ích chân chính và
khả năng thực hiện của quần chúng nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích giữa cá nhân, tập thể, cộng đồng; thống nhất được
quyền lợi và nghĩa vụ của quần chúng nhân dân; quan tâm hết thảy lợi ích chân chính của mọi giai cấp, giai tầng trong xã hội.
Cán bộ, đảng viên của Đảng là người có trí tuệ, ln ln tiên phong, gương mẫu trong hành động cách mạng và đạo đức, lối
sống; thực sự là đầy tớ trung thành với lợi ích của nhân dân. Thực tiễn q trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng
minh:
Từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập cho dân
tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày. Nhiệm vụ đó khơng chỉ đáp ứng đúng lợi ích, nguyện vọng của giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng
dân Việt Nam, mà cịn đáp ứng lợi ích tối cao của các tầng lớp, giai cấp khác là giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Trong mỗi thời
kỳ cách mạng, Đảng lại có chủ trương, chính sách, phương pháp cách mạng cụ thể phù hợp với khả năng và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân. Vì vậy, đã khơi dậy được động lực to lớn của quần chúng nhân dân trong phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo.
2.2.2. Đảng phải có chủ trương, biện pháp đúng đắn nhằm phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân trong mỗi giai
đoạn cách mạng
Sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân thời kỳ nào cũng to lớn. Nhưng để khơi dậy, quy tụ được nguồn sức mạnh đó và hướng
vào thực hiện thành cơng các mục tiêu, nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng lại phụ thuộc vào chủ trương, chính
sách, biện pháp đúng đắn của Đảng.
Dân tộc ta dưới thời phong kiến, mặc dù còn những hạn chế bởi thời đại lịch sử, nhưng ơng cha ta đã có chính sách, biện
pháp thích hợp để huy động sức mạnh tồn dân, cả nước vào công cuộc dựng nước và giữ nước, như chính sách “Ngụ binh ư
nơng”, “ Bách tính giai binh”, chăm lo phát triển kinh tế “Khoan thư sức dân”…vv
Cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã chứng minh giai đoạn cách mạng nào Đảng ta có chủ trương, chính sách,
biện pháp lãnh đạo và tổ chức quần chúng phù hợp thì khi đó tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, giác ngộ, tổ chức, phát
huy được tài năng, sức mạnh của quần chúng đấu tranh, thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.
Như vậy, phát huy nguồn sức mạnh và sức sáng tạo của quần chúng nhân dân đến đâu trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cách

mạng phụ thuộc trước hết vào chủ trương, chính sách, biện pháp đúng đắn của Đảng ta. Do vậy, trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi
Đảng phải được xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trước hết là sự vững mạnh về chính trị, có đủ năng
lực hoạch định đường lối, chủ trương chính sách đúng đắn, biện pháp tổ chức thực hiện thích hợp vừa tầm đưa sự nghiệp đổi
mới tiến lên.


2.2.3. Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân, kiên quyết đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu, mệnh
lệnh, xa rời nhân dân
Nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Thường xuyên củng cố, tăng cường
mối liên hệ với quần chúng nhân dân là một quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là điều kiện bảo đảm cho sự
thành công của cách mạng. V.I.Lênin đã nhiều lần nhắc nhở, nguồn gốc chủ yếu sức mạnh của Đảng là ở mối liên hệ mật thiết
với quần chúng, đội tiên phong chỉ làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình khi nó biết gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và
thật sự dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Người nhấn mạnh, đối với Đảng “một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ
nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”3.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ
máu thịt với nhân dân. Đảng luôn gần dân, hiểu dân, vận động, giác ngộ và tổ chức nhân dân đấu tranh cách mạng vì lợi ích
của Tổ quốc và nhân dân. Do đó, nhân dân ln ln dành cho Đảng tình cảm thiêng liêng, tốt đẹp nhất. Những khi cách
mạng gặp khó khăn, cán bộ, đảng viên hoạt động trong vùng địch hậu đều được nhân dân đùm bọc, che chở để lãnh đạo
phong trào. Những khi Đảng phạm sai lầm, khuyến điểm cũng được nhân dân chân tình cảm thơng, giúp đỡ để Đảng sửa
chữa. Do đó, Đảng ta có được sức mạnh chiến đấu, lãnh đạo cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Ý 2.
Tám mươi năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, dân tộc
ta đã vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vĩ đại trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng,
phát triển đất nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa nhân dân thốt khỏi cảnh nơ lệ lầm than, giành độc lập cho đất nước,
mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng
Tháng Tám 1945, giải phóng miền Bắc, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách mạng nước ta
bước sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục tiến hành cách mạng giải phóng ở miền
Nam.

Trải qua 21 năm chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hồn
tồn miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo
dài hơn một thế kỉ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trên cả nước, non sông thu về một mối. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi vĩ đại nhất trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đánh dấu bước ngoặt quyết định cho dân tộc Việt Nam
tiến vào kỉ nguyên mới- kỉ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Sau 30 năm chiến tranh giải phóng, cả nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một cuộc chiến đấu
“khổng lồ” để loại bỏ những gì cũ kỹ lạc hậu, tạo ra những giá trị “mới mẻ, tốt tươi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn
mạnh.
Trong buổi đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ đổi mới, dân tộc ta phải đối diện với bao thách
thức, khó khăn gay gắt cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức
3

V.I Lªnin Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr. 426.


tạp và tình hình đất nước gặp mn vàn khó khăn, các thế lực thù địch không ngừng chống phá, nhưng với bản lĩnh kiên
cường của một chính đảng cách mạng và khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định mục tiêu mà Đảng, nhân dân đã lựa
chọn, giữ vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng gió, tiếp tục tiến lên, tiến hành công cuộc đổi
mới đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đảng đã đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối cách mạng một cách đúng đắn,
sáng tạo, bước đầu hình thành một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khai phá con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tế nước ta, kế thừa và phát huy giá trị văn hoá và bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của
một quá trình trăn trở, tìm tịi, tổng kết, đổi mới tư duy lí luận, nhận thức đúng đắn hơn về thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Đảng ngày càng trưởng thành và có thêm kinh nghiệm lãnh đạo nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới.
Xuyên suốt chặng đường hoạt động cách mạng 80 năm qua, trong các Cương lĩnh (từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 đến
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1991), hay trong mọi chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng đều thể hiện rất rõ, Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh cho tự do độc lập dân tộc và hạnh
phúc của nhân dân. Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, và vì
nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân

dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”[1].
Sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng cũng như những phương hướng cơ bản trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc mà Cương lĩnh 1991 của Đảng xác định đều tốt lên vị trí, vai trị của nhân dân; đều
nhằm giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất cơng, hướng tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mỗi cá
nhân đều có điều kiện phát triển tồn diện; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân[2].
Triển khai đường lối đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách bảo đảm và khơng ngừng nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân; quyền dân chủ chính trị của nhân dân được khơi dậy, tơn trọng và ngày càng đề cao. Chính sách
xã hội thời kỳ đổi mới hướng vào phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo cơng bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ công dân; kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa
đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội. Đặc biệt, đã tạo được
những thành tựu lớn trong thực hiện chiến lược quốc gia xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm, được thế giới ghi nhận và
đánh giá cao. Đồng thời, đã kết hợp tốt các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân, xây dựng nhiều cơng trình kết cấu hạ tầng
kinh tế, văn hóa, xã hội cho các vùng, miền. Chính trị- xã hội ổn định; quốc phịng an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại
có những bước phát triển mới, đã tạo thêm môi trường thuận lợi để Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt hơn
các chương trình, mục tiêu phát triển đất nước.


Qua gần 25 năm đổi mới, đất nước đã vượt qua thử thách hiểm nghèo, phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để tiếp tục đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi
mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tất cả thực tiễn phong phú, sôi động, hào hùng của dân tộc ta trong 80 năm qua ngày càng khẳng định rõ hơn nhận định của
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Đảng vừa tròn 30 tuổi:
"Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hồ bình ấm no”[3]...

Đảng ta thật là vĩ đại là bởi vì ”ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc Đảng ta khơng có lợi ích gì khác" [4].
Đảng ta vĩ đại, trước hết chính vì Đảng tiêu biểu cho sức mạnh trí tuệ của giai cấp cơng nhân hiện đại, cho tiềm lực tinh thần
truyền thống của dân tộc và tiếp thu được những tinh hoa của văn hoá nhân loại. Ngay từ khi thành lập, sức mạnh của Đảng
nằm ngay trong ba yếu tố hợp thành của Đảng: chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, là tổ chức của những chiến sĩ ưu tú nhất của giai cấp công nhân và của toàn
thể dân tộc.
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp cơng nhân, tuyệt đối trung thành
với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, coi đó là điểm xuất phát của mọi đường lối, chủ trương của Đảng. Ngay Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thơng qua tại Hội nghị thành lập Đảng phản ánh
đúng quy luật khách quan, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn, vạch ra được mục
tiêu, phương hướng và giải pháp cơ bản của cách mạng. Từ đó tiến hành tập hợp, tổ chức, động viên toàn thể nhân dân biến
đường lối của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng. Tinh thần cơ bản của bản Cương lĩnh ấy được phát triển, cụ
thể hoá đáp ứng những nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và từng
bước xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì"[5]. Mục tiêu của Đảng là làm cho mọi người dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành, được sống ấm no và sung sướng; mang lại quyền làm chủ về kinh tế, xã hội cũng là thước đo trình độ giải
phóng xã hội, sự phát triển của xã hội.
Khi đã giành được độc lập dân tộc và có chính quyền do nhân dân lao động làm chủ thì đó cịn là phát huy quyền làm chủ đất
nước của nhân dân để xây dựng chế độ xã hội mới; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức và đưa quần chúng nhân dân
vào hành động cách mạng một cách tự giác.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng đã mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đổi
mới dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phát huy quyền làm chủ và sức sáng tạo của nhân dân là một bài học thành
cơng của Đảng. Tăng cường khối đại đồn kết tồn dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là
nguồn gốc sức mạnh trong mọi thời kì cách mạng và có ý nghĩa cực kì quan trọng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.


Lịch sử tám mươi năm xây dựng và phát triển của Đảng đã chứng tỏ, cội nguồn sức mạnh của Đảng không chỉ thể hiện ở chỗ
mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát vì lợi ích của nhân dân mà cịn thể hiện Đảng ln ln gắn bó chặt chẽ với nhân dân,
được nhân dân tin tưởng, ủng hộ và che chở. Liên hệ mật thiết với nhân dân đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của Đảng và

cũng là cội nguồn sức mạnh của Đảng trong 80 năm qua. Chính từ thực tiễn cách mạng, Đảng đã nhận thức sâu sắc: "Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi
Đảng đã tổ chức và phát huy được lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”[6] .
Là một Đảng cách mạng vì nhân dân, trước hết, đường lối chính trị của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Lãnh tụ
Hồ Chí Minh coi việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng khơng chỉ là cơng việc của bản thân Đảng mà còn phải biết
phát huy trí tuệ của tồn dân vào việc xây dựng đường lối của Đảng: "Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo
luận và tìm cách giải quyết"[7]. "Nghị quyết gì mà dân chúng cho là khơng hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của
dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta"[8]. Đảng khơng chỉ có đường lối chính trị xuất phát từ lợi ích chính đáng của
quảng đại đa số nhân dân, mà còn thể hiện ở trong tổ chức của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ln đặt lợi
ích của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, đó cũng chính là ngun nhân sâu xa làm nên sức mạnh đoàn kết rất đáng tự hào
của Đảng ta, đã tạo nên uy tín lãnh đạo của Đảng đối với toàn dân tộc; làm cho Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu mến,
dân giúp đỡ, ủng hộ và bảo vệ.
Sức mạnh và uy tín của Đảng khơng chỉ ở đường lối chính trị với mục vì dân mà cịn thể hiện ở đức hy sinh, sẵn sàng xả thân
vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc của hàng triệu các thế hệ đảng viên trong sự nghiệp cách mạng, đặc biệt trong đấu tranh
giành chính quyền cách mạng và trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Chỉ riêng cuộc “khủng bố trắng” của thực dân Pháp trong
những năm 1931-1932 đã có hàng vạn cán bộ, đảng viên và những người yêu nước bị giam cầm, tù đầy, bị giết. Nhiều đồng
chí lãnh đạo xuất sắc của Đảng như Trần Phú, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà
Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần… đã bị sát hại. Các nhà tù lớn của địch như Côn Đảo, Sơn La, Hoả Lị, Lao Bảo,..
giam chật ních những người cộng sản; riêng ở nhà tù Cơn Đảo có đến 793 đồng chí hi sinh; ở Kon Tum có 339 đồng chí bị thủ
tiêu. Mười lăm năm đấu tranh trước Cách mạng tháng Tám và trong tám, chín năm kháng chiến biết bao đảng viên ưu tú và
quần chúng cách mạng đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh một cách cực kỳ oanh liệt. Chỉ riêng cấp Trung ương của Đảng đã có 14
đồng chí bị thực dân Pháp bắn, chém hoặc đánh chết trong nhà tù. Trong 31 đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng khóa II,
trước ngày khởi nghĩa phải chịu tới 222 năm tù đày của thực dân Pháp. Đó là khơng kể những án tử hình vắng mặt và những
cuộc vượt ngục trước khi hết hạn ở tù. Trong những năm 1954-1959, ở miền Nam có 466.000 đảng viên và những người yêu
nước bị bắt giam, 400.000 người bị đưa đi đày và 68.000 người bị giết. Riêng trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mĩ đã có gần 160.000 đảng viên hy sinh..."Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hi sinh anh
dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”[9].
Nhìn lại chặng đường đấu tranh đầy khó khăn, thử thách nhưng vô cùng oanh liệt của Đảng ta trong tám thập kỉ qua, chúng ta
càng thấm thía bài học ”lấy dân làm gốc”, trân trọng quá khứ, nâng niu giữ gìn những thành quả cách mạng của cách mạng,
càng thấm thía và biết ơn vơ hạn cơng lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ đảng viên đó xả thân vì nền độc lập,

thống nhất của đất nước, càng thêm tự hào về Đảng ta, nhân dân và dân tộc ta.


Khi tổng kết những kinh nghiệm quý sau 20 năm đổi mới, một trong những bài học quan trọng hàng đầu được Đại hội X của
Đảng đúc kết là bài học “lấy dân làm gốc”: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân
và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trị quan trọng trong việc hình thành đường lối
đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng
bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành cơng”[10].
Kỉ niệm ngày thành lập Đảng năm nay, tồn Đảng, tồn dân và tồn qn ta vơ cùng phấn khởi trước những thành tựu to lớn
có ý nghĩa lịch sử của gần 25 năm đổi mới. Đất nước đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn thử thách trong thời kỳ đổi mới để
giữ vững ổn định và tiếp tục phát triển theo hướng nhanh và bền vững. Những kết quả đạt được trong năm 2009 đã góp phần
nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và nâng cao hình ảnh Việt Nam trong đời sống kinh tế thế giới. Nhận thức sâu
sắc rằng, phía trước cịn khơng ít thách thức, chơng gai bởi những yếu kém vốn có của một nền kinh tế đang chuyển đổi; bởi
những tiêu cực xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; bởi những mưu toan thâm độc của các thế lực thù địch chống phá cách
mạng nước ta. Song, trong hành trang bước vào thập kỉ thứ hai của thế kỉ XXI, đất nước ta có được những thành tựu và kinh
nghiệm của một Đảng đã có tám thập kỷ lãnh đạo cách mạng, đặc biệt gần 25 năm lãnh đạo đường lối đổi mới đất nước, được
dân tin, dân yêu và hết lòng xây dựng, bảo vệ Đảng. Với một Đảng có bề dày truyền thống và bản lĩnh cách mạng kiên cường,
với tất cả những gì tồn Đảng và toàn dân ta đã được tạo dựng trong 80 năm qua là cơ sở cực kỳ quan trọng, bồi đắp niềm tin
vào Đảng, cổ vũ toàn dân tộc, biến mục tiêu lý tưởng của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân, đưa đất
nước ta tiến bước vững vàng trong tiến trình đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Câu 5. Nội dung nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH trong giai đoạn cách mạng XHCN. Phân tích nội dung: Thực hiện thắng
lợi hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Trách nhiệm của bản thân?
Trả lời:
Sau 30/4/1975, cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt
Nam, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hòa quyện vào nhau. Dân tộc Việt Nam là dân tộc xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ
mới, Đảng ta ln kiên trì, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là nền tảng của mọi chiến lược, sách
lược trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Từ lý luận, thực tiễn Việt Nam và thế giới trong những năm qua, đã khẳng định trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa phải tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không thể chỉ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã

hội, hạ thấp ngọn cờ độc lập dân tộc hoặc ngược lại. Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ bị thất bại.
1.3.2. Nội dung nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Một là, tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa
chọn.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đã kiểm nghiệm, chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm cho
độc lập bền vững và cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Vì vậy, đổi mới là làm cho chủ nghĩa xã hội tiếp tục được
nhận thức đầy đủ hơn, được thực hiện bằng những nội dung, hình thức mới, làm cho chủ nghĩa xã hội sống động, phát triển
chứ không phải thay đổi chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong thời gian qua tuy có nhiều khó khăn, thậm


chí có lúc tưởng chừng khơng thể vượt qua nổi. Đặc biệt là tác động từ sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
và Liên Xơ đã ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân. Nhưng do kiên trì với những nguyên tắc căn bản
của chủ nghĩa xã hội, cho nên cách mạng Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, liên tiếp giành được những thành tựu to lớn,
giữ vững ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế cao, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện… qua đó chứng tỏ đường
lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là đúng đắn,
ngày càng phát huy hiệu quả to lớn.
Vì vậy, bên cạnh việc khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, là tất yếu khách quan và có thể thực hiện được,
chúng ta cần phê phán những biểu hiện lệch lạc, dao động, hồi nghi, suy giảm lịng tin mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, phê phán những khuynh hướng nhân danh đổi mới, tìm kiếm con đường phát triển đất nước để lái con đường cách
mạng Việt Nam theo con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ, chủ nghĩa tư bản…
Hai là, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sự vận dụng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quy luật dựng nước
đi đơi với giữ nước của dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm lịch sử vào điều kiện mới.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011) của Đảng đều xác
định đúng đắn và ngày càng rõ hơn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội phải nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết để giữ vững độc
lập dân tộc. Mặt khác, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ

cuộc sống của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển ổn định, vững chắc.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, cần phải đổi mới tư duy về kết hợp hai nhiệm vụ đó
cho phù hợp với đặc điểm tình hình mới. Hiện nay, phải tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tốc độ xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Trong xây dựng đã chứa đựng nội dung bảo vệ, xây dựng đất nước đạt hiệu quả, tạo điều kiện bảo vệ Tổ
quốc. Do đó, phải tăng cường sức mạnh đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, bảo vệ tốt sẽ tạo điều kiện để
xây dựng có hiệu quả.
Kết hợp xây dựng và bảo vệ trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phịng, an ninh và đối
ngoại. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của mọi cấp, mọi ngành. Sự kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay phải được quán triệt trong đường lối, chủ trương, chính sách, trong quy hoạch, kế hoạch cụ thể, từ Trung ương
đến địa phương.
Trong khi thực hiện sự kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quân và dân ta cần phải phê
phán tư tưởng và hành động muốn tuyệt đối hóa một nhiệm vụ nào đó, hoặc tách rời mối quan hệ mật thiết hai nhiệm vụ chiến
lược đó với nhau.
Ba là, nắm vững và vận dụng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, định ra đường lối, phương
pháp cách mạng đúng.
Chủ nghĩa xã hội khơng có mơ hình chung, nhưng có quy luật chung, nguyên tắc chung mà bất cứ ở đâu cũng phải tuân
theo, đó là những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa xã hội lại xây dựng trên mỗi quốc gia, dân tộc với


những đặc điểm lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hóa khác nhau. Vì vậy, Đảng Cộng sản cầm quyền ở mỗi nước phải biết vận dụng
sáng tạo những quy luật phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước để định ra đường lối, phương pháp
cách mạng phù hợp.
Đối với nước ta, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta khẳng định lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam chỉ đạo cách mạng nước ta. Đó là cơ sở lý luận để định ra đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Muốn vậy, địi hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn qn khơng ngừng nắm vững, có hệ thống, tồn diện bản chất cách
mạng, khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; biết vận dụng, phát triển sáng tạo trong điều kiện cụ thể Việt
Nam, để từng bước hình thành nên tư duy mới, quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. đồng thời chúng ta phải phê phán, đấu tranh với các quan điểm sai trái, góp phần bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng.
Bốn là, phát huy mọi nguồn lực trong nước, ngoài nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực chất, đó là sự kết hợp nội lực với ngoại lực nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Phát huy nội lực có ý nghĩa quyết định, yếu tố ngoại lực rất quan trọng, nhưng phải thông qua các yếu tố
bên trong mới có thể phát huy được tác dụng.
Nguồn lực bên trong bao gồm các yếu tố lịch sử, truyền thống dân tộc; đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn;
thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại do cơng cuộc đổi mới đưa lại; tài nguyên đất
nước, tinh thần lao động cần cù, thông minh, sáng tạo của nhân dân.
Nguồn lực bên ngoài là, sự phát triển của khoa học, cơng nghệ trên thế giới; tinh thần đồn kết, hợp tác quốc tế; xu hướng
tồn cầu hóa, hợp tác kinh tế quốc tế, phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Vì sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải chủ động thực hiện sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Muốn vậy, Đảng, Nhà nước phải định ra đường lối đối nội, đối ngoại, chủ trương, chính sách, chỉ đạo sự kết hợp đó có
hiệu quả. Phải phát huy tính năng động, tự chủ, sáng tạo của mọi cấp, mọi ngành trong quá trình mở rộng hợp tác quốc tế, nhất
là lĩnh vực kinh tế.
Quá trình thực hiện sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại không thể trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài; khắc
phục tư tưởng tự ti dân tộc, hoặc tư tưởng nước lớn trong quan hệ quốc tế. Giữ vững độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia trong
q trình thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Từ nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong các kỳ đại hội,
nhất là qua gần 30 năm đổi mới, tư duy xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta có sự phát triển và đổi mới mạnh mẽ. Chúng
ta ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn về hai nhiệm vụ chiến lược, cũng như những chủ trương, biện pháp
tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước. Đại hội lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa IX) về Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đã nêu nhận thức mới về nội hàm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện tồn
cầu hóa và hội nhập quốc tế: Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo
vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và mơi
trường hịa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
tiếp tục kế thừa nội hàm bảo vệ Tổ quốc đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa IX); đồng thời chỉ rõ quan điểm,



tư tưởng chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc là: Giữ vững sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, khơng ngừng
củng cố, tăng cường khối đại đồn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là
lợi ích cao nhất của đất nước; đồng thời luôn nêu cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, xâm lược của
các thế lực thù địch; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc...
Phương châm chỉ đạo về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta xác định rõ là kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược;
linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hồ bình, trên cơ sở luật pháp quốc
tế; tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế; phân hố, cơ lập các phần tử, thế lực ngoan cố
chống phá Việt Nam; lấy việc giáo dục, thuyết phục, phịng ngừa là chính, đi đơi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý
nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật; chủ động đấu tranh với các âm mưu, hoạt động "diễn biến hồ bình" của các thế lực
thù địch, khơng để hình thành tổ chức chính trị đối lập dưới bất kỳ hình thức nào...
Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta nhìn nhận tồn diện và sâu sắc hơn. Mục tiêu kết
hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược là phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đồn kết tồn dân, của cả hệ thống chính trị,
dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối
ngoại và các lĩnh vực khác, bảo đảm kinh tếxã hội phát triển ổn định, bền vững; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sự ổn
định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng-an ninh. Phát triển kinh tếxã hội đi đơi với tăng cường sức mạnh quốc phịng, an ninh; bảo đảm quốc phòng, an ninh trở thành một trong những mục tiêu
trọng yếu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội; kinh tế phát triển, các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết, đời sống
nhân dân không ngừng được nâng cao, thực hiện tốt công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, đối ngoại được mở
rộng sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn, mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Phương thức kết hợp giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng được đổi mới và hoàn thiện theo hướng chủ động
gắn kết xây dựng với tự bảo vệ; kết hợp theo quy hoạch, kế hoạch của từng địa phương, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung
thống nhất của Trung ương; kết hợp theo khu vực, vùng lãnh thổ, ngành, lĩnh vực kinh tế-xã hội trên phạm vi toàn quốc; kết
hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh trong các dự án đầu tư, quy hoạch phát triển các vùng, các
ngành kinh tế, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm, các địa bàn chiến lược, các ngành kinh tế quan trọng.
Cùng với việc tiếp tục khẳng định vấn đề tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu
vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh, tiếp tục phát triển quan điểm Đại hội lần thứ X, Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng
định: “Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Đây là sự kế thừa, vận dụng sáng
tạo quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của nhân dân trong lịch sử; nâng lên tầm cao mới

truyền thống, bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc”, huy động sức mạnh toàn dân tộc trong lịch sử dựng nước, giữ nước hào
hùng của cha ông. Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, Đảng ta đặc biệt chú trọng trang bị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiến thức về
quốc phòng, an ninh, đồng thời cung cấp những thông tin về âm mưu, hoạt động chống phá, nhất là chiến lược “diễn biến hịa
bình” của các thế lực thù địch cũng như những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong; các mối đe doạ an ninh
truyền thống và phi truyền thống. Kiến thức về quốc phòng, an ninh cần được giáo dục, bồi dưỡng thường xuyên trong mỗi cơ
quan, tổ chức, cộng đồng dân cư. Đại hội lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu


nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho
mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như chiến tranh
bằng vũ khí cơng nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hịa bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội
phạm cơng nghệ cao, tội phạm xun quốc gia”.
Để chủ động phịng ngừa tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Đảng ta nhấn mạnh cần chăm lo xây dựng
Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh; chủ động vận dụng tư tưởng, lý luận cách mạng đánh bại tư tưởng, lý luận phản động;
lấy chính nghĩa và sự thật đánh bại sự xuyên tạc, bôi nhọ, vu cáo; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh để chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; sử dụng sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của tồn
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để phịng, chống “diễn biến hịa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong cơng tác bảo
đảm an ninh chính trị nội bộ, phải quán triệt phương châm “chủ động phịng ngừa, giữ vững bên trong là chính”; “giữ vững
bên trong” là nội dung cốt lõi của công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nâng cao khả năng “tự bảo vệ” của từng cơ quan, tổ chức,
khả năng “tự đề kháng” của mỗi cán bộ, đảng viên trước tác động của “diễn biến hịa bình” cũng như mặt trái của cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới. Mọi
âm mưu, thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch, phản động sẽ bị vơ hiệu hóa, nếu nội bộ
các cơ quan, tổ chức, đoàn thể đoàn kết thống nhất, thật sự trong sạch, vững mạnh; nếu mỗi cán bộ, đảng viên vững vàng bản
lĩnh chính trị, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư.
Đảng ta ln kiên định ngun tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân. Bảo vệ và giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định
bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Lịch sử 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cho thấy, Đảng lãnh đạo là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, được nhân dân thương yêu, đùm bọc
và giúp đỡ, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân ngày càng phát triển, trưởng thành, ln một lịng, một dạ tuyệt đối trung
thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đồn kết, tận tụy trong
cơng tác; dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hịa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thực sự là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và
nhân dân; làm tốt vai trò tham mưu với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, đường lối, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội; chủ động phịng ngừa, tấn công làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá
của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội và đối ngoại
của đất nước.
Để bảo đảm lực lượng vũ trang luôn là công cụ sắc bén, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu, thực sự là lực lượng
chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc. Tăng
cường quan hệ phối hợp giữa lực lượng Công an nhân dân với Quân đội nhân dân và các ngành, các địa phương trong thực
hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Theo đó, cần tiếp tục chăm lo, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng, trình độ
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc
phịng, cơng nghiệp an ninh; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần để Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân đủ sức hoàn thành tốt yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.


Lịch sử đã chứng minh, quy luật phát triển của đất nước ta là dựng nước luôn luôn đi đôi với giữ nước, xây dựng luôn luôn đi
đôi với bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã giành được độc lập, tự do, thống nhất đất nước và có vị thế
ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta nhất định sẽ giành thắng lợi trong công
cuộc đổi mới đất nước, xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước
đi lên chủ nghĩa xã hội như sinh thời Bác Hồ hằng mong muốn.
Câu 6. Nội dung cơ bản của bài học sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Phân tích kinh

nghiệm: Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân, kiên quyết đấu tranh khắc phục bệnh quan
liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân. Ý nghĩa hiện thực của vấn đề.
Trả lời:
2.2.1. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân
Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng, lãnh đạo từ năm 1930 đến
nay. Cuộc cách mạng đó đã lơi cuốn được đơng đảo nhân dân tham gia, làm nên những phong trào cách mạng rộng lớn và
giành được những thắng lợi vĩ đại. Có được thành quả đó là nhờ hoạt động lãnh đạo của Đảng trong mỗi thời kỳ, trên từng lĩnh
vực và suốt quá trình đã đáp ứng đúng nhu cầu lợi ích, nguyện vọng chính đáng của tồn thể nhân dân, đặc biệt là lợi ích giai cấp
cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất và năng lực, luôn luôn gương mẫu, dũng
cảm, đi đầu trong đấu tranh, hy sinh quên mình vì quyền lợi tối cao của đất nước, dân tộc và quần chúng nhân dân lao động,
được nhân dân hết lòng tin tưởng, một lòng một dạ đi theo Đảng, theo cách mạng.
Lợi ích, nguyện vọng chân chính của nhân dân vừa là mục tiêu phấn đấu của Đảng, vừa là động lực thúc đẩy nhân dân
hăng hái, sáng tạo trong đấu tranh giải phóng dân tộc và trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng lôi
cuốn được đông đảo nhân dân tham gia phong trào cách mạng trước hết là Đảng có đường lối, chính sách đúng, phù hợp ý
Đảng lòng dân. Đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng không chỉ phản ánh sự vận dụng sáng tạo lý luận MácLênin vào thực tiễn Việt Nam, phù hợp xu thế của thời đại, mà còn phản ánh được đúng nguyện vọng, lợi ích chân chính và
khả năng thực hiện của quần chúng nhân dân; kết hợp hài hịa các lợi ích giữa cá nhân, tập thể, cộng đồng; thống nhất được
quyền lợi và nghĩa vụ của quần chúng nhân dân; quan tâm hết thảy lợi ích chân chính của mọi giai cấp, giai tầng trong xã hội.
Cán bộ, đảng viên của Đảng là người có trí tuệ, ln ln tiên phong, gương mẫu trong hành động cách mạng và đạo đức, lối
sống; thực sự là đầy tớ trung thành với lợi ích của nhân dân. Thực tiễn quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng
minh:
Từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập cho dân
tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày. Nhiệm vụ đó khơng chỉ đáp ứng đúng lợi ích, nguyện vọng của giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân Việt Nam, mà cịn đáp ứng lợi ích tối cao của các tầng lớp, giai cấp khác là giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Trong mỗi thời
kỳ cách mạng, Đảng lại có chủ trương, chính sách, phương pháp cách mạng cụ thể phù hợp với khả năng và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân. Vì vậy, đã khơi dậy được động lực to lớn của quần chúng nhân dân trong phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo.
2.2.2. Đảng phải có chủ trương, biện pháp đúng đắn nhằm phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân trong mỗi giai
đoạn cách mạng
Sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân thời kỳ nào cũng to lớn. Nhưng để khơi dậy, quy tụ được nguồn sức mạnh đó và hướng

vào thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng lại phụ thuộc vào chủ trương, chính
sách, biện pháp đúng đắn của Đảng.


Dân tộc ta dưới thời phong kiến, mặc dù còn những hạn chế bởi thời đại lịch sử, nhưng ông cha ta đã có chính sách, biện
pháp thích hợp để huy động sức mạnh tồn dân, cả nước vào cơng cuộc dựng nước và giữ nước, như chính sách “Ngụ binh ư
nơng”, “ Bách tính giai binh”, chăm lo phát triển kinh tế “Khoan thư sức dân”…vv
Cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã chứng minh giai đoạn cách mạng nào Đảng ta có chủ trương, chính sách,
biện pháp lãnh đạo và tổ chức quần chúng phù hợp thì khi đó tập hợp được đơng đảo quần chúng nhân dân, giác ngộ, tổ chức, phát
huy được tài năng, sức mạnh của quần chúng đấu tranh, thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.
Như vậy, phát huy nguồn sức mạnh và sức sáng tạo của quần chúng nhân dân đến đâu trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cách
mạng phụ thuộc trước hết vào chủ trương, chính sách, biện pháp đúng đắn của Đảng ta. Do vậy, trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi
Đảng phải được xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trước hết là sự vững mạnh về chính trị, có đủ năng
lực hoạch định đường lối, chủ trương chính sách đúng đắn, biện pháp tổ chức thực hiện thích hợp vừa tầm đưa sự nghiệp đổi
mới tiến lên.
2.2.3. Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân, kiên quyết đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu, mệnh
lệnh, xa rời nhân dân
Nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Thường xuyên củng cố, tăng cường
mối liên hệ với quần chúng nhân dân là một quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là điều kiện bảo đảm cho sự
thành công của cách mạng. V.I.Lênin đã nhiều lần nhắc nhở, nguồn gốc chủ yếu sức mạnh của Đảng là ở mối liên hệ mật thiết
với quần chúng, đội tiên phong chỉ làm trịn sứ mệnh lịch sử của mình khi nó biết gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và
thật sự dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Người nhấn mạnh, đối với Đảng “một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ
nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”4.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ
máu thịt với nhân dân. Đảng luôn gần dân, hiểu dân, vận động, giác ngộ và tổ chức nhân dân đấu tranh cách mạng vì lợi ích
của Tổ quốc và nhân dân. Do đó, nhân dân ln ln dành cho Đảng tình cảm thiêng liêng, tốt đẹp nhất. Những khi cách
mạng gặp khó khăn, cán bộ, đảng viên hoạt động trong vùng địch hậu đều được nhân dân đùm bọc, che chở để lãnh đạo
phong trào. Những khi Đảng phạm sai lầm, khuyến điểm cũng được nhân dân chân tình cảm thơng, giúp đỡ để Đảng sửa
chữa. Do đó, Đảng ta có được sức mạnh chiến đấu, lãnh đạo cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Ý 2:


Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân chính
là nguồn gốc chủ yếu tạo nên sức mạnh của Đảng, của dân tộc, là một trong những
điều kiện quan trọng làm cho Đảng ta giữ vững được vai trò lãnh đạo.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến mối quan hệ giữa cán bộ, đảng
viên với nhân dân. Vì thế, trong nhiều bài nói, bài viết Bác Hồ thường dạy chúng ta
sự nghiệp cách mạng của Đảng là vô cùng to lớn nếu khơng biết dựa vào dân thì
Đảng có tài giỏi mấy cũng khó có thể làm nổi. Trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do,
vì hịa bình, thống nhất đất nước, Bác chỉ rõ : "Đảng ta có đường lối chính trị đúng
đắn được nhân dân ủng hộ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên làm tiên phong chiến đấu,
gắn bó chặt chẽ với nhân dân đã trở thành nguồn cách mạng và truyền thống vô
cùng quý báu của cách mạng Việt Nam" (1).
Bác nhắc mọi người phải cảnh giác, đề phòng, ngăn ngừa những hành vi quan liờu,
4

V.I Lênin Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bé, Matxc¬va, 1978, tr. 426.


hách dịch, cửa quyền, xa rời quần chúng…bằng cách phải ln gắn bó chặt chẽ với
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh. Bác nhắc nhở nếu cán bộ, đảng viên mắc bệnh quan liêu, xa rời quần chúng
thì có mắt mà chả thấy suốt, có tai mà khơng nghe thấu, có chế độ mà khơng giữ
đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, cán bộ kém tha
hồ mà tham ơ, lãng phí...
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ máu thịt giữa cán bộ, đảng viên
với nhân dân, hơn 80 năm qua Đảng ta ln xác định rõ vị trí, vai trị của mối quan
hệ đó đối với sự nghiệp cách mạng, coi mối quan hệ đó là nguồn gốc sức mạnh, là
quy luật phát triển và tồn vong của Đảng, của chế độ ta. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi
mới, Đảng ta luôn thắt chắt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nhờ đó, cán bộ,
đảng viên xây dựng được bản lĩnh, lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định trước

khó khăn, thách thức; có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh; luôn nêu cao
tinh thần trách nhiệm, về phịng chống tham nhũng, lãng phí gắn với thực hiện cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; nhất là, biết dựa
vào dân, biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, nên Đảng ta đã
giành được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đã đạt được của công cuộc đổi mới đã làm
thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước thì hiện nay trong Đảng và xã hội ta,
bên cạnh số đông cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng,
trước nhân dân, không sợ khó khăn gian khổ, tận tụy hy sinh, gương mẫu, tích cực,
hồn thành mọi nhiệm vụ được giao, được Đảng tin u, được nhân dân mến phục
vẫn cịn khơng ít cán bộ, đảng viên thiếu tinh thần trách nhiệm, sa vào chủ nghĩa cá
nhân, tình trạng “nói khơng đi đơi với làm”, “nói một đằng làm một nẻo”… đang gây
bức xúc trong xã hội, làm mất niềm tin trong nhân dân. Hội nghị Trung ương 4
(khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã khẳng định: một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thối về phẩm chất, đạo đức, lối sống,
tình trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, sách nhiễu quần chúng đã ảnh hưởng
không nhỏ đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chia rẽ Đảng với dân,
cán bộ với quần chúng đang đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề cần giải quyết, đặc
biệt là phải tăng cường hơn nữa mối quan hệ máu thịt giữa cán bộ, đảng viên với
nhân dân.
Kinh nghiệm thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng cho thấy, chỉ trên cơ sở Đảng
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân thì cách
mạng mới đi đến thành công. Ngược lại, ở đâu và lúc nào, Đảng và cán bộ, đảng
viên quan liêu, xa rời nhân dân, “cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân
chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”(2).
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, các thế lực
thù địch ln tìm mọi cách chống phá ta quyết liệt về mọi mặt, chúng thực hiện âm
mưu “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ bằng những hành động kích động quần
chúng, chia rẽ dân tộc, tơn giáo hịng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ



mối quan hệ máu thịt giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân. Do đó, trước yêu cầu của
sự nghiệp cách mạng nói chung, cũng như trong cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
nói riêng, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị 03 về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Hội nghị Trung ương 7 (khoá XI) đã ban
hành Nghị quyết về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
dân vận trong tình hình mới”. Đặc biệt, năm 2014, Ban Bí thư xác định chủ đề trọng
tâm là “Nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đơi với làm”
nhằm cũng cố và tăng cường hơn nữa mối quan hệ gắn bó mắu thịt giữa cán bộ,
đảng viên với nhân dân. Vì vậy, chúng ta cần tập trung vào những vấn đề sau:
Trước hết, cần nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước; nâng cao trình độ lý luận chính trị, chun mơn, nghiệp vụ, tạo điều kiện cho
cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đây là nhiệm vụ thường
xuyên, cơ bản của từng tổ chức đảng và của mỗi đảng viên. Trước tình hình khó
khăn, phức tạp và các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, mỗi cán bộ,
đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng; thường xuyên nâng cao
cảnh giác, phòng chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hồ bình”; khơng phai nhạt lý
tưởng, kiên định thực hiện mục tiêu mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân Việt Nam đã lựa
chọn; phải thực sự là tấm gương sáng và chỗ dựa tinh thần cho nhân dân.
Hai là, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức
cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng. Bởi vì theo Bác, vấn đề này liên
quan trực tiếp tới vận mệnh của Đảng, quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng nước ta. Do vậy, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân vừa là nhiệm vụ cơ bản,
lâu dài, vừa là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của toàn Đảng và toàn dân.
Chống chủ nghĩa cá nhân trước hết phải chống từ trong Đảng và trong bộ máy quản
lý Nhà nước. Mỗi cán bộ, đảng viên phải là người tiên phong, gương mẫu trong
chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, làm cho mỗi tổ chức đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần coi trọng khâu giáo dục nhận thức,
quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên, xây dựng động cơ đúng đắn. Mỗi cán bộ, đảng

viên, cần liên hệ thực tiễn kết quả đạt được trong thời gian qua; trên cơ sở đó,
nghiêm túc đánh giá những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; tìm ra giải
pháp hữu hiệu để tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đảm
bảo nghiêm túc, thiết thực, hiệu quả.
Ba là, phải phát huy vai trị tích cực của quần chúng, coi cách mạng là sự nghiệp của
dân nhân, do dân nhân và vì dân nhân. Chúng ta cần tiếp tục phát huy khả năng to
lớn của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh của cộng đồng dân
tộc, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, vì hạnh phúc
của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước là nhằm thực hiện
và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với dân, mỗi cán bộ, đảng viên phải
liên hệ mật thiết với nhân dân, tôn trọng nhân dân và hướng dẫn, tổ chức nhân dân


thành lực lượng, phong trào hành động cách mạng, từ đó phát triển kinh tế, văn
hóa, khơng ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Đặc biệt là, chú trọng vai trị “nêu
gương”, “nêu cao tinh thần trách nhiệm, nói đi đơi với làm” phát huy hơn nữa vai trị
tích cực, gương mẫu đi đầu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng và trước
quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải kính u nhân dân. Phải tơn
trọng thật sự quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được “kiêu ngạo, cơng
thần, tự cao, tự đại”. “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân
thì hết sức tránh”(3). Từ trách nhiệm đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ được giao, phải xác định mình là cơng bộc của dân để thực
hiện sứ mệnh “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, là một sứ mệnh thiêng liêng
và cao cả.
Năm là, muốn cải thiện tốt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân đòi hỏi cả
hệ thống chính trị phải thực hiện tốt cơng tác dân vận. Vì “Việc dân vận rất quan
trọng. Dân vận kém việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng”(4).
Cán bộ, đảng viên là những người đưa chính sách đến với nhân dân đều phải quán

triệt quan điểm dân vận của Đảng là tất cả vì lợi ích của nhân dân. Mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân còn được thể hiện ở mối quan hệ giữa Mặt trận và các đoàn thể
với nhân dân. Mặt trận, đoàn thể là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực
quyền của dân, liên lạc mật thiết với nhân dân, với Chính phủ.
Sáu là, bài học sâu sắc, khơng bao giờ cũ đối với một Đảng chân chính, cách mạng
là thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đây là một trong những nguyên tắc quan
trọng nhất, để tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Để mối liên
hệ mật thiết này luôn được củng cố và tăng cường, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu
cao tinh thần trách nhiệm, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh với nạn
quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi của đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong các cơ quan Đảng và Nhà nước gắn với việc thực hiện Nghị quyết trung ương 4
(khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiên nay”. Những căn bệnh và
hệ quả xấu của nó là sự cảnh báo nghiêm khắc, đồng thời cũng là những chỉ dẫn và
yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện, để họ không chỉ “biết lãnh đạo” như
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, mà cịn ln xứng đáng là người “đầy tớ” thật trung
thành của nhân dân.
Câu 7. Nội dung nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH trong giai đoạn cách mạng XHCN. Phân tích nội dung: Nắm
vững và vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam để đề ra đường lối,
phương pháp cách mạng phù hợp?
Trả lời:
Sau 30/4/1975, cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt
Nam, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hòa quyện vào nhau. Dân tộc Việt Nam là dân tộc xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ
mới, Đảng ta ln kiên trì, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là nền tảng của mọi chiến lược, sách
lược trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.


Từ lý luận, thực tiễn Việt Nam và thế giới trong những năm qua, đã khẳng định trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa phải tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không thể chỉ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã
hội, hạ thấp ngọn cờ độc lập dân tộc hoặc ngược lại. Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ bị thất bại.
1.3.2. Nội dung nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn cách mạng hiện nay

Một là, tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa
chọn.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đã kiểm nghiệm, chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm cho
độc lập bền vững và cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Vì vậy, đổi mới là làm cho chủ nghĩa xã hội tiếp tục được
nhận thức đầy đủ hơn, được thực hiện bằng những nội dung, hình thức mới, làm cho chủ nghĩa xã hội sống động, phát triển
chứ không phải thay đổi chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong thời gian qua tuy có nhiều khó khăn, thậm
chí có lúc tưởng chừng khơng thể vượt qua nổi. Đặc biệt là tác động từ sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
và Liên Xô đã ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân. Nhưng do kiên trì với những nguyên tắc căn bản
của chủ nghĩa xã hội, cho nên cách mạng Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, liên tiếp giành được những thành tựu to lớn,
giữ vững ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế cao, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện… qua đó chứng tỏ đường
lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là đúng đắn,
ngày càng phát huy hiệu quả to lớn.
Vì vậy, bên cạnh việc khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, là tất yếu khách quan và có thể thực hiện được,
chúng ta cần phê phán những biểu hiện lệch lạc, dao động, hồi nghi, suy giảm lịng tin mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, phê phán những khuynh hướng nhân danh đổi mới, tìm kiếm con đường phát triển đất nước để lái con đường cách
mạng Việt Nam theo con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ, chủ nghĩa tư bản…
Hai là, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sự vận dụng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quy luật dựng nước
đi đơi với giữ nước của dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm lịch sử vào điều kiện mới.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011) của Đảng đều xác
định đúng đắn và ngày càng rõ hơn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội phải nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết để giữ vững độc
lập dân tộc. Mặt khác, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
cuộc sống của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển ổn định, vững chắc.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, cần phải đổi mới tư duy về kết hợp hai nhiệm vụ đó
cho phù hợp với đặc điểm tình hình mới. Hiện nay, phải tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tốc độ xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Trong xây dựng đã chứa đựng nội dung bảo vệ, xây dựng đất nước đạt hiệu quả, tạo điều kiện bảo vệ Tổ

quốc. Do đó, phải tăng cường sức mạnh đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, bảo vệ tốt sẽ tạo điều kiện để
xây dựng có hiệu quả.
Kết hợp xây dựng và bảo vệ trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phịng, an ninh và đối
ngoại. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của mọi cấp, mọi ngành. Sự kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ


×