Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

BÀI TẬP LỚN TTNH: Chính sách lãi suất của Ngân Hàng Trung Ương Thái Lan từ năm 2011 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.62 KB, 21 trang )

1

BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TIỀN TỆ -NGÂN HÀNG
Học kì 1 năm học 2014-2015
Đề tài: Chính sách lãi suất của Ngân Hàng Trung Ương Thái Lan từ năm 2011 đến
nay
Danh sách nhóm:
1. Đỗ Thùy Dung
2. Trần Thị Thúy Hằng
3. Nguyễn Thị Ngọc Huyền
4. Nguyễn Thế Linh
5. Phạm Thị Hồng Nhung


2

Danh mục tài liệu tham khảo
Học viện Ngân hàng, 2013. Giáo trình tiền tệ-ngân hàng. Học viện Ngân hàng

Quốc Hội, 2010. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam [văn bản trực tuyến] tại
< />ItemID=25813> [truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014]

Phạm Thị Thu Hà, 2011. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương các nước
đang phát triển và Việt Nam. Tiểu luận. Đại học kinh tế-Luật Đại học quốc gia tp. Hồ Chí
Minh

TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, 2010. Chính sách lãi suất: Cơ sở và thực tiễn [doc] tại: <
/>whw1vJLvRzPyR3yt2YQW19SLNhQvL1lvLQK!2010750869!-1194366112?
dID=500587&dDocName=CNTHWEBAP01162522458&Rendition=nguyen%20thi
%20kim%20thanh.doc&filename=1156_nguyen%20thi%20kim%20thanh.doc> [Truy cập


ngày 30/9/2014]

Bank of ThaiLand, 2012. Monetary Policy Instruments (Dec 2012) [pdf] tại:
< />%20articles/Monetary%20Policy%20Instruments%20(Dec%202012).pdf> [truy cập ngày
26 tháng 9 năm 2014]


3

Bank of ThaiLand, 2014. Monetary Policy report June 2014 [pdf] tại: <
> [truy cập
ngày 26 tháng 9 năm 2014]

< > [Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2014]

< [Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2014]

< [Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2014]

< [Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2014]

< />cập ngày 12 tháng 10 năm 2014]

Nội dung

[Truy


4


Trang
I. Cơ sở lý thuyết
1. Lãi suất và chính sách lãi suất
2. Cơ sở lý luận của chính sách lãi suất
2.1 Tại sao NHTW phải điều chỉnh lãi suất?
2.2 Lý thuyết công cụ chính sách tiền tệ
2.3 Cơ chế điều hành lãi suất
2.4 Lãi suất của NHTW
II. Chính sách lãi suất của NHTW Thái Lan
1. Các công cụ chính sách tiền tệ
1.1. Yêu cầu dự trữ
1.2. Hoạt động thị trường mở (OMOs)
1.3. Các công cụ thường trực
2. Thực trạng qua các năm
2.1. Lãi suất ngắn hạn
2.2. Lãi suất dài hạn
3. Tác động đến nền kinh tế
III. Đánh giá và đề xuất
1. Nhận xét và đánh giá
2. Kiến nghị và đề xuất

5
5
5
6
7
7
9
10
11

15
17
17
20
21
23
23

I/ Cơ sở lý thuyết
1. Lãi suất và chính sách lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định
mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Lãi suất đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế của mỗi quốc gia:


Là công cụ kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm của
các chủ thể kinh tế


5






Là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô
Là công cụ phân phối vốn và kích thích sử dụng vốn có hiệu quả
Là công cụ đo lường tình trạng sức khỏe của nền kinh tế
Là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia


Chính sách lãi suất là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ nhằm kiểm
soát và điều tiết lãi suất.
2. Cơ sở lý luận của chính sách lãi suất
2.1. Tại sao NHTW phải điều chỉnh lãi suất?
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn NHTW các nước là ổn định giá
trị đồng tiền của quốc gia – thông qua việc kiểm soát lạm phát. Trong đó, lãi suất là một
trong những công cụ của NHTW để đạt được mục tiêu đó.
Để quyết định điều chỉnh lãi suất như thế nào, lãi suất cần được xem xét trong mối
quan hệ cung – cầu của thị trường và tình trạng lạm phát. Lãi suất thị được xác định dựa
trên cung – cầu quỹ cho vay và cung – cầu tiền. Trong điều kiện các yếu tố ngoại sinh
không đổi, cầu quỹ cho vay của xã hội biến động ngược chiều với lãi suất còn cung quỹ
cho vay phản ứng đồng biến với sự thay đổi của lãi suất. Điểm cân bằng lãi suất được tạo
nên tại điểm phản ánh sự phù hợp giữa cung và cầu quỹ cho vay. Mặt khác, lượng cầu tiền
biến động ngược chiều với sự biến động của lãi suất còn mức cung tiền do NHTW đưa ra
là mục tiêu cố định với mọi lãi suất. Điểm cân bằng của đường cung tiền và cầu tiền làm
hình thành nên mức lãi suất thị trường.
Mối quan hệ giữa lãi suất và lạm phát được hình thành dựa trên sự ảnh hưởng của
lãi suất lên tổng cầu, đó là điểm mấu chốt để sử dụng lãi suất trong việc quản lý kinh tế.
Trong cấu phần của tổng cầu có hai yếu tố chịu tác động trực tiếp của việc thay đổi lãi
suất là tiêu dùng và đầu tư. Trong đó, tiêu dùng sẽ giảm xuống khi lãi suất tăng lên do giá
cả của việc vay mượn cho nhu cầu tiêu dùng trở nên đắt đỏ hơn. Đối với đầu tư, chi phí
vay tăng làm cho khả năng sinh lời của các khoản đầu tư trở nên thấp hơn.Vì thế việc tăng
lãi suất cũng sẽ làm giảm đầu tư, tuy nhiên, mức độ giảm còn phụ thuộc vào sự co dãn
của cầu đầu tư so với lãi suất. Ngược lại, khi lãi suất giảm xuống thì hành vi của người
tiêu dùng và nhà đầu tư thay đổi theo hướng ngược lại.
Chính vì những mối quan hệ trên nên lãi suất đã trở thành công cụ được lựa chọn
để kiểm soát lạm phát mục tiêu và kiểm soát các kỳ vọng lạm phát hữu hiệu.
2.2. Lý thuyết công cụ chính sách tiền tệ
2.2.1) Công cụ trực tiếp

Loại công cụ này được NHTW sử dụng dưới các hình thức: quy định hạn mức tín
dụng, khống chế trực tiếp lãi suất tiền gửi – lãi suất tiền vay, khống chế tỷ giá mua – bán
ngoại tệ của các ngân hàng. Bên cạnh mức tín dụng, NHTW có thể điều tiết trực tiếp các


6

mục tiêu trung gian thông qua việc ấn định lãi suất hoặc tỷ giá. Công cụ này thường được
sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm không chế trực tiếp và ngay lập tức lượng
tín dụng cung ứng.
2.2.1) Công cụ gián tiếp
Dự trữ bắt buộc (DTBB) ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng theo 3 cách:
-Thứ nhất, nếu NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, bộ phận dự trữ dư thừa trước đây
trở thành dự trữ bắt buộc, làm giảm khả năng cho vay của hệ thống NHTM.
-Thứ hai, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm giảm mức cung vốn NHTW trên thị trường
liên ngân hàng. Trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không đổi, sự giảm sút này làm
tăng lãi suất liên ngân hàng, từ đó gây ảnh hưởng đến các mức lãi suất dài hạn và khối
lượng tiền cung ứng.
-Thứ ba, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm tăng chi phí đầu vào cho NHTM, nếu chi
phí này quá lớn buộc NHTM phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp.
Chính sách tái chiết khấu
Sự thay đổi lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá đầu vào của các NHTM, vì thế
các ngân hàng này dần dần tăng (giảm) lãi suất cho vay, do đó làm giảm (tăng) nhu cầu
tín dụng. Bên cạnh đó, khi lãi suất chiết khấu tăng lên (giảm), các NHTM không thể vay
NHTW một cách dễ dàng (hoặc là mở rộng khả năng vay), buộc các NHTM phải giảm
bớt khả năng cung ứng tín dụng để hồi phục dự trữ, hoặc mở rộng cho vay trong các
trường hợp ngược lại.
Nghiệp vụ thị trường mở:
-Thứ nhất, NHTW mua (bán) các chứng khoán sẽ làm tăng (giảm) ngay lập tức dự
trữ của các NHTM, khả năng tạo tiền gửi của hệ thống ngân hàng giảm xuống, từ đó ảnh

hưởng đến lượng tiền cung ứng.
-Thứ hai, khi vốn khả dụng của từng ngân hàng giảm (tăng) do tác động của hoạt
động thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng giảm xuống
( tăng lên), trong điều kiện các yếu tố liên qua không đổi, lãi suất thị trường liên ngân
hàng tăng lên (giảm xuống).
-Thứ ba, NHTW bán chứng khoán, lượng chứng khoán tăng lên còn nhu cầu chứng
khoán không tăng, làm cho giá các chứng khoán giảm xuống, mức sinh lời của chúng
tăng lên. Điều này buộc các tổ chức nhận tiền gửi phải tăng lãi suất và lãi suất của các
chứng khoán mới phát hành cũng tăng tương ứng.
2.3. Cơ chế điều hành lãi suất:
2.3.1) Cơ chế điều hành gián tiếp


7

NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các NHTM thông qua cơ
chế tái cấp vốn. Cơ chế này được thực hiện theo 2 nguyên tắc: NHTW chỉ công bố các
mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố các
chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho
vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế
sẽ do tổ chức tín dụng tự ấn định, dựa trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh trên
thị trường, từ đó mà hình thành nên các mức lãi suất phản ánh đúng yêu cầu của thị
trường.
2.3.2) Cơ chế điều hành trực tiếp
NHTW quản lý thống nhất lãi suất đối với nền kinh tế, quy định mức lãi suất cho
vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng. Trong phạm vi lãi suất được
phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định mức lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có
các thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW sẽ xem xét điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa cho
hợp lý. Cơ chế điều hành trực tiếp gồm:
-Cơ chế ấn định lãi suất: NHTW công bố tất cả các loại lãi suất. Các ngân hàng và

các tổ chức tín dụng đều phải thực hiện một cách tuyệt đối.
-Cơ chế khống chế lãi suất: NHTW không ấn định các mức lãi suất, mà chỉ quy
định các mức lãi suất tối đa và mức lãi suất tối thiểu tạo thành khung giới hạn để trong đó
các ngân hàng, các tổ chức tín dụng xác định lãi suất kinh doanh.
2.4. Lãi suất của NHTW
2.4.1.Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW trong
ngắn hạn (chỉ áp dụng cho nội tệ), do NHTW công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng
ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị
trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của NHTW, lãi suất huy động đầu
vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn. Thực hiện cơ chế điều
hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn định lãi suất cho vay tối đa dựa theo lãi
suất cơ bản do NHTW công bố trong từng thời kỳ theo quy định của pháp luật. Đây là
công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM. Sự thay đổi mức lãi suất
ngắn hạn được khống chế bởi NHTW có thể ảnh hưởng đến các mức lãi suất khác nhau
của nền kinh tế theo nguyên lý cơ cấu dài hạn của lãi suất. Cuối cùng, ảnh hưởng này lan
truyền tới toàn bộ hệ thống lãi suất của nền kinh tế. Hiệu quả của sự tác động này phụ
thuộc vào đặc điểm tổ chức của thị trường tài chính và mức độ trông đợi của thị trường.
Cùng với đó, NHTW tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường
mở, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Lãi suất cơ
bản được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung – cầu vốn thị trường,


8

mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại
hối ở trong và ngoài nước.
2.4.2.Cặp lãi suất chỉ đạo (lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu)
NHTW có thể thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng cùng với
biên độ chênh lệch để điều tiết lãi suất thị trường trong đó trần là lãi suất tái cấp vốn, sàn

là lãi suất tái chiết khấu; lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở biến động
trong phạm vi hành lang này. Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò định hướng
và thực hiện việc bơm tiền ra hoặc hút tiền về, từ đó tác động đến cung – cầu vốn, lãi suất
thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM. Lãi suất tái chiết
khấu là lãi suất thực hiện trên cơ sở đối tượng là các giấy tờ có giá, ví dụ: hối phiếu, lệnh
phiếu, trái phiếu , ...Các ngân hàng sẽ chấp nhận trả tiền cho người sở hữu các giấy đó để
đổi lại một khoản lời mà ta gọi là lãi suất chiết khấu và thu lại khoản tiền của họ đối với
người thanh toán ghi trên đó khi đến hạn. Các ngân hàng này lại cần tiền nhưng các giấy
tờ đó chưa đến hạn thanh toán họ bán lại các khoản sẽ thu này cho NHTW để đổi lấy tiền
mặt và bớt lại cho NHTW một khoản, đó là lãi suất tái chiết khấu. Nếu lãi suất chiết khấu
bằng hoặc thấp hơn lãi suất thị trường thì NHTM sẽ cho vay đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt
giảm đến mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ NHTW mà không
phải chịu bất kỳ thiệt hại nào. Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các
NHTM không thể để cho tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm xuống đến mức tối thiểu cho phép,
thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải vay tiền từ NHTW với lãi suất cao hơn
lãi suất thị trường khi phát sinh nhu cầu tiền mặt bất thường từ phía khách hàng. Theo
điều 11 của Luật ngân hàng Nhà nước 2010 thì tái cấp vốn là hình thức ngân hàng Nhà
nước cấp tín dụng có bảo đảm cho các ngân hàng nhằm cung ứng vốn ngắn hạn. Đối
tượng của lãi suất tái cấp vốn là các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, và sau
đó họ bán lại các khoản này cho NHNN để đổi lấy tiền mặt. Lãi suất cơ bản sẽ nằm trong
khoảng giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu.
2.4.3.Cặp lãi suất kiểm soát thường xuyên (lãi suất cho vay qua đêm của NHTW và lãi
suất tiền gửi tại NHTW):
Lãi suất tiền gửi tại NHTW là lãi suất cho các khoản tiền gửi của các NHTM tại
NHTW. Lãi suất cho vay qua đêm của NHTW là lãi suất của NHTW khi cho NHTM vay
trong 1 ngày để đáp ứng nhu cầu thanh khoản khi ls qua đêm quá cao các ngân khó có thể
vay NHTW, và để bù đắp thiếu hụt vốn (phục vụ các nhu cầu vay, thanh khoản của khách
hàng), các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất huy động tiền đồng để thu hút thêm vốn
nhàn rỗi từ dân, lãi suất huy động tăng, chi phí huy động vốn tăng dẫn đến ngân hàng
phải tăng lãi suất cho vay, ảnh hưởng đến đầu tư , ảnh hưởng đến nền kinh tế.



9

II/ Chính sách lãi suất
1. Các công cụ chính sách tiền tệ của NHTW Thái Lan
Trong khuôn khổ lạm phát mục tiêu, Ngân hàng Trung ương Thái Lan (BOT) sử dụng tỷ
lệ mua lại song phương 1 ngày như tỷ lệ chính sách quan trọng. Ủy ban Chính sách tiền tệ
(MPC) báo hiệu sự thay đổi trong chính sách tiền tệ thông qua những thay đổi trong chính
sách lãi suất. BOT sử dụng một loạt các công cụ chính sách tiền tệ để thực hiện các quyết
định lãi suất của MPC.
Cơ cấu hoạt động của BOT bao gồm một bộ các công cụ được chia thành 3 loại:
1.1 Yêu cầu dự trữ
1.2 Hoạt động thị trường mở
1.3 Các công cụ thường trực

1.1) Yêu cầu dự trữ
Ngân hàng thương mại được yêu cầu duy trì một mức dự trữ tối thiểu trung bình
trong khoảng thời gian hai tuần một lần, (bắt đầu vào ngày Thứ Tư và kết thúc vào ngày
thứ Ba thứ hai sau đó, phù hợp với vòng họp của MPC) tương đương với một tỷ lệ phần
trăm nhất định của mức tiền gửi/nợ ngắn hạn trung bình của ngân hàng thương mại trong
thời kì trước.
Các cơ sở dự trữ bao gồm các khoản tiền gửi, các khoản vay thông qua phát hành
tín phiếu, các khoản vay nước ngoài ngắn hạn đáo hạn trong vòng một năm và vay khác.
Hiện nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 6%, và dự trữ bao gồm các tài sản sau đây:


10

1) Dự trữ tối thiểu 1% trong khoản tiền gửi không dùng để trả lương công nhân

viên (trong đó không hơn 0.2% tiền mặt tại trung tâm của ngân hàng thương mại có thể
tính vào phần này)
2) Tối đa 2,5% trong số lượng tiền mặt dự trữ. Tiền mặt tại các trung tâm tiền mặt
của các ngân hàng thương mại mà vượt quá 0,2% có thể được tính là tiền mặt dự trữ
3) Phần còn lại trong chứng khoán đại chúng đủ điều kiện và có kỳ hạn tại BOT
Yêu cầu dự trữ được xác định trên cơ sở mức trung bình của số dư dự trữ tài sản
cuối ngày của các ngân trong thời gian bảo trì. Sắp xếp trung bình như thế giúp tạo thuận
lợi cho quản lý thanh khoản của các ngân hàng cũng như để giảm biến động hàng ngày
của lãi suất ngắn hạn. Ví dụ, một ngân hàng có thể duy trì dự trữ dưới mức yêu cầu trên
một ngày cụ thể, và chọn để tăng dự trữ của tổ chức vào các ngày khác trong cùng một
thời gian bảo trì, mà không nhất thiết phải vay vốn từ thị trường liên ngân hàng vào ngày
hôm đó có thể gây áp lực lên các lãi suất liên ngân hàng.
Việc thực hiện dự phòng cũng giúp cho các ngân hàng thương mại linh hoạt hơn
trong quản lý thanh khoản bằng cách cho phép các ngân hàng chuyển giao đến 5% khoản
dự trữ giữa các kỳ bảo dưỡng liên tục. Việc thực hiện dự phòng chỉ áp dụng cho thành
phần của tài khoản tiền gửi hiện tại và nó hoạt động theo cả hai cách. Nó có nghĩa là ngân
hàng có thể tính một phần dự trữ dư thừa giai đoạn này lên phần dự trữ của giai đoạn tiếp
theo đến 5% của phần yêu cầu; và ngân hàng có thể bổ sung 5% của giai đoạn hiện tại cho
sự thâm hụt của giai đoạn tiếp theo. Việc thực hiện dự phòng giúp giảm sự biến động của
lãi suất trên ngày cuối cùng của quá trình bảo trì.
1.2) Hoạt động thị trường mở (OMOs)
Trong việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, BOT cam kết giao dịch trong thị
trường tài chính để tác động đến mức độ tổng hợp của số dư dự trữ (tiền gửi các tổ chức
tài chính tại BOT) có sẵn trong hệ thống ngân hàng, và do đó ảnh hưởng đến lãi suất ngắn
hạn.


11

OMOs là công cụ chính được sử dụng để duy trì chính sách lãi suất, đồng thời đảm

bảo tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng để đáp ứng nhu cầu dự trữ bắt buộc và
giải quyết số dư. BOT sử dụng bốn loại chính của hoạt động thị trường mở:
1.2.1) Hoạt động mua lại song phương (BRP)
1.2.2) Việc phát hành tín phiếu/ trái phiếu của Ngân hàng Thái Lan
1.2.3) Sự trao đổi ngoại hối
1.2.4) Mua bán hoàn toàn chứng khoán nợ
1.2.1) Hoạt động mua lại song phương (BRP)
BOT sử dụng BRP và các giao dịch mua đảo ngược để tạm thời thêm hoặc rút hết
khoản dự trữ có sẵn cho hệ thống ngân hàng. Các giao dịch liên quan đến mua, bán chứng
khoán đi kèm với một thỏa thuận: là sẽ đảo ngược giao dịch tại ngày đồng ý giao dịch và
giá cả trong tương lai. Điều này có tác động đến việc cho vay tiền mặt (bơm thanh khoản)
hoặc mượn tiền mặt (hấp thụ thanh khoản) với chứng khoán nợ thế chấp. Giá mua lại sẽ
bằng với số tiền vay cộng với lãi.
BRP được thực hiện thông qua các đại lý chính (PDs) chỉ định cho các giao dịch
BRP. Thông thường, BOT tiến hành các hoạt động BRP vào buổi sáng (từ 9h30 đến
9h45). Tuy nhiên, vào những ngày họp của MPC, BRP được hoãn đến 14h30 (sau khi
công bố quyết định lãi suất của MPC) để cho phép sự thay đổi trong chính sách tỷ giá
(nếu có) sẽ có hiệu lực cùng ngày.
Trước 09:30, BOT thông báo cho PDs rằng BOT dự kiến tiến hành vào ngày hôm
đó (Bơm hoặc hấp thụ thanh khoản ở kì hạn cụ thể). PDs có 15 phút để trả lời với hồ sơ
dự thầu, và vào 10h, BOT thông báo đến mỗi đại lý kết quả đấu thầu của họ. Việc giải
quyết phải được hoàn thành vào 14h cùng ngày. Ngoài ra, BOT có thể xem xét tiến hành
một vòng đặc biệt của hoạt động mua lại song phương (nếu cần thiết) vào 16h để tinh
chỉnh thanh khoản trong hệ thống.
BOT có thể tiến hành đấu thầu lãi suất cố định hoặc đấu thầu lãi suất thay đổi. Đấu
thầu lãi suất cố định được sử dụng cho giao dịch 1 ngày để nâng cao hiệu quả các chính


12


sách lãi suất, trong khi đấu thầu lãi suất thay đổi được áp dụng cho tất cả các giao dịch dài
hạn khác. Nói cách khác, khi BOT muốn tiến hành một giao dịch mua lại song phương 1
ngày, họ sẽ làm như vậy với chính sách lãi suất. Vì vậy, PDs chỉ cho thấy số tiền mà họ
muốn giao dịch với các BOT. Trong đấu thầu lãi suất thay đổi (áp dụng cho giao dịch 7
ngày, 14 ngày và 1 tháng), DPs phải cho thấy cả số tiền và lãi suất.
BRP đã được thiết kế sao cho phù hợp với thực tiễn thị trường quốc tế. BRP đã
thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ Thái Lan và thị trường mua lại tư nhân. Kể từ
tháng sáu năm 2006, BOT đã tiến hành các hoạt động trên một cơ sở thường nhật.
1.2.2) Việc phát hành tín phiếu/ trái phiếu của Ngân hàng Thái Lan
BOT bắt đầu tái phát hành tín phiếu/ trái phiếu vào đầu năm 2003, với mục tiêu mở
rộng phạm vi của các công cụ sử dụng để thực hiện chính sách tiền tệ. Điều này giúp tăng
cường sự linh hoạt và hiệu quả trong việc quản lý tính thanh khoản của thị trường tiền tệ
và tiến hành hoạt động tiền tệ. BOT xác định số lượng phát hành và phân bổ kì hạn thanh
toán theo các điều kiện thị trường tiền tệ hiện hành, có tính đến lịch trình phát hành các
khoản nợ của khu vực công. Lịch đấu giá hàng tháng được công bố trước trên trang web
BOT.
Tín phiếu/ trái phiếu của BOT được phát hành thông qua đấu thầu cạnh tranh
(Competitive Bidding_CB) và đấu thầu không cạnh tranh (NCB). Tần số phát hành thay
đổi tùy theo loại và kì hạn thanh toán của các giấy tờ, tóm tắt trong bảng sau đây:

Loại

Kì hạn thanh toán

Dưới 15 ngày
Tín phiếu chiết khấu
1 tháng
3 tháng
6 tháng
1 năm

Trái phiếu trả lãi định kì 2 năm
3 năm
Trái phiếu lãi suất thả
3 năm

Ngày bán đấu giá Tần suất bán đấu
giá
Thứ 6
Mỗi tuần
Thứ 3
Mỗi tuần
Thứ 3
Mỗi tuần
Thứ 3
Mỗi tuần
Thứ 3
Mỗi tháng
Thứ 5
Mỗi tháng chẵn
Thứ 5
Mỗi tháng lẻ
Thứ 6
Mỗi tháng chẵn


13

nổi

Nhà thầu hợp lệ bao gồm: các tổ chức đủ điều kiện cho việc đấu thầu tín phiếu kho

bạc và trái phiếu Chính phủ như là các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính chuyên
ngành, công ty tài chính, công ty tài chính và chứng khoán, công ty chứng khoán, quỹ hưu
trí của Chính phủ, các quỹ dự phòng, bảo hiệm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ; và các
tổ chức khác đang nắm giữ tài khoản hiện tại của họ ở BOT. Nhà thầu không cạnh tranh
bao gồm hợp tác xã và các tổ chức phi lợi nhuận, những người có thể đặt giá thầu không
cạnh tranh thông qua các đại lý chính do Bộ Tài Chính bổ nhiệm.
1.2.3) Sự trao đổi ngoại hối
Trao đổi ngoại hối (FX swap) là một công cụ mà BOT sử dụng để tác động đến
điều kiện thanh khoản trong thị trường tiền tệ. Nó giúp tăng cường quản lý thanh khoản
của BOT, đặc biệt là khi tài sản thế chấp cho các hoạt động BRP bị hạn chế. Các trao đổi
ngoại hối tương tự như một thỏa thuận mua lại chứng khoán nợ trong nước. Đồng baht
Thái được trao đổi ngoại tệ, cụ thể là với đồng đô la Mỹ, chứ không phải là với các chứng
khoán nợ trong nước.
BOT thực hiện các hoạt động thu hồi tính thanh khoản thông qua giao dịch muabán, trao đổi ngoại hối với các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước. Các hoạt động
mua-bán trao đổi ngoại hối thường được thực hiện để giảm bớt lượng thanh khoản cần
phải được thu hồi thông qua hoạt động BRP. BOT hoặc sẽ gọi trực tiếp cho các ngân hàng
yêu cầu báo giá, hoặc tiến vào vào thị trường thông qua các nhà môi giới. Các giao dịch
được thực hiện trong suốt cả ngày. Hơn nữa, các ngân hàng có nhu cầu thanh khoản đồng
baht có thể nộp hồ sơ dự thầu để mua-bán trao đổi ngoại hối thông qua cửa sổ trao đổi
trực tuyến giữa 11h30-13h30, chỉ ra điểm trao đổi, số tiền và kỳ hạn thanh toán. Sau khi
tính đến các điều kiện thị trường tiền tệ nói chung, BOTsẽ thông báo cho các đối tác kết
quả của họ vào lúc 14h30. Việc thanh toán diễn ra một hoặc hai ngày sau đó (BOT sẽ cho
phép thanh toán cùng một ngày trong trường hợp đặc biệt). Kỳ hạn qua đêm tiêu chuẩn
lên đến một năm.


14

1.2.4) Mua/bán hoàn toàn chứng khoán nợ
Để thêm/rút lâu dài thanh khoản có sẵn cho hệ thống ngân hàng, BOT mua hoặc

bán hoàn toàn chứng khoán nợ với các đối tác trực tuyến được bổ nhiệm (e-Outright).
BOT thường thêm chứ không rút dự trữ thông qua kênh này để phù hợp với nhu cầu gia
cầu tiền trong lưu thông khi nền kinh tế phát triển.
Thủ tục hoạt động: BOT thông báo cho các đối tác e-Outright trước 10h00, thông
qua hệ thống giao dịch Reuters, các chứng khoán cụ thể mà BOT muốn mua hay bán. Các
đối tác có một giờ để hồi đáp với các hồ sơ dự thầu/ chào hàng bao gồm cả lợi tức và số
lượng. Thủ tục bán đấu giá nhiều giá được sử dụng, và BOT sẽ thông báo cho từng đại líPD trước buổi trưa về kết quả đấu giá. Thanh toán diễn ra hai ngày sau đó.
Mặc dù chứng khoán đủ điều kiện bao gồm tất cả các loại chứng khoán đảm bảo
nợ công, nhưng BOT chủ yếu thực hiện mua bán hoàn toàn vào trái phiếu chính phủ và
trái phiếu BOT, như là các giấy tờ có tính thanh khoản cao trên thị trường thứ cấp.

1.3) Các công cụ thường trực
BOT cung cấp các công cụ thường trực, qua đó các tổ chức tài chính có thể vay từ
quỹ tiền gửi qua đêm tại BOT để giúp điều chỉnh tình hình thanh khoản của họ vào cuối
ngày. Tổ chức tài chính không đủ thanh khoản có thể vay vốn bằng việc cầm cố chứng
khoán đủ điều kiện để thế chấp, trong khi các tổ chức với thanh khoản dư thừa có thể gửi
tiền tại BOT.
Lãi suất của các công cụ thường trực bằng với lãi suất chính sách cộng hoặc trừ
một biên, tùy thuộc vào việc tổ chức tài chính vay từ tiền ký quỹ tại các BOT. Hiện nay,
tỷ suất lợi nhuận được đặt ở +/- 0.5%. Tỷ lệ tính trên dịch vụ dài hạn được thiết kế để
đảm bảo rằng các hành lang lãi suất là đủ rộng để khuyến khích người chơi trên thị trường


15

điều chỉnh thanh khoản với nhau trong khi có một thời gian đủ để đảm bảo rằng lãi suất
thị trường sẽ dao động trong một phạm vi chấp nhận được.
Theo công cụ cho vay (Lending Facilities), mặc dù không có giới hạn rõ ràng về số
tiền mỗi tổ chức tài chính có thể mượn, nhưng giá trị hiện tại của tài sản thế chấp sẽ có
hiệu quả như một mức trần. Công cụ cho vay qua đêm như vậy cũng được cung cấp như

một phần của hệ thống thanh toán BAHTNET RTGS (Tổng thanh toán thời gian thực).
Trong trường hợp tính thanh khoản trong ngày không được hoàn trả vào cuối ngày, các
ngân hàng sẽ bị tính lãi suất tương tự như cơ sở cho vay vào cuối ngày.
Các chứng khoán nợ mà các tổ chức tài chính có thể sử dụng như là tài sản thế
chấp là các thiết lập tương tự như tài sản được thế chấp trong hoạt động BRP. Ngoài ra, từ
năm 2011, BOT mở rộng một loạt các tài sản thế chấp đủ điều kiện được chấp nhận trên
công cụ cho vay, bao gồm: trái phiếu chính phủ nước ngoài. Hiện nay, các tổ chức tài
chính vay thông qua công cụ cho vay này có thể cầm cố trái phiếu chính phủ Nhật Bản
như là tài sản thế chấp.
Mọi giao dịch thông qua các công cụ thường trực là qua đêm và được giải quyết
trong cùng một ngày. Các công cụ có sẵn cho tất cả các tổ chức tài chính có các khoản
tiền gửi tại BOT, bao gồm ngân hàng thương mại, công ty tài chính, tổ chức tài chính
chuyên ngành và những người thuộc luật pháp khác theo quy định của hợp đồng BOT.
Các công cụ thường trực được thực hiện mỗi ngày làm việc, vào lúc 16h30-17h và 17h17h30, và bao gồm Công cụ gửi tiền (Deposit Facilities) và Công cụ cho vay tương ứng.
Khoảng thời gian trên có thể kéo dài trong trường hợp của một số vấn đề kỹ thuật liên
quan đến hệ thống thanh toán.
Mặc dù thực thế số lượng giao dịch qua các công cụ thường trực tương đối hạn
chế, nhưng những công cụ này này vẫn là một cơ chế quan trọng để bảo vệ sự ổn định thị
trường tiền tệ. Các công cụ thường trực hoạt động như một "van an toàn" cho hệ thống,
thiết lập mức trần và sàn lãi suất qua đêm trên thị trường, về cơ bản hình thành một hành
lang lãi suất.


16

Lãi suất

Mức trần (công cụ cho vay)

Lãi suất chính sách

Lãi suất thị trường tiền tệ
Mức sàn (công cụ gửi tiền)

Thời gian

2. Thực trạng qua các năm
2.1) Lãi suất ngắn hạn

Bình thường hóa lãi suất là một điểm đặc trưng của kinh tế Thái Lan trong năm
2011. Từ đồ thị 2.1, có thể thấy Tháng 8 đánh dấu sự gia tăng lãi suất lên mức cao nhất là
3.5% và duy trì đến tháng 10 sau đó bắt đầu giai đoạn giảm của lãi suất chính sách. Trong
tuần đầu tiên giảm lãi suất chính sách, lãi suất thị trường vẫn chưa kịp thích ứng nên vẫn
tăng nhẹ nhưng rồi nhanh chóng giảm theo lãi suất chính sách ở tháng tiếp theo. Trong
năm này lãi suất thị trường cũng dao động xoay quanh lãi suất chính sách tuy nhiên 2
mức lãi suất này còn cách nhau một khoảng đáng kể

Đến năm 2012, lãi suất chính sách không thay đổi liên tục như giai đoạn đầu năm
2011 mà sau khi thay đổi đều được duy trì trong nhiều tháng để thị trường có thời gian
thích ứng. Ngoại trừ những tháng đầu tiên của sự giảm lãi suất chính sách, lãi suất thị


17

trường chưa kịp giảm thì ngay sau đó lại trở về thấp hơn mức lãi chính sách và khoảng
cách giữa 2 mức lại suất này đã nhỏ hơn nhiều so với 2011. (Đồ thị 2.2)

Sang năm 2013, lãi suất chính sách tiếp tục được giảm dần dần, về cơ bản không
khác nhiều với diễn biến lãi suất năm 2012. Lãi suất thị trường vẫn xoay quanh lãi suất
chính sách nằm trong hành lang lãi suất với mức trần là lãi suất cho vay và lãi suất tiền
gửi, sự chênh lệch 2 mức lãi suất tương đối ổn định và khá sát nhau. (Đồ thị 2.3)


Nhìn chung cho đến tháng 9-2014, diễn biến thay đổi lãi suất không có sự đột biến
nào, lãi suất thị trường được duy trì ổn định ở mức rất gần với lãi suất chính sách. Như ta
thấy từ đồ thị, 2 đường lãi suất này biến đổi theo nhau và ngày càng gần hơn. Điều này
chứng tỏ NHTW Thái Lan đã sử dụng tương đối có hiệu quả các công cụ chính sách tiền
tệ, điều chỉnh được lãi suất thị trường theo lãi suất chính sách được đề ra. (Đồ thị 2.4)

2.2) Lãi suất dài hạn
Lãi suất
Lãi suất chính sách (%)
Lãi suất trái
1 năm
phiếu chính
2 năm
phủ trung và
3 năm
dài hạn (%)
4 năm
5 năm
6 năm
7 năm
8 năm
9 năm
10 năm
11 năm
12 năm
13 năm
14 năm
15 năm
16 năm

17 năm

1/2011
2.25
2.55
2.88
3.10
3.22
3.27
3.47
3.55
3.60
3.73
3.79
3.86
3.93
4.00
4.04
4.09
4.13
4.16

10/2011
3.50
3.44
3.42
3.39
3.35
3.40
3.39

3.49
3.53
3.53
3.51
3.58
3.65
3.68
3.70
3.76
3.80
3.83

9/2014
2.00
2.11
2.40
2.66
2.94
3.04
3.20
3.31
3.40
3.49
3.56
3.64
3.68
3.72
3.77
3.79
3.84

3.89


18

18 năm 4.17
19 năm 4.19
20 năm 4.21

3.87
3.91
3.95

3.93
3.95
3.97

Từ năm 2011 đến nay, có thể chia chính sách lãi suất của BOT thành 2 giai đoạn.
Từ đầu năm 2011 đến tháng 10/2011 lãi suất chính sách của BOT đưa ra liên tục tăng
nhanh từ 2.25% lên tới 3.50%, từ tháng 11/2011 đến nay thì lãi suất chính sách lại giảm
dần về mức 2.00%. Do lãi suất chính sách được đưa ra tăng nhanh, cứ 1-2 tháng lại tăng
lãi suất và chỉ tăng trong 10 tháng này nên không tác động nhiều tới các trái phiếu dài hạn
mà chỉ làm tăng tương đối cao lãi suất hoàn vốn của các trái phiếu trung hạn. Trong gần 3
năm lãi suất chính sách BOT đưa ra liên tục giảm, các trái phiếu kỳ hạn từ 1 đến 9 năm
đều giảm còn trái phiếu từ 10 đến 20 năm lại tăng nhẹ. Ta có thể nhận ra rằng, lãi suất của
trái phiếu có kỳ hạn càng dài càng ít nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất chính sách. Tuy
nhiên, nếu liên tục duy trì một xu hướng tăng hoặc giảm lãi suất chính sách trong một thời
gian đủ lâu thì nó cũng sẽ tác động tới lãi suất của các trái phiếu có kỳ hạn dài hơn. Như
vậy, trong dài hạn, lãi suất của các trái phiếu dài hạn cũng sẽ được điều chỉnh tăng hoặc
giảm theo sự thay đổi của lãi suất chính sách.

3. Tác động đến nền kinh tế

Từ biểu đồ 3.1, ta có thể thấy việc áp dụng chính sách tiền tệ của BOT đã góp phần
thúc đẩy tăng trưởng GDP. Quý đầu năm 2011, tốc độ tăng trưởng thêm của GDP tăng


19

dần so với nửa cuối năm 2010, nhưng đến quý cuối 2011 thì giảm đi do khủng hoảng kinh
tế. Ngay sau đó đến đầu năm 2012, tốc độ tăng trưởng đã được tăng thêm đến gần 12%,
và tiếp tục duy trì việc tăng tốc sau đó. Đầu năm 2014, do bất ổn chính trị kéo theo bất ổn
kinh tế trong nước mà tốc độ tăng trưởng GDP giảm đi, nhưng với những chính sách tiền
tệ hợp lý thì đã giúp tỷ lệ thay đổi tăng trưởng GDP dần phục hồi, và được dự báo sẽ tăng
trong những năm tiếp theo. Sản lượng GDP thực tế và dự báo được thể hiện trong biểu đồ
3.2 bên dưới:
Tỉ bath

Tuy rằng các công cụ tiền tệ của BOT giúp tỉ lệ lạm phát được duy trì ở mức ổn
định, nhưng vẫn còn khá thấp, chưa đủ khả năng kích thích sản xuất (do ảnh hưởng của
việc bất ổn chính trị nên việc điều chỉnh lạm phát ở mức 3-4% là vẫn còn nhiều khó
khăn). Dưới đây là bảng thể hiện chỉ số lạm phát toàn phần (chỉ số bề nổi do cơ quan
thống kê đưa ra, hay là chỉ số tính theo giỏ hàng hóa) và chỉ số lạm phát lõi (chỉ số lạm
phát tính theo giỏ hàng hóa nhưng loại bỏ đi phần lương thực và năng lượng):

Chỉ số lạm phát
toàn bộ (%)
(Headline Inflation)
Chỉ số lạm phát lõi
(%)
(Core Inflation)


Năm 2013

Năm 2014
(Dự báo)

Năm 2015
(Dự báo)

2.2

2.6

2.5

1.0

1.7

1.4


20

III/ Đánh giá và đề xuất
1. Nhận xét, đánh giá:
NHTW điều chỉnh lãi suất nhằm mục tiêu ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, kích
thích tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và thông qua việc duy trì sự ổn định về giá cả
để hỗ trợ sự tăng trưởng bền vững trong dài hạn.
NHTW Thái Lan đã sử dụng tương đối có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ,

điều chỉnh được lãi suất thị trường theo lãi suất chính sách được đề ra. Năm 2011, sự
chênh lệch 2 mức lãi suất còn tương đối lớn và có nhiều biến động thì đến năm 2012,
2013 và 9 tháng đầu năm 2014, lãi suất thị trường được duy trì ổn định ở mức rất gần
với lãi suất chính sách.
Từ năm 2000 đến năm 2008, mức lạm phát mục tiêu mà BOT đề ra là tốc độ tăng
trưởng bình quân theo quý của lạm phát cơ bản phải được giữ trong khoảng từ 0 –
3,5%. Tuy nhiên, kể từ năm 2009, BOT đã điều chỉnh mục tiêu lạm phát lên mức 0,5 –
3% nhằm tránh nguy cơ giảm phát, đồng thời thu hẹp khoảng dao động của mục tiêu.
Tuy rằng các công cụ tiền tệ của BOT giúp tỉ lệ lạm phát ở mức ổn định, nhưng vẫn
còn hơi thấp, chưa đủ khả năng kích thích sản xuất (do ảnh hưởng của việc bất ổn
chính trị nên việc điều chỉnh lạm phát ở mức 3-4% là vẫn còn nhiều chướng ngại).
2. Kiến nghị, đề xuất:
Theo dõi, giám sát chặt chẽ các điều kiện kinh tế trong nước, cũng như nền kinh tế
lớn và các nước trong khu vực. Mặt bằng giá cả trong nước phải có xu hướng ổn định
cao, nếu một nước có tình trạng lạm phát cao xảy ra thường xuyên thì không áp dụng
được.
Năng lực nghiên cứu chuyên sâu ở trình độ cao, nhạy bén trong việc nhìn nhận về
tương lai thông qua các dự báo về kinh tế.
Đánh giá các rủi ro, nguy cơ mất ổn định và kiến nghị các biện pháp chính sách
với MPC.
Công bố số liệu và thông tin, chính sách thường xuyên, minh bạch, rõ ràng, kịp
thời, chính xác, nhất quán ra công chúng nhằm phát ra những tín hiệu rõ ràng về định
hướng chính sách và kỳ vọng lạm phát.
Ngân hàng Trung ương phải có trách nhiệm giải trình cao, có uy tín, tín nhiệm rất
cao đối với công chúng, có như vậy mới góp phần neo được kỳ vọng về lạm phát của


21

dân chúng. Chính sách phải dễ hiểu, rõ ràng, nhất quán, đáng tin cậy, đạt được sự đồng

thuận cao. Sự minh bạch của quá trình ra quyết định và trách nhiệm giải trình về chính
sách giúp gây dựng và củng cố uy tín và tín nhiệm của Ngân hàng Trung ương. Trong
trường hợp không đạt được mục tiêu lạm phát (mức lạm phát thực tế cao hoặc thấp
hơn so với mục tiêu), BOT cần phải đưa ra sự giải thích rõ ràng về lý do.
Chú trọng công tác dự báo, có các mô hình dự báo và năng lực dự báo phát triển
cao.
Ngân hàng Trung ương phải độc lập với Chính phủ vì mục tiêu của Chính phủ là
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khi đó mục tiêu chính của Ngân hàng Trung ương
là ổn định giá để kiềm chế lạm phát.



×