Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

BÀI TẬP LỚN Môn Thị Trường Chứng Khoán: Tìm hiểu về thị Trường trái phiếu Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.91 KB, 49 trang )

Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội

BÀI TẬP LỚN
Môn Thị Trường Chứng Khoán
Đề Bài: Tìm hiểu về thị Trường trái phiếu Việt Nam hiện nay.
Gíao viên hướng dẫn: Trần Quang Việt
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hậu (1531090004)
Cao Thị Thùy Linh(1531090042)
Nguyễn Thị Xuân (1531090159)

Page 1

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

BÀI TẬP LỚN MÔN : THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU :
……………………………………………………………………………… 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRÀI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI
PHIẾU
1.1: Một số vấn đề cơ bản về trái phiếu……………………………………. 5
1.1.1: Khái niệm về trái phiếu……………………………………………… 5
1.1.2: Đặc điểm của trái phiếu …………………………………………….. 5
1.1.3: Phân loại trái phiếu .…………………………………………………. 7


1.2: Thị Trường trái phiếu …………………………………………………. 8
1.2.1: Định nghĩa thị Trường trái phiếu …………………………………… 8
1.2.2: Đặc điểm thị Trường trái phiếu … …………………………………. 9
1.2.3: Phân loại thị Trường trái phiếu ……………………………………. 9
1.2.3.1: Thị Trường sơ cấp …………………………………………………. 10
1.2.3.2: Thị Trường thứ cấp ……………………………………………….. 10
1.2.3.4: Mối liên hệ giữa thị Trường sơ cấp và thị Trường thứ cấp .. 11
Page 2

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

1.2.4: Vai trò của thị Trường trái phiếu …………………………………… 11
CHƯƠNG 2: THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM 5 NĂM GẦN ĐÂY.
2.1: Trái phiếu chính phủ …………………………………………………… 15
2.2: Trái phiếu hiếu chính quyền địa phương……………………………… 22
2.3: Trái phiếu doanh nghiệp ……………………………………………….. 22
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNGPHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
VIỆT NAM HIỆN NAY ………………………………………………….... 32
3.1: Các chủ thể phát hành ………………………………………………… 32
3.2: Đối với thị Trường chứng khoán ………… …………………………. 34
3.3: Phồng ngừa đối với sự trì trệ của nền kinh tế hoặc giảm phát …….. 35
CHƯƠNG 4: NHẬN XÉT KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT.
4.1: Nhận xét ………………………………………………………………… 36
4.2: Kiến nghị và đề xuất ……………………………………………………. 38

Page 3


QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian vừa qua đã đạt được tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân trên 8%/năm. Để đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy,
thì yếu tố nguồn vốn phục vụ choviệc phát triển kinh tế chiếm giữ vai trò quan
trọng.
Việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước của Việt Nam đã đạt được
kết quả hết sức khả quan. Nếu như nguồn vốn trong nước, gồm nguồn vốn huy
động từ dân cư, cá tổ chức kinh tế,... giữ vai trò chủ đạo thì nguồn vốn nước
ngoài, gồm vốn FDI, ODA, FPI,... là động lựcvà cơ sở để thay đổi công nghệ.
Điều này thể hiện chính sách, thể chế, luật pháp của Đảng và Nhà nước ta đã có
những đổi mới kịp thời nhằm phù hợp hơn với xu thế quốc tế hóa. Tuy nhiên,
việc huy động vốn trong nước cũng chưa thật sự phát triển mạnh, đặc biệt là
nguồn vốn dài hạn.
Do đó, để đẩy nhanh việc huy động nguồn huy động dài hạn thì
việc phát triển thị trường vốn trong thời gian sắp tới là rất cần thiết. Đặc biệt là
phát triển thị trường chứng khoán,đây là kênh dẫn vốn quan trọng để phát triển
nhanh nền kinh tế đất nước.
Vừa qua, thị trường chứng khoán đã có những bước phát triển đáng kể cả
về quy mô và chất lượng hàng hóa trên thị trường.Tuy nhiên, hiện nay chỉ tập
trung phát triển thị trường cổphiếu mà chưa đặc biệt quan tâm đến việc phát triển
thị trường trái phiếu. Do vậy, thị trường trái phiếu là thị trường hết sức tiềm
năng, cần có cơ chế, chính sách để đẩy mạnh phát triển thị trường này trong
tương lai.

Page 4


QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Với tính cấp thiết của việc phát triển thị trường trái phiếu mà nhóm em
chọn đề tài “Tìm hiểu về thị trường Trái phiếu Việt Nam hiện nay”nhằm đưa ra
cái nhìn tổng quan nhất về thị trường trái phiếu Việt Nam đồng thời cũng đưa ra
những giải pháp có tính chất định hướng trong ngắn hạn và dài hạn.

Page 5

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI
PHIẾU
1.1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁI PHIẾU
1.1.1: Khái niệm về trái phiếu.
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
trái phiếu (người vay tiền) phải có nghĩa vụ trả lãi trái phiếu và hoàn trả vốn gốc
của trái phiếu cho chủ
sở hữu của trái phiếu (trái chủ) khi đáo hạn.
1.1.2. Đặc điểm của trái phiếu.
a. Các đặc trưng của trái phiếu:
- Mệnh giá: hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi trên
trái phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để

xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện
số tiền người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn. Ở Việt Nam, mệnh
giá của trái phiếu được ấn định là 100.000 đ và các mệnh giá khác là bội số của
100.000 đ. Mệnh giá của trái phiếu được xác định phụ thuộc vào số tiền huy
động trong kỳ và số trái phiếu phát hành.
MG: Mệnh giá trái phiếu
MG = VHD/ SPH VHD: Số vốn huy động
SPH: Số trái phiếu phát hành
- Lãi suất định kỳ (coupon): Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái
phiếu hoặc người phát hành công bố. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần
trăm so với mệnh giá trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu
- Thời hạn: là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành
hoàn trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung hạn có
Page 6

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

thời gian từ 1 năm đến 5 năm. Trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm trở lên.
- Kỳ trả lãi: Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ
trái phiếu. Lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi
suất trái phiếu thường được thực hiện vào một ngày xác định hoặc theo định
kỳ.Thông thường có 2 phương thức trả lãi: 6 tháng/lần và 1 năm/lần.
- Giá phát hành: Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông
thường giá phát hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy
theo tình hình của hị trường và của người phát hành để xác định giá phát hành
một cách thích hợp. Có thể phân biệt 3 trường hợp:
+ Giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá)

+ Giá phát hành dưới mệnh giá (giá chiết khấu)
+ Giá phát hành trên mệnh giá (giá gia tăng)
Dù trái phiếu được bán với giá nào (ngang giá, giá chiết khấu hay giá gia tăng),
thì lợi tức luôn được xác định theo mệnh giá của trái phiếu và khi đáo hạn, người
có trái phiếu sẽ được thanh toán theo mệnh giá của trái phiếu.
b. Các đặc điểm của trái phiếu:
- Trái phiếu là chứng khoán nợ hay một loại giấy nợ, thể hiện các quyền lợi của
chủ nợ hay trái chủ đối với tổ chức phát hành. Người mua trái phiếu chỉ là người
cho chủ thể phát hành vay tiền và là chủ nợ của chủ thể phát hành trái phiếu.
Khác với người mua cổ phiếu là người Chủ sở hữu Công ty Chủ thể phát hành
trái phiếu không chỉ có Công ty, mà còn có Chính phủ Trung ương và Chính phủ
địa phương.
- Thu nhập của trái phiếu là tiền lãi, trái chủ được hưởng lãi cố định và không
phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.
- Tiền lãi trả cho trái chủ được tính vào chi phí tài chính của tổ chức phát hành,
do đó được khấu trự khi tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp.
Page 7

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

- Người nắm giữ trái phiếu là chủ nợ, có quyền đòi các khoản thanh toán theo
cam kết về giá trị và thời hạn nhưng không có quyền tham gia vào các vấn đề
của bên phát hành.
- Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi công ty bị giải thể hoặc phá sản thì
trái chủ được ưu tiên trả nợ trước cổ đông. Với những đặc điểm trên, trái phiếu
có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếp.
Vì vậy, trái phiếu là loại chứng khoán được các nhà đầu tư ưa chuộng.

1.1.3. Phân loại trái phiếu.
a. Phân loại theo hình thức trái phiếu:
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ
cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ
chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới
ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ
tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên
chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực
hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi
danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ
hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu
giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.
b. Phân loại theo đối tượng phát hành trái phiếu:
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục
đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm
công cụ điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro
thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi
Page 8

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định
lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
- Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho
những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng
hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung

ương hoặc chính quyền địa phương phát hành.
- Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài
hạn. Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:
+ Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế
chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này
được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền
đòi nợ đối với một tài sản cụ thể.
+ Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng
tài sản màđược đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản,
những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có
bảo đảm, nhưng trước cổ đông. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho
phép trái chủ được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty
phát hành. Tuỳ theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ
thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định.
+ Trái phiếu có thể mua lại: cho phép người phát hành mua lại chứng khoán
trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành
song lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao
hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền
bán lại tráiphiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động

Page 9

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể
thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.

+ Trái phiếu có thể chuyển đổi: cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi
trái phiếuthành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở
thành người chủ sở hữu của công ty.
c. Phân loại theo lợi tức của trái phiếu:
- Trái phiếu có lãi suất cố định: Là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo
một tỷ lệ phần trăm (%) cố định tính theo mệnh giá.
- Trái phiếu có lãi suất biến đổi (lãi suất thả nổi): Là loại trái phiếu mà lợi tức
được trả trong các kỳ có sự khác nhau và được tính theo một lãi suất có sự biến
đổi theo một lãi suất tham chiếu.
- Trái phiếu có lãi suất bằng không: Là loại trái phiếu mà người mua không
nhận được lãi, nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và
được hoàn trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn.
1.2. THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU:
1.2.1. Định nghĩa thị trường trái phiếu:
Thị trường trái phiếu (TTTP) là nơi giao dịch mua bán các loại trái phiếu đã
phát hành, các loại trái phiếu này do Chính phủ hoặc Chính quyền địa phương và
các công ty phát hành. TTTP đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, đối với
các doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư.
Các chủ thể tham gia thị trường gồm có:
- Chính phủ, chính quyền địa phương.
- Ngân hàng.
- Tổ chức tài chính: công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư.
Page 10

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

- Doanh nghiệp.

- Cá nhân, hộ gia đình.
1.2.2. Đặc điểm của thị trường trái phiếu:
- TTTP là nơi mua bán, trao đổi và giao dịch các công cụ nợ trung và dài hạn.
Tại thị trường này nguồn vốn huy động có chi phí rẻ hơn thị trường cổ phiếu.
Trái phiếu có độ an toàn khá cao. TTTP thường gắn với thị trường giao dịch do
trái phiếu thường có thời hạn xác định. Tuy nhiên quy mô của thị trường là khá
lớn song hàng hoá trên thị trường thường thay đổi liên tục. TP mới phát hành
thay thế cho trái phiếu đáo hạn và quá trình đó diễn ra liên tục.
- Thị trường trái phiếu thường có quy mô rất lớn gấp nhiều lần thị trường cổ
phiếu, thị trường trái phiếu thường xuyên giao dịch với khối lượng và giá trị lớn.
Đây là đặc điểm quan trọng khi các thành viên tham gia thị trường chủ yếu là các
trung gian tài chính. Do đó thị trường thường được tổ chức theo mô hình OTC.
- Phương thức giao dịch chủ yếu là thỏa thuận, cách thức và thời gian giao dịch
rất linh hoạt.
1.2.3. Phân loại thị trường trái phiếu:
Thị trường trái phiếu được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ
cấp:
1.2.3.1. Thị trường sơ cấp:
a. Khái niệm:
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các trái phiếu mới phát hành. Trên
thị trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua
việc nhà đầu mua các trái phiếu mới phát hành.
b. Đặc điểm:
- Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các trái phiếu đem lại vốn cho người
Page 11

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội


phát hành.
- Là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời cũng tạo ra hàng hóa
cho thị trường giao dịch.
- Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị trường sơ cấp làm tăng vốn đầu tư.
- Những người bán trái phiếu trên thị trường sơ cấp được xác định thường là
Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành,
- Thị trường sơ cấp chỉ được tổ chức một lần cho một loại chứng khoán nhất
định, trong thời gian hạn định.
1.2.3.2. Thị trường thứ cấp:
a. Khái niệm:
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các trái phiếu đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp. Là thị trường chuyển nhượng quyền nhượng quyền sở hữu trái
phiếu. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các trái phiếu đã phát
hành.
b. Đặc điểm:
- Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán trái phiếu thuộc
về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh trái phiếu chứ không thuộc về nhà phát
hành. Nói cách khác, các luồng vốn không người phát hành trái phiếu mà vận
chuyển giữa những người đầu tư trái phiếu trên thị trường. Thị trường thứ cấp là
một bộ phận quan trọng của thị trường trái phiếu, gắn bó chặt chẽ với thị trường
sơ cấp.
- Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá
trái phiếu trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
- Thị trường thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể
mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
1.2.3.3. Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Page 12

QTKD1- K15



Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

- Thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị
trường thứ cấp vì đó là nơi cung cấp hàng hóa trái phiếu trên thị trường thứ cấp.
Không có thị trường sơ cấp thì không thể có sự xuất hiện của thị trường thứ cấp.
Thị trường thứ cấp là một loại thị trường đặc biệt, nó không thể ra đời chừng nào
vẫn chưa có một thị trường sơ cấp rộng rãi, vững chắc với nhiều loại trái phiếu
đa dạng, phong phú, hấp dẫn nhiều nhà đầu và công chúng đến bỏ vốn ra để đầu
tư trái phiếu.
- Ngược lại, thị trường thứ cấp đến lượt nó là động lực, là điều kiện cho sự
phát triển của thị trường sơ cấp, vì một khi trái phiếu đã được phát hành ra trên
thị trường, nếu không có một thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi
tạo ra tính thanh khoản cho trái phiếu thì thật khó có thể thuyết phục nhà đầu tư
bỏ tiền ra mua trái phiếu.
- Chính việc mua bán giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp làm cho lưu
động hóa vốn đầu tư, các nhà đầu tư có thể chuyển từ trái phiếu thành tiền mặt.
- Vốn khả dụng thanh khoản cao của trái phiếu mà tính chất năng động của thị
trường thứ cấp đã hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ tiền ra mua trái phiếu. Điều này
chính là điều kiện cơ bản để các nhà phát hành trái phiếu có thể bán được trái
phiếu trên thị trường sơ cấp và huy động được nguồn vốn lớn theo nhu cầu.
1.2.4. Vai trò của thị trường trái phiếu:
a. Đối với nền kinh tế:
Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn nhanh chóng và hiệu quả. Đây
một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện chức năng của thị trường tài
chính là cung cấp nguồn vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế bằng khả năng huy
động các nguồn vốn phân tán, tạm thời nhàn rỗi trong toàn xã hội vào công cuộc
đầu tư của nền kinh tế.
b. Đối với Chính phủ:

Page 13

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

- Toàn bộ các khoản chi tiêu khổng lồ của quốc gia đều trông chờ vào các
khoản thu của NSNN, nhưng NSNN luôn không đủ chi và luôn đứng trước nguy
cơ thâm hụt nhất là với các quốc gia đang phát triển. Do đó, Chính Phủ rất cần
nguồn tài chính để giải quyết nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp thiếu
hụt ngân sách quốc gia. Vì vậy phát hành trái phiếu là kênh huy động vốn của
Chính Phủ nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế và xã hội.
- Trên thị trường chứng khoán, trái phiếu là một hàng hóa quan trọng, đặc biệt
là trái phiếu chính phủ với đặc tính ít rủi ro nhất đã trở thành hàng hóa chủ đạo
trên thị trường, lãi suất giao dịch hàng ngày của trái phiếu chính phủ góp phần
hình thành lãi suất chuẩn trên thị trường. Trái phiếu do Chính Phủ phát hành thu
hút một khối lượng vốn tiền mặt trong lưu thông từ các tầng lớp dân cư, tổ chức
kinh tế và định chế tài chính trung gian. Vốn này được đưa vào sử dụng cho đầu
tư phát triển, tạo ra của cải hàng hóa cho xã hội. Nhờ vậy mà cân đối tiền hàng
được điều chỉnh tích cực, tăng tốc độ vòng quay vốn, giảm áp lực cầu tiền mặt
của nền kinh tế, ổn định môi trường tiền tệ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
các nguồn lực tài chính trong nước. Thêm vào đó, Ngân hàng trung
ương phát hành các loại trái phiếu ngắn hạn để thực hiện nghiệp vụ thị trường
mở. Mục đích là góp phần thực hiện chính sách tài chính quốc gia, khắc phục
tình hình lạm phát, đảm bảo được khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách
hợp lý.
- Thị trường trái phiếu thường có quy mô lớn và độ sâu nên thường hỗ trợ tốt
hơn nhu cầu vốn đầu tư dài hạn trong nền kinh tế, góp phần tạo ra một cấu trúc
thị trường vốn vững chắc mà nó dựa trên cơ sở cân đối giữa thị trường vay nợ

ngân hàng, thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu trong tương lai. Thị
trường trái phiếu góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững, ổn định của thị
trường vốn.
Page 14

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

- Huy động vốn qua việc phát hành trái phiếu sẽ làm giảm sự tập trung vào hệ
thống ngân hàng. Đặc biệt là thị trường trái phiếu công ty vừa có thể huy động
được nguồn vốn dồi dào từ xã hội vừa góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế
xã hội. Gánh nặng và rủi ro cho vay của các ngân hàng đước san sẻ cho các nhà
đầu tư trái phiếu trên thị trường, nhờ đó việc tài trợ dài hạn cho các dự án có rủi
ro cao có thể thực hiện được và giúp giảm chi phí vốn cho nền kinh tế.
- Ngoài ra, đối với Chính phủ, một trong những chức năng nhiệm vụ quan
trọng là vừa quản lý vĩ mô nền kinh tế vừa đảm bảo vai trò của người trọng tài
tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi cho toàn bộ nền kinh tế phát triển bền vững.
Thông qua phát hành trái phiếu và đầu tư vào trái phiếu Chính phủ sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả của việc phân phối và tái phân phối nguồn lực tài chính, định
hướng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế.
c. Đối với tổ chức phát hành:
Mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu lớn về vốn để vận hành và phát triển. Đối
với doanh nghiệp, thường có ba cách để huy động vốn: vay ngân hàng, phát hành
trái phiếu và phát hành cổ phiếu. Đối với từng phương thức huy động vốn đều có
những thế mạnh riêng, tùy theo tình hình cụ thể của nền kinh tế và đặc thù của
mỗi doanh nghiệp, để từ đó doanh nghiệp đưa ra quyết định phương thức tài trợ
vốn tối ưu nhất. Các doanh nghiệp ở Việt Nam thường huy động bằng cách vay
ngân hàng hoặc phát hành cổ phiếu hơn là phát hành trái phiếu. Tuy nhiên việc

phát hành trái phiếu có một số ưu điểm sau:
- Thứ nhất, phát hành trái phiếu đảm bảo cho doanh nghiệp được sử dụng một
nguồn vốn ổn định và dài hạn, trong khi vay ngân hàng thường là ngắn hạn. Mặc
dù trong một số dự án đặc biệt, ngân hàng thương mại cũng có thể cho doanh
nghiệp vay với thời hạn dài hơn, nhưng với các dự án lớn ngân hàng lại bị giới
hạn đầu tư. Cụ thể, khi doanh nghiệp tài trợ vốn bằng phát hành trái phiếu không
Page 15

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

bị hạn chế về quy mô miễn là doanh nghiệp có phương án sử dụng số vốn huy
động một cách hợp lý, có tính khả thi và có khả năng hoàn trà lãi và gốc cho
những người cho vay. Trái lại, phương thức vay ngân hàng, số vốn tối đa doanh
nghiệp được vay lại phụ thuộc vào vốn tự có của ngân hàng cho vay, nếu số vốn
doanh nghiệp cần huy động quá lớn, việc cho vay phải được tiến hành
qua phương thức đồng tài trợ phức tạp hơn nhiều. Mặt khác, doanh nghiệp phát
hành trái phiếu còn có ưu điểm về thời hạn vay hơn các khoản vay ngân hàng,
các doanh nghiệp
hoàn toàn tự do trong việc xác định thời hạn vay. Nếu các doanh nghiệp chú tâm
đến kênh huy động vốn này thì về lâu dài đã góp phần tạo cho các doanh nghiệp
trong nước đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài trong tương lai về
quy mô vốn hoạt động.
- Thứ hai, trong trường hợp doanh nghiệp cần vốn nhưng lại ngại phát hành cổ
phiếu rộng rãi vì sợ phát hành thêm cổ phiếu sẽ làm pha loãng quyền sở hữu
trong doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp có dự án tốt, nhưng không muốn phát
hành cổ phiếu, vì không muốn lợi nhuận của mình bị chia đều cho các nhà đầu tư
khi phải trả cổ tức cao theo hiệu quả kinh doanh thì phát hành trái phiếu là một

giải pháp tối ưu. Vì thế, doanh nghiệp không bị thao túng mà lợi tức chia sẻ cũng
chỉ hạn chế trong phạm vi lãi suất trái phiếu khi phát hành. Ngoài ra, trái phiếu là
công cụ huy động vốn có thời hạn nên trách nhiệm của doanh nghiệp đối với trái
chủ sẽ kết thúc khi trái phiếu đáo hạn, trong khi doanh nghiệp phải có trách
nhiệm đối với cổ đông nắm giữ cổ phiếu trong suốt thời gian nó tồn tại.
- Thứ ba, chi phí sử dụng vốn khi phát hành trái phiếu thấp hơn phát hành cổ
phiếu, do đặc điểm của trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ
phiếu. Việc đầu tư vào cổ phiếu có mức độ rủi ro cao hơn so với đầu tư vào trái
phiếu, do đó mức bù rủi ro mà nhà đầu tư đòi hỏi đối với trái phiếu thấp hơn cổ
Page 16

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

phiếu. Công ty phát hành trái phiếu trả lãi cho trái chủ không phụ thuộc vào tình
hình sản xuất kinh doanh của công ty, trong khi đó công ty chỉ trả cổ tức cho cổ
đông khi kinh doanh có lãi. Hơn nữa, trong trường hợp công ty giải thể hoặc bị
phá sản thì trái chủ được ưu tiên trả nợ trước rồi mới đến các cổ đông. Chính vì
thế, nhà đầu tư luôn đánh giá mức độ rủi ro của trái phiếu thấp hơn cổ phiếu và
tương ứng họ đưa ra mức bù rủi ro đối với trái phiếu thấp hơn đối với cổ phiếu.
Để tham gia thị trường trái phiếu với tư cách là nhà phát hành,các doanh nghiệp
phải đáp ứng các yêu cầu về độ tin cậy đối với nhà đầu tư như quy mô hoạt
động,
hệ thống kế toán, kiểm toán, định mức tín nhiệm Điều này đặc biệt quan trong

không thể thiếu khi doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng một
cách rộng rãi và niêm yết trái phiếu của mình trên SGD chứng khoán. Trái phiếu
của doanh nghiệp phát hành càng chất lượng thì càng thu hút được nhiều nhà đầu

tư và ngược lại. Chính những yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp đòi hỏi
doanh nghiệp phải luôn củng cố bộ mày tổ chức và quản lý, nâng cao tính cạnh
tranh và hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức độ tín nhiệm đối với những người
đầu tư. Đây cũng có thể coi là một tác động mang tính gián tiếp của thị trường
trái phiếu đối với sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh
tế nói chung.
d. Đối với nhà đầu tư:
- Thị trường trái phiếu góp phần làm đa dạng hóa các sản phẩm tài chính, cung
cấp cho các nhà đầu tư ngày càng nhiều lựa chọn để đa dạng hóa danh mục đầu
tư phù hơp với những khẩu vị rủi ro khác nhau. Trái phiếu Chính phủ với độ an
toàn cao nhưng lãi suất không hấp dẫn bằng trái phiếu công ty. Bên cạnh đó, đầu
tư vào cổ phiếu sẽ đem lại cho nhà đầu tư tỷ suất lợi nhuận cao hơn tương ứng
Page 17

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

với mức rủi ro cao hơn. Thị trường trái phiếu với các loại trái phiếu và kỳ hạn
khác nhau tạo thêm cho nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư phù hợp.
- Đối với nhà đầu tư, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ
phiếu. Trái phiếu luôn có một thời hạn nhất định và khi đáo hạn trái chủ nhận lại
vốn góp ban đầu của mình. Thu nhập chủ yếu của trái phiếu là tiền lãi, đây là
khoản thu cố định. Khi đầu tư vào trái phiếu công ty, trái chủ nhận tiền lãi không
phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, đặc
điểm này không giống với cổ đông chỉ nhận được cổ tức khi doanh nghiệp kinh
doanh có lãi. Đây là dạng đầu tư phù hợp với các nhà đầu tư không thích mạo
hiểm.


Page 18

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

CHƯƠNG 2: THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM 5 NĂM GẦN ĐÂY.
2.1: Trái phiếu chính phủ.
a) Năm 2010: Thị Trường TPCP tiếp tục ảm đạm, như đợt đấu thầu cho lô 3,000
tỷ đồng thất bại. Năm 2010 do tác động của cuộc khủng hoảng nợ ở Châu Âu.
Tổng lượng phát hành trên thị trường TPCP sơ cấp đạt mức cao kỷ lục Loại
TP Kế hoạch phát hành 2010 Tổng lượng thành công (tỷ % so với kế hoạch (tỷ
đồng) đồng) phát hành TPCP 100,000 68,448.6 68.45% VDB 30,000 36,357.3
121.19% Tổng 130,000 104,805.9 80.62% Trên thị trường thứ cấp: Tổng giá trị
giao dịch trên HNX năm 2010
Nguyên nhân chính:
- Các nhà đầu tư nước ngoài chưa quay trở lại thị trường do có sự quan ngại
nhất định về sự mất giá của VND so với USD.
- Nhu cầu mua TPCP tăng mạnh của khối các TCTD trong nước, do:
+ Bối cảnh CSTT mở rộng giai đoạn giữa năm làm gia tăng áp lực dư thừa
vốn.
+ Thông tư 13 và Thông tư 19 buộc các TCTD phải tăng cường đầu tư vào
TPCP.
+ Lộ trình tăng vốn các NHTM trong nước diễn ra trên phạm vi rộng đẩy
nhu cầu mua TPCP tăng cao.
+ Một lượng khá lớn TPCP đáo hạn trong năm 2010, phần lớn là tại các
NHTM.
b) Năm 2011: Thị trường sơ cấp trái phiếu chính phủ năm 2011 rất sôi
động, có thể coi là năm thành công nhất trong huy động vốn cho ngân sách nhà

Page 19

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

nước thông qua đấu thầu trái phiếu chính phủ tại HNX. Lượng vốn huy động
được lớn nhất và tỷ lệ huy động thành công/kế hoạch huy động cao nhất. Qua
130 phiên đấu thầu đã huy động được 81.715,8 tỷ đồng (gấp gần 3 lần khối
lượng trúng thầu năm 2010), trong đó huy động trái phiếu kho bạc đạt 62.153,8
tỷ đồng, đạt khoảng 80% kế hoạch huy động. Lãi suất phát hành tuy ở một mặt
bằng mới cao hơn năm trước, song vẫn thấp hơn khoảng 2% so với lãi suất huy
động của hệ thống ngân hàng.
Toàn bộ trái phiếu Chính phủ phát hành qua kênh đấu thầu và bảo lãnh đều
được thực hiện niêm yết trên thị trường trái phiếu Chính phủ chuyên biệt theo
quy định.
-Trên thị trường thứ cấp, từ cuối năm 2010 sang năm 2011, lãi suất trái phiếu
Chính phủ đã ồ ạt tăng mạnh ở tất cả các kỳ hạn. Lãi suất đạt đỉnh vào thời điểm
đầu tháng 6/2011, với lãi suất kỳ hạn 1 năm, 3 năm và 10 năm tương ứng là
13,532%, 13,234% và 12,385%. Sau khi đạt đỉnh này, lãi suất trái phiếu Chính
phủ giảm dần, tuy vậy kết thúc năm 2011 vẫn đứng ở mức cao. Có thể phân chia
thành 3 giai đoạn thay đổi lãi suất trái phiếu Chính phủ trong năm 2011 gồm:
– Giai đoạn I (từ đầu năm đến tháng 5/2011): lãi suất trái phiếu Chính phủ liên
tục tăng, đặc biệt với kỳ hạn 1 năm khi đạt đỉnh ở mức 13,532% vào ngày
26/5/2011. Nguyên nhân chủ yếu là do lạm phát tăng rất mạnh trong những
tháng này (chỉ số CPI tăng bình quân 2,1%/tháng).
– Giai đoạn II (từ tháng 6/2011 đến đầu tháng 10/2011): lãi suất giảm nhanh
trong giai đoạn tháng 6, 7 và giảm chậm dần trong tháng 8, 9/2011. Nguyên nhân
là do lạm phát phi mã lập đỉnh vào tháng 6 sau đó giảm dần các tháng tiếp theo

cùng với nó là việc Ngân hàng Nhà nước siết chặt trần lãi suất 14%, đặt mục tiêu
hạ lãi suất cho vay xuống 17-19%.

Page 20

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

– Giai đoạn III (quý IV/2011): lãi suất có xu hướng tăng trở lại do xuất hiện
nhiều vụ vỡ nợ tín dụng đen, rủi ro tín dụng trên thị trường tăng lên. Một số ngân
hàng thương mại bắt buộc phải nhận hỗ trợ thanh khoản từ Ngân hàng Nhà nước.
Kết thúc năm 2011, tình hình vẫn chưa có thay đổi khi lãi suất ngắn hạn vẫn cao
hơn dài hạn. Đây là chỉ báo rõ ràng chứng tỏ thị trường vẫn chưa quay trở lại với
trạng thái thông thường, nguy cơ khủng hoảng thanh khoản đang còn hiện hữu.

c) Năm 2012 : tổng sản phẩm trong nước (GDP) chỉ tăng 5,03% so với năm 2Năm 2011: Gía trị giao dịch trái phiếu chính phủ trong năm 2011 lại giảm so với
011. Đây là kết quả cách xa với mục tiêu đã đề ra. Trong năm đã có hai lần điều
chỉ tiêu tăng trưởng, từ 6-6,5% xuống 5,5%; cách đây một tháng mức tăng
trưởng được dự kiến vào khoảng 5,2%. Thực tế này cho thấy sự suy giảm khá
sâu của nền kinh tế do nhiều khó khăn trong duy trì sản xuất, khó tiếp cận nguồn
vốn hoặc phải vay vốn với lãi suất cao của hầu hết ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Thị trường trái phiếu chính phủ
Năm 2012, mặc dù tình hình kinh tế vĩ mô đã có những chuyến biến nhất
định (như lạm phát và nhập siêu có chiều hướng giảm, tỷ giá được duy trì ổn
định, dự trữ ngoại tệ tăng, mặt bằng lãi suất giảm…) nhưng nhìn chung vẫn còn
nhiều khó khăn. Hoạt động của thị trường cổ phiếu chưa thực sự khả quan, dù
chỉ số VN

- Index tăng 17,7% và HNX - Index giảm hơn 2%


so với cuối năm 2011. Trái ngược với thị trường cổ phiếu, năm 2012 có thể
khẳng định là năm huy động, phát hành trái phiếu chính phủ đạt kỷ lục kể từ khi
thị trường này được Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) vận hành chính
thức ngày 24/9/2009.

Page 21

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Các hoạt động giao dịch trên thị trường sơ cấp, tính đến cuối tháng
12/2012 đã được triển khai hiệu quả với khối lượng huy động đạt gần 160.000 tỷ
đồng (gần gấp 2 lần so với cả năm 2011), vượt chỉ tiêu kế hoạch huy động điều
chỉnh năm 2012 là 135.000 tỷ đồng. Trong tổng giá trị đấu thầu huy động được
trong năm 2012, chỉ riêng Kho bạc Nhà nước đã huy động được 106.884 tỷ
đồng. Lãi suất trúng thầu giảm so với năm 2011 và thấp hơn lãi suất huy động
trên thị trường tiền tệ từ 1% - 2%.
Để tạo điều kiện cho hoạt động đấu thầu được tiến hành thuận lợi hơn, ngày
6/8/2012, hệ thống đấu thầu điện tử trên thị trường sơ cấp trái phiếu chính phủ đã
chính thức kết nối trực tiếp với các thành viên đấu thầu, với tổ chức phát hành và
cơ quan quản lý. Nếu như hình thức đấu thầu trái phiếu chính phủ “truyền thống”
là các thành viên nộp phiếu dự thầu trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện thì
việc đấu thầu điện tử rút ngắn rất nhiều công đoạn của quy trình này. Các thành
viên tham gia có thể nhập phiếu dự thầu từ xa, sửa hoặc hủy phiếu thầu theo diễn
biến của thị trường, nhận kết quả đấu thầu trực tuyến tức thời, theo dõi tiến trình
thanh toán đấu thầu; đồng thời, trên hệ thống này, có thể tiến hành tra cứu, kết
xuất dữ liệu thống kê và lập báo cáo theo mẫu được thiết kế chuẩn…

Toàn bộ quá trình đấu thầu được điện tử hóa từ khi bắt đầu đến khi hoàn
tất phiên, một mặt giúp các thành viên tham gia đấu thầu nhanh chóng, hiệu quả,
giúp cơ quan vận hành rút ngắn đáng kể thời gian xét thầu và xác định kết quả
đấu thầu, mặt khác góp phần đảm bảo tính minh bạch của hoạt động đấu thầu..
Trên thị trường thứ cấp, hoạt động giao dịch “nhộn nhịp” hơn so với thị
trường cổ phiếu, giá trị giao dịch bình quân đạt 842 tỷ đồng/phiên, gấp 2,3 lần so
với bình quân phiên năm 2011.

Page 22

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Giá trị giao dịch trên thị trường trái phiếu chính phủ đạt 189.086 tỷ đồng
tính đến thời điểm đầu tháng 12/2012, trong đó giao dịch repos chỉ chiếm
khoảng 30% tổng giá trị (giao dịch trái phiếu gồm giao dịch outright hay còn gọi
là giao dịch mua đứt bán đoạn và giao dịch repos - sau một thời hạn người bán sẽ
phải giao dịch lại trái phiếu đó).
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng là khu vực cung cấp phần lớn các
nguồn vốn cho đầu tư của nền kinh tế và cũng là nguồn cầu chủ yếu đối với trái
công cụ trong giao dịch với Ngân hàng Nhà nước... Bên cạnh đó, các công ty
chứng khoán cũng tham gia với mục đích đầu tư tài chính. Tính tới thời điểm
hiện tại, đã có 24 ngân hàng thương mại và 29 công ty chứng khoán là thành
viên của thị trường trái phiếu chính phủ.
d) Năm 2013: là năm bùng nổ của thị Trường trái phiếu chính phủ. Về giao
dịch, giao dịch TPCP đạt 313.000 tỷ đồng (gấp gần 2 lần so với giá trị giao dịch
của cả năm 2012), trong đó giao dịch Outright chiếm tỷ trọng chủ yếu trên thị
trường (hơn 83% giá trị giao dịch toàn thị trường) và tập trung chủ yếu vào các

kỳ hạn ngắn 2 năm, 3 năm, giá trị giao dịch bình quân phiên trong năm 2013 đạt
1.929 tỷ đồng, gấp 2 lần so với năm 2012.
Trên thị trường sơ cấp, các hoạt động giao dịch tính đến giữa tháng 12/2013
đã được triển khai hiệu quả với khối lượng huy động đạt 189.924 tỷ đồng, bằng
113,3% so với năm 2012.
Để tạo điều kiện cho hoạt động đấu thầu được tiến hành thuận lợi hơn, ngày
6/8/2012, hệ thống đấu thầu điện tử trên thị trường sơ cấp TPCP đã chính thức
kết nối trực tiếp với các thành viên đấu thầu, với tổ chức phát hành và cơ quan
quản lý.
Page 23

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Toàn bộ quá trình đấu thầu được điện tử hóa từ khi bắt đầu đến khi hoàn tất
phiên đấu thầu một mặt giúp các thành viên tham gia đấu thầu nhanh chóng, hiệu
quả, giúp cơ quan vận hành rút ngắn đáng kể thời gian xét thầu và xác định kết
quả đấu thầu, mặt khác góp phần đảm bảo tính minh bạch của hoạt động đấu
thầu. Hơn 1 năm áp dụng, hệ thống đấu thầu điện thử đã phát huy hiệu quả, trên
thị trường sơ cấp đã hình thành thị trường đấu thầu cạnh tranh.Quy trình đấu
thầu - niêm yết được chuẩn hóa, thời gian giảm xuống dưới 5 ngày.
Trên thị trường thứ cấp, quy mô niêm yết được tăng đáng kể qua các năm.
Tại thời điểm cuối năm 2013, có 505 mã trái phiếu được niêm yết với giá trị
khoảng 517.000 tỷ đồng, tăng hơn 20% so với cuối năm 2012.
Giao dịch TPCP đạt 313.000 tỷ đồng (gấp gần 2 lần so với giá trị giao dịch
của cả năm 2012), trong đó giao dịch Outright chiếm tỷ trọng chủ yếu trên thị
trường (hơn 83% tổng giá trị).
Trong thời gian qua, thị trường trái phiếu nói chung và thị trường trái phiếu

chính phủ (TPCP) nói riêng đã có những bước tiến mạnh về quy mô và chất
lượng, trở thành kênh quan trọng trong việc huy động vốn cho ngân sách nhà
nước (NSNN). Để thị trường trái phiếu chính phủ phát triển ổn định và bền
vững, cần tiếp tục có những giải pháp và lộ trình phù hợp.
Thị trường TPCP đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng, trở thành kênh
huy động và phân bổ vốn cho phát triển kinh tế của đất nước, đóng góp tích cực
trong việc phối hợp điều hành chính sách tài chính - tiền tệ thông qua các nghiệp
vụ mua bán TPCP. Lãi suất trên thị trường TPCP còn là kênh tham chiếu lãi suất
thị trường nợ, phục vụ cho việc điều hành kinh tế vĩ mô của Bộ Tài chính, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Page 24

QTKD1- K15


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Tại khu vực châu Á, trong thời gian qua, sự bất ổn thị trường tài chính của
các nước khu vực đồng tiền chung châu Âu đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
triển của các nước khu vực châu Á, đặc biệt là các nước có nền kinh tế mới nổi
với mục tiêu đặt ra là duy trì ổn định và tăng trưởng đầu tư. Tuy nhiên, thị trường
trái phiếu của các nước trong khu vực trong năm 2013 vẫn có dấu hiệu tăng
trưởng so với thời điểm cuối năm 2012. Cụ thể: Việt Nam có mức tăng cao nhất
khoảng 20%, Indonesia Singa 5,9% pore 5,1%, Hàn Quốc 3,6%...
Tại Việt Nam, đường cong lợi suất TPCP (là chỉ báo quan trọng để dự báo
lãi suất trong tương lai) có chiều hướng đi xuống kể từ cuối năm 2012.Chiều
hướng này phần lớn phản ánh những thay đổi quan trọng trong chính sách thời
gian qua và đặc biệt là từ đầu năm 2013.
Những thành công trên là rất đáng kể, tuy nhiên, thị trường TPCP vẫn còn
rất thiếu các sản phẩm giao dịch, cơ cấu nhà đầu tư chưa đa dạng ảnh hưởng đến

việc đa dạng hóa sản phẩm giao dịch cũng như thiếu cơ chế khuyến khích, hỗ trợ
các chủ chủ thể đầu tư hay chưa có sự hỗ trợ nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro.
Những yếu tố này phần nào làm giảm sự “lôi cuốn” nhà đầu tư tham gia tích cực
trên thị trường TPCP.
e) Năm 2014: Bộ này cho biết, trong tổng giá trị nêu trên, phát hành trái phiếu
Chính phủ năm 2014 đạt 234.067 tỉ đồng, tăng 30% so với khối lượng huy động
năm 2013 và gấp 3,5 lần năm 2010. Thị trường trái phiếu chính phủ.
Bộ Tài Chính giảm huy động TPCP ngắn hạn, tăng huy động TPCP dài hạn
với lãi suất hợp lý, góp phần giảm áp lực trả nợ cho NSNN. Trong năm 2014, tận
dụng kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định hơn, mặt bằng lãi suất thấp, Bộ Tài chính
đã chỉ đạo Kho bạc Nhà nước tăng cường phát hành TPCP các kỳ hạn dài. Từ
Page 25

QTKD1- K15


×