Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

De cuong kinh te chinh tri on thi cao hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.48 KB, 57 trang )

* Câu 1: Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa? Tại sao hàng hóa có hai thuộc tính là
giá trị sử dụng và giá trị? Nêu 8 quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng Việt Nam? Ý
nghĩa của việc nghiên cứu phạm trù hàng hóa đối với hoạt động sản xuất kinh doanh ở
nước ta? (Trang 189, 190, 191, 192, 193 Q5)
- Khái niệm hàng hóa: Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người thông qua mua bán hay trao đổi trên thị trường
Hàng hóa có thể ở dạng vật thể (hữu hình) hoặc ở dạng phi vật thể (vô hình)
- Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa:
Đã là hàng hóa bao giờ cũng có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
- - Phân tích thuộc tính giá trị sử dụng của hàng hóa:
+ Giá trị sử dụng chính là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người. Ví dụ: gạo để làm để nấu cơm để ăn, là nguyên liệu để làm bún…)
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa do những thuộc tính tự nhiên của sản phẩm (về mặt vật lý,
hóa học, sinh học…) quy định cấu thành nội dung vật chất của của cải, phản ánh mặt tự
nhiên của sản phẩm và mặt chất lượng của hàng hóa và là phạm trù vĩnh viễn
+ Giá trị sử dụng dần dần được phát hiện cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công
nghệ và trình độ của lực lượng sản xuất
+ Giá trị sử dụng là giá trị sử dụng xã hội tức là cho người khác thông qua mua bán, trao đổi
trên thị trường và chỉ được biểu hiện trong khâu tiêu dùng.
+ Trong kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, giá trị sử dụng là “giá đỡ” vật chất để giá trị
trao đổi “neo đậu” hay là biểu hiện.
- - Phân tích thuộc tính giá trị của hàng hóa:
+ Giá trị là một thuộc tính của hàng hóa đồng thời là một phạm trù kinh tế trừu tượng, muốn
nhận thức được bản chất của nó thì phải thông qua giá trị trao đổi.
+ Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về số lượng giữa giá trị sử dụng loai này được đem trao đổi
với giá trị sử dụng loại khác. Ví dụ: 1m vải = 10kg gạo. Vải có giá trị sử dụng để may áo,
gạo có giá trị sử dụng để nấu cơm ăn. Tức vải với gạo có giá trị sử dụng khác nhau, phục vụ
cho nhu cầu khác nhau nhưng được đem trao đổi với nhau.
+ Như vậy các hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau được đem trao đổi với nhau theo những
tỷ lệ nhất định bởi giữa chúng có một cơ sở chung đều là sản phẩm của lao động, đều kết tinh
một lượng hao phí lao động ngang bằng nhau ẩn giấu trong những hàng hóa đó.


+ Từ phân tích trên, rút ra kết luận: Giá trị của hàng hóa chính là hao phí lao động xã hội cần
thiết của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
+ Giá trị là nội dung, là cơ sở quyết định giá trị trao đổi còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức
biểu hiện của giá trị ở trên thị trường. Vậy giá trị quyết định giá trị trao đổi.
+ Giá trị phản ánh quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa với nhau, đồng thời
phản ánh mặt xã hội của hàng hóa và là phạm trù lịch sử chỉ gắn với kinh tế hàng hóa, kinh
tế thị trường
- - Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa:
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng đây là
mối quan hệ thống nhất của hai mặt đối lập hay nói cách khác là mối quan hệ thống nhất bao
hàm tính mâu thuẫn.
Tính thống nhất thể hiện: đã hàng hóa phải có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.
Nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó thì không phải là hàng hóa.
Tính mẫu thuẫn thể hiện:

1


+ Nếu xét các giá trị sử dụng của các loại hàng hóa khác nhau thì chúng khác nhau về
chất, còn nếu xét về giá trị của các loại hàng hóa khác nhau thì chúng đồng chất với nhau chỉ là “Những cục kết tinh đồng chất của xã hội”
+ Giá trị và giá trị sử dụng được thực hiện khác nhau về không gian và thời gian. Giá
trị được thực hiện trước ở trên thị trường, giá trị sử dụng được thực hiện sau ở trong khâu
tiêu dùng. Mặt khác người tiêu dùng vì giá trị sử dụng, người sản xuất, người bán vì giá trị,
vì lợi nhuận. Điều đó hình thành nên mẫu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội.
Giải quyết mẫu thuẫn nay chính là tạo ra nguồn gốc, động lực để thúc đảy hoạt động sản xuất
phát triển.
- Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị là do:
Lao động sản xuất hàng hóa có tính hai mặt. Các-Mác là người có công đầu tiên phát
hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Mặt lao động cụ thể tạo ra giá trị sử
dụng, còn mặt lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. Như vậy chính tính hai mặt

của lao động sản xuất hàng hóa quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hóa. Việc phát
hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận, nó đem
đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự giải thích hiện tượng phức
tạp diễn ra trên thực tế, như sự vận động trái ngược khi khối lượng của cải vật chất ngày càng
tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi.
- 8 quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng Việt Nam:
(Được qui định ở Điều 8 - Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng) và Việt Nam đã công bố
“Ngày Quyền của người tiêu dùng Việt Nam 15-3” và ngày 15 tháng 3 hàng năm chính thức
là ngày Quyền của người tiêu dùng Việt Nam bắt đầu từ năm 2016.
8 quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng Việt Nam bao gồm:
Một là: Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khoẻ, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác
khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hoá, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ cung cấp.
Hai là: Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá; được cung cấp
hoá đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa,
dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.
Ba là: Lựa chọn hàng hoá, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu
cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các
nội dung thoả thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ.
Bốn là: Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng
hàng hoá, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và các nội dung khác liên
quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Năm là: Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng.
Sáu là: Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.
Bảy là: Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền

lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Tám là: Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.
- Ý nghĩa của việc nghiên cứu phạm trù hàng hóa đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
ở nước ta:
2


Với tư cách là người sản xuất,mục đích sản xuất của nhà sản xuất hàng hóa là vì giá
trị, vì lợi nhuận chứ không phải vì giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng đó dành cho những người
khách hàng bỏ tiền ra mua sản phẩm đó để sử dụng giá trị đó. Điều này hình thành nên mâu
thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội. Hiện nay, tại nước ta, một vấn đề nổi cộm về
chất lượng hàng hóa đang lưu thông trên thị trường được cộng đồng đặc biệt quan tâm. Một
số nhà sản xuất vì lợi ích kinh tế, vì lợi nhuận đã không lưu tâm đến tài năng, đức độ
“thương khách hàng như người thân” sản xuất ra thị trường những sản phẩm mặc dù có mẫu
mã đẹp, thỏa mãn nhu cầu khách hàng nhưng tiềm ẩn trong đó là những nguy cơ gây hại cho
người tiêu dùng. Ví dụ như vấn đề thực phẩm bẩn hiện nay đang là một vấn đề nổi cộm,
nóng bỏng đang tồn tại ở Việt Nam khi mà người dân như lạc vào mê cung thực phẩm,
không biết đâu là sạch, đâu là bẩn và không biết nên ăn để chết từ từ hay nhịn ăn để chết đói.
Vì sao hàng năm số người mắc mới và tử vong do bệnh ung thư đang ngày càng gia tăng,
mặc dù công nghệ y học để điều trị các căn bệnh này ngày càng hiện đại. Đó là dễ hiểu khi
người tiêu dùng không hề hay biết nguồn nước họ ăn đang bị các nhà máy đầu độc bằng các
chất thải công nghiệp, họ không hề hay biết miếng thịt lợn họ ăn hàng ngày đang được nuôi
bằng những chất cấm hoặc bị tiêm thuốc ăn thần, rau họ mua ở chợ đang tồn dư một lượng
thuốc trừ sâu đáng kể.
Bên cạnh đó hàng hóa Việt Nam không đủ sức cạnh tranh với các hàng hóa từ Trung
Quốc, Thái Lan…bởi giá yếu tố mẫu mã và giá cả.
Tại Hải Phòng, hàng năm Sở Công thương đều phát động cuộc vận động “Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Song không thể dùng tình cảm kêu gọi thuần túy vì đã là
lợi ích kinh tế thì rất sòng phẳng giữa lợi ích của người mua và người bán. Điều này phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố đòi hỏi các nhà sản xuất phải:

+ Coi trọng hai thuộc tính của hàng hóa để không ngừng cải tiến mẫu mã, tạo ra hàng
hóa phong phú, đa dạng cả về số lượng, chất lượng đảm bảo các quyền lợi cơ bản của người
tiêu dùng về giá trị sử dụng, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu
+ Để tạo động lực chop hat triển sản xuất kinh doanh, buộc các nhà sản xuất phải chủ
động, sáng tạo nhạy bén trong tổ chức quản lý, áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới sản xuất,
nâng cao năng suất tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả ổn định.
+ Các chủ thể sản xuất kinh doanh hàng hóa ở nước ta cần thực hiện hoạt động cạnh
tranh làm mạnh, thực hiện văn hóa kinh doanh, văn hóa kinh tế, tích cự cải tiến hình thức,
mẫu mã hàng hóa, nắm bắt được xu hướng, sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng.
+ Có những biện pháp hữu hiệu để hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo giá cả hợp lý, đáp
ứng ngày một tốt hơn nhu cầu.
+ Khẳng định các thương hiệu uy tín, giữ vững niềm tin đối với người tiêu dùng,
người tiêu dùng Việt Nam tự nguyện lựa chọn thương hiệu Việt Nam, lựa chọn sản phẩm tốt,
chất lượng cao, tẩy chay hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng.
+ Phải vận dụng hai thuộc tính của hàng hóa bằng các quy định về kinh tế, quy định
sản xuất sao cho phù hợp trên cơ sở khoa học nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu
kinh tế - xã hội đã đề ra tại Đại hội XII của Đảng ta, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Với tư cách là người tiêu dùng, tôi luôn cập nhật những vấn đề mới liên quan đến các
mặt hàng sử dụng thiết yếu hàng ngày, phổ biến tuyên truyền cho người thân, xóm giềng,
đồng nghiệp những kiến thức nhận biết các sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng mà vẫn thỏa
mãn nhu cầu sử dụng của những sản phẩm đó. Điều này sẽ làm hạn chế đi phần nào những
rủi ro tiềm ẩn trong những sản phẩm tiêu dùng hiện nay trên thị trường đối với những người
xung quanh mình.
3


* Câu 2: Phân tích lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh ở nước ta hiện nay?

- Phân tích lượng giá trị hàng hóa:
Giá trị hàng hóa được xét ở cả hai mặt, đó là mặt chất và mặt lượng.
Chất của giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa. Hay nói cách khác chính là hao phí lao động xã hội cần thiết của người sản
xuất hàng hóa kết tinh trong xã hội.
Lượng giá trị của hàng hóa là số lượng hao phí lao động xã hội cần thiết của người sản
xuất hàng hóa để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ thuận
với số lượng hao phí đó và được đo bằng thước đo thời gian như giây, phút, giờ, ngày lao
động.
Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều chủ thể kinh doanh cùng sản xuất ra một loại
hàng hóa (trong cùng một ngành), có chủ thể kinh tế ở điều kiện sản xuất tiên tiến, có những
chủ thể kinh tế ở điều kiện sản xuất trung bình của xã hội, bên cạnh đó có những chủ thể kinh
tế có trình độ kỹ thuật, kỹ năng vụng về, có năng suất lao động yếu kém. Vì vậy thời gian lao
động sản xuất xã hội cá biệt là khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị
cá biệt của hàng hóa mà từng chủ thể sản xuất hàng hóa sản xuất ra. Nhưng trên thực tế hàng
hóa được trao đổi trên thị trường không dựa vào lượng giá trị cá biệt mà dựa vào lượng giá
trị xã hội.
Lượng giá trị xã hội của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Các-Mác khằng định: “Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử
dụng ấy”.
Như vậy, thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính bẳng thời gian lao động xã hội
cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng
hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình, trình
độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.
Trên thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động xã hội
cá biệt của những chủ thể sản xuất hàng hóa đại diện cho điều kiện sản xuất tring bình của xã
hội và cung cấp đại bộ phận một loại hàng hóa nào đó trên thị trường.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không bất biến mà nó sẽ thay đổi
cùng với sự thay đổi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và điều kiện sản xuất trung

bình của xã hội.
Muốn tạo ra giá trị hàng hoá, tất yếu phải chi phí một số lao động nhất định, gọi là chi
phí lao động, bao gồm lao động quá khứ và lao động hiện tại. Lao động quá khứ (lao động
vật hoá), tức là giá trị của tư liệu sản xuất (c); lao động hiện tại (lao động sống) tức là lao
động tạo ra giá trị mới (v + m). Như vậy chi phí sản xuất thực tế của xã hội là (c + v + m).
Như vậy để thích ứng chung với giá thành sản phẩm, nhà sản xuất phải tiết kiệm được chi phí
lao động quá khứ (c), tiết kiệm được chi phí lao động sống (v). Nếu ký hiệu cơ cấu lượng giá
trị hàng hóa là (W). Trên cơ sở hạch toán kinh tế phần còn lại m = (W - c - v) mới có thể ở
mức tối đa hóa.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa:
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hóa
cũng là một đại lượng không cố định mà nó sẽ thay đổi tùy thuộc vào hai nhấn tố cơ bản, đó
là năng suất lao động và mức độ phức tạp của lao động.
Thứ nhất năng suất lao động:
4


Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản
phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã
hội. Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã
hội. Vì vậy, năng suất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng
suất lao động xã hội.
Lượng giá trị xã hội của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết
tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời
gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn
vị sản phẩm càng ít. Ngược lại, lao động xã hội càng giảm thì thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra hàng hóa càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều.
Vì vậy, muốn giảm giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống phải tăng năng suất lao động.

Tăng năng suất lao động có ý nghĩa giống như tiết kiệm thời gian lao động.
Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Quy mô và hiệu suất của tư
liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động; Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo
của người lao động; Khả năng triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật cộng
nghệ tiên tiến, hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh; Năng lực về tổ chức, phân công,
điều hành hoạt dộng sản xuất kinh doanh, thích ứng hoặc cải tạo điều kiện tự nhiên…
Phân biệt giữa tăng năng suất lao động với tăng tường độ lao động:
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với lượng
giá trị hàng hóa.
+ Khái niệm: Cường độ lao động là khái niệm phân công mức độ hao phí sức lao động
trong một thời gian nhất định, nói lên mức độ căng thẳng, nặng nhọc, khẩn trương của người
lao động trong quá trình sản xuất.
+ Ảnh hưởng của cường độ lao động đến lượng giá trị hàng hóa: Khi cường độ lao
động tăng lên, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng tăng lên và
lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên tương ứng còn lượng giá trị của một đơn vị sản
phẩm thì không đổi. Xét về bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời
gian lao động.
Từ sự phân biệt trên có thể khẳng định năng suất lao động là một nhân tố vô hạn cho
nên mỗi cá nhân, tập thể, quốc gia phải luôn phấn đấu, còn cường độ lao động là nhân tố hữu
hạn phụ thuộc vào tâm sinh lý của người lao động.
Thứ hai mức độ phức tạp của lao động:
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng
hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao
động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao
động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo,
huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề mới có thể tiến hành được.
Sự quy đổi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình của xã hội theo tỷ lệ
lao động phức tạp được nhân lên gấp bội hay nói cách khác lao động phức tạp chỉ là lao động
giản đơn được nâng lên lũy thừa. Vì vậy trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau,

lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Trong nền sản xuất
hàng hóa, để thuận tiện cho trao đổi, người ta lấy lao động giản đơn trung bình làm đơn vị
trao đổi và quy tất cả lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy, lượng
giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
5


- Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước
ta hiện nay:
- Như phân tích ở trên cho thấy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao
động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
- Cơ cấu lượng giá trị hàng hóa cho biết chi phí để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa tức
sẽ xác định được giá cả của hàng hóa.
Với ý nghĩa thực tiễn là khi điều chỉnh mức độ phức tạp của người lao động và lựa
chọn phương pháp để tăng năng suất lao động thì lượng giá trị của hàng hóa giảm xuống
đồng thời lúc đó doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Cấu thành lượng giá
trị hàng hóa (W) bao gồm giá trị cũ tái hiện (c) và giá trị mới (v+m). Bộ phận giá trị cũ trong
sản phẩm bao gồm lao động quá khứ tồn tại trong yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc, công
cụ, nguyên vật liệu. Giá trị mới là sự hao phí lao động sống trong quá trình sản cuất ra sản
phẩm. Như vậy, để tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải chú ý tới
việc tiết kiệm yếu tố (c), yếu tố (v) để tăng yếu tố (m). Từ đó doanh nghiệp có căn cứ hoạch
định và thực hiện các biện pháp tích cực để giảm chi phí các yếu tố đầu vào hợp lý, bố trí lao
động phù hợp, đầu tư nâng cao trình độ người lao động, áp dụng các biện pháp cải tiến kỹ
thuật, áp dụng các công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh...
- Việc nghiên cứ này có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
ở nước ta hiện nay:
+ Thứ nhất: Nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa đã xác định được giá cả của hàng hóa
đã làm ra, cho biết thời gian lao động xã hội cần thiết giản đơn trung bình để sản xuất ra một
hàng hóa là thước đo giá trị hàng hóa và từ đó xác định được giá cả của hàng nào cao hơn
của hàng hóa nào. Là cơ sở lý luận đưa ra hạch toán kinh tế, xác định lỗ lãi trong sản xuất

kinh doanh dựa trên cơ sở giá thành sản phẩm.
+ Thứ hai: Nghiên cứu lượng giá trị hành hóa tìm ra được các nhân tố tác động đến nó,
từ đó tìm ra cách để giảm giá cả sản xuất như: tăng năng suất lao động, đầu tư vào khoa học
kỹ thuật hiện đại, đầu tư vào công tác đào tạo mà vẫn giữ nguyên hoặc tăng thêm giá trị của
hàng hóa, tiến tới cạnh tranh trên thị trường nhằm đạt được lợi nhuận tối đa.
+ Thứ ba: Bởi vì lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản
đơn trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau. Vì thế cần đầu tư vào các ngành lao
động phức tạp đòi hỏi nhiều chất xám.
- Những biện pháp cụ thể chúng ta nên thực hiện như sau:
+ Nhà nước cần phải chú trọng đầu tư phát triển những ngành lao động tri thức. Các
Bộ ban ngành cần phối hợp để Nhà nước có những quy hoạch đào tạo phù hợp với dự báo
nhu cầu việc làm dài hạn, tránh việc đào tạo tràn lan, lãng phí như hiện nay. Rất nhiều các cử
nhân, thạc sĩ ra trường không tìm được việc làm hoặc phải làm trái ngành, trái nghề hoặc đi
học một nghề khác để có việc làm đảm bảo cuộc sống trước mắt. Cần liên kết các doanh
nghiệp với các cơ sở đào tạo để không ngừng nâng cao trình độ người lao động theo yêu cầu
của doanh nghiệp. Hiện nay, do chính sách đãi ngộ chưa phù hợp cũng dẫn đến một số sinh
viên được đào tạo ở nước ngoài không trở về nước mà ở lại nước ngoài làm việc cũng là một
lãng phí chảy máu chất xám của nước ta. Bên cạnh đó cần nâng cao chất lượng đào tạo nhân
lực đặc biệt là kiến thức chuyên môn, kỹ năng làm việc, hiểu biết pháp luật để đáp ứng được
yêu cầu của thị trường lao động.
+ Cần kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất bằng việc kiểm soát chặt chẽ
việc nhập các nhập khẩu các máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng, đặc
biệt là các công nghệ, thiết bị cũ lạc hậu, kém hiệu quả, tiêu hao nhiều năng lượng, ảnh
hưởng tới môi trường. Trong bài học thực tế của việc nhập khẩu máy móc, thiết bị cho đầu tư
6


sản xuất trong nước, thời gian qua chúng ta đã ghi nhận được những bài học kinh nghiệm đắt
giá như việc đầu tư, xây dựng các nhà máy sản xuất mía đường, sản xuất xi măng lò đứng,
lắp ráp xe gắn máy… thiết bị và công nghệ của các nhà máy này đều nhập từ Trung Quốc.

Hậu quả là hiệu quả sản xuất thấp, tiêu hao nhiều năng lượng, ô nhiễm môi trường, tính cạnh
tranh của sản phẩm thấp. Ngoài ra, nhà nước cần tiếp tục có những hỗ trợ ưu đãi cho doanh
nghiệp khi đổi mới và chuyển giao công nghệ, như cho phép doanh nghiệp khấu trừ 10% lợi
nhuận trước thuế để hình thành quỹ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp mình; với không ít
các dự án còn được ưu đãi, giảm thuế đất, chi phí sử dụng hạ tầng...
+ Kiên quyết đẩy lùi tệ nạn tham ô, tham nhũng; Cải cách hành chính thật hiệu quả
minh bạch; Hạn chế những thủ tục rườm rà trong quản lý kinh tế đồng thời đưa ra những
biện pháp kích thích kinh tế, khuyến khích đầu tư các ngành kinh tế mũi nhọn, công nghệ
cao.
+ Không ngừng triển khai tư vấn, hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện các
biện pháp tăng năng suất lao động bằng việc áp dụng các công cụ, mô hình nâng cao năng
suất từ các nước khác như: Hệ thống quản lý: ISO 9000, ISO 12000, ISO 14000, SA8000,
ISO 22000, ISO 50000, HACC, TQM, GMP, GAP...; Các công cụ tiên tiến: 5S, TPM,
LEAN, KAIZEN, QCC,...
Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) được công bố mới đây cho thấy
năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất ở châu Á-Thái Bình Dương, thấp
hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật 11 lần và Hàn Quốc 10 lần. So với các nước láng
giềng ASEAN có mức thu nhập trung bình, năng suất lao động của Việt Nam cũng chỉ bằng
1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan. Năng suất lao động của người Việt ở mức thấp đáng báo động
là một thực tế đáng buồn, đối nghịch với những tiềm năng của Việt Nam đang trong giai
đoạn dân số vàng, tức phần lớn dân số đang trong độ tuổi lao động, trẻ trung và năng động.
Do đó năng suất chính một yếu tố then chốt quyết định lượng giá trị của hàng hóa đưa đến
khả năng cạnh tranh và sự tồn tại lâu dài của một doanh nghiệp, là cơ sở để nâng cao thu
nhập, tạo môi trường và điều kiện làm việc tốt cho người lao động.

7


* Câu 3: Phân tích quy luật giá trị và liên hệ biểu hiện hoạt động của nó trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay?

- Phân tích quy luật giá trị:
- Khái niệm quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật kinh kế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đâu có
sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị được ví là viên tướng chỉ huy trên chiến trường của cơ chế thị trường
tự điều chỉnh mang tính tự động và linh hoạt.
- Yêu cầu chung và hai yêu cầu cụ thể của quy luật giá trị:
+ Quy luật giá trị có yêu cầu chung nghiêm ngặt là đòi hỏi hoạt động sản xuất và trao
đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Yêu cầu cụ thể:
Thứ nhất là yêu cầu đối với hoạt động sản xuất hàng hóa: Các chủ thể hàng hóa có
quyền tự do, tự chủ quyết định sản xuất hàng hóa, của mình. Muốn tồn tại và phát triển được
buộc họ phải bỏ hao phí lao động cá biệt phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết để bù
đắp được chi phí sản xuất và có lãi. Vì vậy người sản xuất hàng hóa phải điều chỉnh làm sao
cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
Thứ hai là yêu cầu đối với hoạt động trao đổi hàng hóa (lưu thông hàng hóa) trên thị
trường, người bán muốn bán đặt để tối đa hóa lợi nhuận, người mua muốn mua rẻ để tối đa
hóa lợi ích tiêu dùng. Xong quy luật đòi hỏi phải trao đổi hàng hóa theo nguyên tắc ngang
giá (Giá cả bằng giá trị hàng hóa), phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết tức là
hàng hóa có lượng giá trị ngang bằng nhau thì trao đổi được với nhau. Nghĩa là những hàng
hóa có lượng hao phí sức lao động ngang bằng nhau thì có thể trao đổi được với nhau.
- Cơ chế hoạt động của quy luật giá trị:
Quy luật giá trị được biểu hiện thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường với ba
trường hợp: Giá cả lớn hơn giá trị, giá cả ngang bằng giá trị và giá cả nhỏ hơn giá trị. Bên
cạnh việc giá trị quyết định giá cả, giá cả còn chịu sự tác động và phụ thuộc vào quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh, sức mua của đồng tiền…. Sự tác động của các nhân tố này làm
cho giả cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị
của nó, đó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Xong xét trên phạm vi toàn xã hội
thì tổng giá cả của hàng hóa luôn bằng tổng giá trị của hàng hóa và giá cả không thể thoát ly
khỏi trục giá trị

- Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:
Thứ nhất: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
+ Điều tiết sản xuất tức là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế. Tác động này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả
hang hóa trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khu cung
nhỏ hơn cầu, thì giá cả hang hóa sẽ lên cao hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có lãi,
bán chạy thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành đó. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động
được chuyển dịch vào ngành đó tăng lên. Ngược lại khi cung ngành đó vượt quá cầu, giá cả
hang hóa giảm xuống, hàng hóa không bán chạy, và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người
sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hang
hóa cao. Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sự di chuyển sức lao động
và tư liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản xuất của
quy luật giá trị.

8


+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến
động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá
cả cao. Do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về
kinh tế, mà còn tác động điều tiết nền kinh tế hàng hóa.
Thứ hai: Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động,
thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể kinh tế độc
lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất
khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao
phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được
lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần
thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá

sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho bằng hao phí lao động xã hội
cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực
hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá
trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được
thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành
người giàu, người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều
kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao
động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh
chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những
người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị
thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
- (Liên hệ) Biểu hiện hoạt động của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở nước ta hiện nay:
Từ phân tích trên cho thấy những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng
hóa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn: Một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa
chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển. Mặt khác,
phân hóa xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực.
+ Tác động tích cực: Trong một chừng mực nhất định, quy luật giá trị có tác động tự
phát phân bổ một cách linh hoạt và tối ưu các nguồn lực, hình thành cơ cấu kinh tế quốc dân
hợp lý; kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, phát triển lực lượng sản xuất..
+ Tác động tiêu cực: Nhiều khi gây lãng phí lớn tài nguyên, lao động, tiền vốn do
người sản xuất mù quáng chạy theo lợi ích trước mắt, đầu tư vào sản xuất không tính toán
đến nhu cầu có khả năng thanh toán cảu xã hội nên không tiêu thụ được sản phẩm hàng hóa,
phải bán theo giá cả thấp hơn chi phí sản xuất, thậm chí phải hủy bỏ sản phẩm, hủy bỏ tư liệu
sản xuất, chuyển sang kinh doanh ở ngành khác; quy luật giá trị còn tất yếu làm phân hóa
giàu nghèo, gây tình trạng thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, gây ra nạn hàng giả, hàng nhái
làm thiệt hại người tiêu dùng và xã hội…

Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm 1986, Đảng ta đã xác định đổi mới cơ chế
tập trung quan liệu bao cấp đã duy trì quá lâu, có nhiều vấn đề không phù hợp cản trở kinh tế
phát triển. Năm 1991, Đảng ta khẳng định độc lập dân tộc gắn với CNXH, đưa ra cương lĩnh
xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Đến Đại hội 9 năm 2001 lần đầu tiên Đảng
9


ta xác địnhmô hình kinh tế tổng quá là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (nghĩa là
tuân thủ các quy luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh có sự quản lý của Nhà
nước). Đến nay qua hơn 30 năm đổi mới chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đến nay việc điều hành giá cả gặp khó khăn hơn do
hội nhập kinh tế, các loại hàng hóa từ các nước thành viên trong tổ chức ồ ạt vào thị trường
Việt Nam, hàng hóa đa dạng, phong phú nên việc cạnh tranh giữa hàng Việt Nam và hàng
nước ngoài ngày càng khắc nghiệt. Giá cả hàng hóa được hình thành dựa trên lao động cần
thiết nên việc vận dụng một cách khéo léo quy luật giá trị để phù hợp với mục tiêu phấn đấu
của Việt Nam đang được Đảng và Nhà nước hết sức chú trọng thể hiện ở việc phân phối các
nguồn lực kinh tế và điều tiết giá cả đặc biệt là ở sự điều tiết giá cả. Việc hàng hóa Việt Nam
cạnh tranh với hàng hóa các nước khác cũng là một thách thức để các doanh nghiệp Việt
Nam tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại tại doanh
nghiệp mình để hoạt động hiệu quả, cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài.
Từ việc nghiên cứu quy luật giá trị, để phát huy được những mặt tích cực của quy luật giá
trị, hạn chế các mặt tiêu cực giúp cho sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay, bản thân với tư cách người nghiên cứu tôi nhận thấy:
Đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa, Nhà nước cần có những biện pháp để
phát huy mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực của nó. Tạo ra môi trường kinh doanh lành
mạnh dưới sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước không thể làm thay được nhưng là “bà đỡ”
cho doanh nghiệp.
Tạo mối liên hệ kết nối, gắn bó với những người đứng đầu các tổ chức chính quyền
tỉnh/thành phố với các tổ chức, doanh nghiệp, trở thành người đồng hành với doanh nghiệp.
Các biện pháp cụ thể cần thực hiện:

+ Đối với điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa:
Cần đề ra các phương hướng và đặt ra các chính sách đặc biệt về giá cả, điều tiết cungcầu phù hợp với thị trường, với nhu cầu của người tiêu dùng.
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
Nhà nước, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa để lựa chọn
những ngành, những lĩnh vực gắn với nhu cầu trong và ngoài nước.
Mở rộng quy mô sản xuất các mặt hàng có sức hút lớn, giá cả cao đem lại nguồn lợi
nhuận lớn cho người sản xuất, cho toàn xã hội, làm giàu cho đất nước.
+ Đối với việc kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao
động:
Cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Đầu tư vào việc nghiên cứu,ứng dụng và
triển khai áp dụng công nghệ, khoa học, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến vào sản xuất nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản phẩm, mẫu mã ngày càng đẹp, phong phú, đa
dạng về chủng loại, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
Hỗ trợ nhiều hơn nữa kinh phí cho các viện nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu phục vụ
trực tiếp cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất, thực hiện cơ chế đặt hàng trực
tiếp giữa nhà nước,doanh nghiệp và các cơ sở nghiên cứu khoa học, tránh tình trạng bỏ phí
vốn đầu tư do tách rời giữa sản phẩm nghiên cứu và thực tiễn.
Chú trọng đào tạo trình độ chuyên môn cho người lao động, tổ chức phân công lao
động phù hợp, nhịp nhàng, đúng người, đúng việc, không lãng phí. Bên cạnh đó cần đề ra các
chính sách về giá cả, khuyến khích phát triển và đầu tư cho khoa học-công nghệ, chuyển đổi
cơ cấu kinh tế phù hợp,...Các chính sách mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các
vùng, các quốc gia... không chỉ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong
10


nước và quốc tế ngày càng phát triển mà đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân cũng được
nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
+ Đối với sự phân hóa giàu nghèo: Kinh tế tư nhân là động lực thúc đấy kinh tế phát
triển, xóa được đói, giảm được nghèo. Nhà nước đưa ra những chính sách giảm bớt phân hóa
giàu nghèo, chính sách xóa đói giảm nghèo, vay vốn ưu đãi, khuyến nông, khuyến lâm,

khuyến ngư như các chương trình đã triển khai: Lục lạc vàng, Thắp sáng ước mơ, Vượt lên
chính mình, Đèn đom đóm…Bên cạnh đó, cần thực hiện các chủ trương, chính sách hữu hiệu
hơn nữa như đánh thuế thu nhập cá nhân. Đối với người giàu, thuế càng cao phù hợp với
mức thu nhập họ kiếm được. Đối với những người nghèo ngoài việc không thu thế, phải dành
cho họ những ưu tiên, những chính sách đãi ngộ đặc biệt, trợ cấp, khuyến khích họ học tập,
phát triển, nâng cao trình độ dân trí, để có thể tiến kịp trình độ khoa học - kỹ thuật hiện đại
và hòa nhập với một đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tương lai. Bên cạnh đó,
nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần, chủ trương tài trợ và khuyến
khích phát triển ở những địa phương, những gia đình, cá nhân gặp nhiều khó khăn, tạo cơ hội
cho họ phát triển, giúp họ có công ăn việc làm ổn định, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

11


* Câu 4: Phân tích phạm trù hàng hóa sức lao động? Tại sao nói hàng hóa sức lao động
là hàng hóa đặc biệt? Trình bày những hiểu biết cơ bản của anh/chị về thị trường sức
lao động ở nước ta hiện nay? Từ đó đề xuất ra những giải pháp, kiến nghị?
- Phân tích phạm trù hóa sức lao động:
- Khái niệm sức lao động: Theo Các-Mác “Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực ở trong
thân thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con
người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”. Tức là sức lao động là toàn
bộ thể lực, trí lực tồn tại trong cơ thể sống của con người và được người đó vận dụng vào
trong quá trình sản xuất.
- Hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
Một là, người có sức lao động phải là người tự do về mặt thân thể, được làm chủ sức lao
động của mình và có người bán nó như một hàng hóa.
Hai là, người có sức lao động không có hoặc không có đủ tư liệu sản xuất để tự đứng ra
sản xuất nên để tồn tại được buộc họ phải đem bán sức lao động của mình.
- Như các hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính:

Thứ nhất: Thuộc tính giá trị của hàng hóa sức lao động (v):
+ Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định nhưng do sức lao động chỉ tồn tại như năng lực
sống của con người nên để tái sản xuất ra sức lao động người côgn nhân phải tiêu dùng một
lượng tư liệu sinh hoạt nhất định về ăn, mặc, ở, học nghề Ngoài ra người công nhân còn phải
thỏa mãn nhu cầu của gia đình và con cái anh ta. Vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để
tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt ấy.
+ Khác với hàng hóa thông thường, giá trị hàng hóa sức lao động còn bao hàm cả yếu tố
tinh thần và lịch sử. Bởi vì ngoài những nhu cầu vật chất, người công nhân còn có những nhu
cầu về văn hóa, tinh thần và những nhu cầu đó phụ thuộc hoàn toàn vào lịch sử của mỗi nước
trong từng thời kỳ.
+ Kết cấu lượng giá trị của hàng hóa sức lao động gồm:
. Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật chất và tinh thần cần thiết để tái
sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.
. Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.
. Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người
công nhân và gia đình anh ta
Thứ hai: Thuộc tính giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:
+ Thuộc tính giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động đó, tức là quá trình lao động của người công nhân.
+ Tuy nhiên, khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động khi đi vào sử
dụng nó sẽ tạo ra lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó: (v + m) > v.
+ Như vậy việc nghiên cứu thuộc tính giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động đã
chỉ ra nguồn gốc sinh ra giá trị, giá trị thặng dư và đây chính là chìa khóa để giải quyết mâu
thuẫn công thức chung của tư bản.
Tư liệu sản xuất (c)
T-H

.....sản xuất ....... H’ - T’

Sức lao động (v)

- Ý nghĩa của phạm trù hàng hóa sức lao động:
12


Phạm trù hàng hóa sức lao động xuất hiện đánh dấu một bước ngoặt cách mạng trong
phương thức kết hợp sức lao động của người công nhân với tư liệu sản xuất của nhà tư bản
hình thành nên quan hệ sản xuất TBCN, sản xuất hàng hóa lớn TBCN trở thành phổ biến đặc
trưng. Điều này cho thấy hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền thành tư bản
và làm sáng tỏ mẫu thuẫn trong công thức chung của tư bản.
Với tư cách là một lý luận độc lập, hàng hóa sức lao động là cơ sở khoa học để hiểu về
về giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Một đặc điểm rất đặc biệt mà nhà tư
bản rất tinh vi nhìn thấy. Xét về khía cạnh gạt bỏ bản chất thì quản trị về mặt nhân lực chúng
ta phải thấu hiểu về lượng giá trị của hàng hóa bao giờ cũng từ ba bộ phận cấu thành: Toàn
bộ các giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống chính người công nhân (tiền công), các
giá trị tư liệu sinh hoạt đó để nuôi dưỡng con cái của họ và phí tổn để họ nâng cao tay nghề,
không ngừng tri thức hóa để đáp ứng công việc hàng ngày, hàng giờ, luôn luôn cải tiến, sáng
kiến.
- Hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt bởi vì:
+ Xét về thuộc tính giá trị, ngoài yếu tố vật chất nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và
yếu tố lịch sử.
+ Hàng hóa sức lao động đặc biệt ở chỗ: Xét về mặt giá trị sử dụng, hàng hóa sức lao
động có một giá trị rất đặc biệt khi nhà tư bản đem ra sử dụng, nó tạo ra một lượng giá trị
mới (v + m) lớn hơn giá trị của bàn thân nó, là nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị thặng dư.
- Thị trường sức lao động ở nước ta hiện nay:
Là nước có nền kinh tế đang chuyển đổi, trong 30 năm đổi mới vừa qua, song song với
việc mở rộng tự do kinh doanh, phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn và
chứng khoán, thì thị trường lao động nước ta cũng đã và đang được hình thành theo hướng
ngày càng đầy đủ và đồng bộ.

+ Thị trường sức lao động ở nước ta hiện nay có những ưu điểm cơ bản sau:
. Cung lao động rất dồi dào về mặt số lượng, rất nhiều người cần việc làm. Cơ cấu
“dân số vàng” tạo ra nhiều thuận lợi, thế mạnh cho Việt Nam với lực lượng lao động trẻ, dồi
dào. Đây được xem như một lợi thế cho phát triển kinh tế của đất nước nếu năng suất lao
động của nhóm dân số trong độ tuổi lao động tăng lên.
. Lực lượng lao động trẻ rất khao khát việc làm, là lực lượng xung kích, năng động, dễ
tiếp thu được sự đổi mới của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
. Phần lớn người lao động Việt Nam có đức tính cần cù, thông minh, chịu khó, yêu lao
động. Đây là yếu tố tạo nên sức hút của Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài, khiến nước
ta trở thành một trong những điểm đến đầu tư hấp dẫn.
. Quá trình đổi mới, mở rộng chúng ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nên khả
năng nhiều tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đã đang tuyển dụng nhiều việc làm,
giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động, tránh được gánh nặng cho khu vực
kinh tế Nhà nước. Các quy mô doanh nghiệp và và nhỏ cũng đã phần nào giải quyết các nhu
cầu việc làm cho người lao động.
. Giá thuê nhân công ở nước ta thấp nên thu hút được các nhà đầu tư tuyển dụng tại cơ
sở trong nước cũng như xuất khẩu lao động ở nước ngoài.
. Thực tế cho thấy, lao động Việt Nam không hề thua kém lao động của các nước phát
triển, thậm chí được đánh giá cao hơn do có năng suất và tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn khi
được làm việc trong cùng môi trường, cùng điều kiện, cùng hoàn cảnh. Một số doanh nghiệp
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng đánh giá cao sự thông minh của lao động Việt Nam
khi cùng một phương pháp hướng dẫn, đào tạo, công nhân Việt Nam chỉ mất vài ngày là có
13


thể tiếp thu và có thể làm việc, trong khi thời gian này dành cho công nhân ở nhiều nước
khác lên tới vài tuần.
+ Bên cạnh những ưu điểm trên, thị trường sức lao động Việt Nam cũng bộc lộ những
nhược điểm:
. Một bộ phận không nhỏ người lao động lười lao động, thụ động.

. Ý thức kỷ luật lao động của người lao động còn thấp, thiếu tác phong công nghiệp.
. Chúng ta còn tồn tại nhiều thói xấu mà trong những năm gần đây dư luận, báo chí đã
lên tiếng làm xấu đi hình ảnh người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
. Sự phân công lao động còn chưa đều ở các vùng miền, ở các ngành, nghề kinh tế.
Lao động cở nước ta hiện nay chủ yếu ở nông thôn là làm nông nghiệp chiếm phần đông.
. Trình độ lao động vẫn còn thấp, lao động chưa qua đào tạo chiếm phần đông. Hàm
lượng tri thức trong lao động, lao động phức tạp vẫn còn thấp.
. Tổ chức môi giới để kết nối thông tin giữa người đi tìm việc làm, người cung ứng sức
lao động và các nhà tuyển dụng đi tìm nhân lực, các tổ chức xúc tiến việc làm, chợ việc làm,
các tổ chức xuất khẩu lao động tuy hoạt động nhưng chưa đáp ứng được sự kết nối đầy đủ,
chính xác, kịp thời các thông tin để tạo các nguồn lợi cho các nhà doanh nghiệp trong việc
tuyển dụng nguồn nhân lực theo nhu cầu của ngành, nghề trình độ chuyên môn mình cần.
. Việc các định danh mục nghề đào tạo cho người lao động còn dàn trải, chưa bám sát
nhu cầu thực tiễn của thị trường.
. Việc “Thừa thấy thiếu thợ” phổ biến thể hiện trên 70 nghìn thạc sĩ, cử nhân ra trường
không có việc làm phải làm trái ngành nghề.
. Cơ cấu giữa đào tạo và tuyển dụng chưa cân đối, cơ cấu lao động chuyển dịch còn
chậm, lực lượng lao động tìm kiếm việc làm ở những khâu, công đoạn, lĩnh vực công nghệ
cao còn khó khăn.
. Kỹ năng đào tạo giữa lý thuyết và thực hành không có thực tế, không cập nhật các
kiến thức vận hành các trang thiết bị công nghệ mới hiện đại, máy móc mới dẫn đến người
lao động không làm chủ được quy trình công nghệ và phải đào tạo lại khi tiếp nhận công
việc.
. Các kỹ năng mềm để làm việc với các nhà đầu tư nước ngoài chưa được trang bị đầy
đủ, mức độ đáp ứng về khả năng ngoại ngữ còn hạn chế.
. Vẫn tồn tại việc “Chảy máu chất xám” khi nhiều người thích ra nước ngoài làm việc,
làm việc ở những khu công nghiệp, khu chế xuất trả lương cao.
+ Đề xuất giải pháp để nâng cao giá trị sức lao động ở nước ta hiện nay:
Ngày nay thị trường sức lao động tại nước ta có xu hướng đòi hỏi yêu cầu về thể lực
thấp hơn về trí lực. Tuy nhiên để đảm bảo yêu cầu về thể lực và trí lực cuả nười lao động,

đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường sức lao động hiện nay, tôi đề xuất các giải pháp sau:
. Nhà nước cần phải chú trọng đầu tư phát triển những ngành lao động tri thức. Các Bộ
ban ngành cần phối hợp để Nhà nước có những quy hoạch đào tạo phù hợp với dự báo nhu
cầu việc làm dài hạn, tránh việc đào tạo tràn lan, lãng phí như hiện nay.
. Coi trọng việc nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, phương pháp, điều kiện về
cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên đạt trình độ khu vực và tiến dần đến trình độ quốc tế để
nguồn nhân lực Việt Nam có thể tham gia một cách có hiệu quả vào thị trường lao động thế
giới.
. Cần liên kết các doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo để không ngừng nâng cao trình
độ người lao động theo yêu cầu của doanh nghiệp.
. Có chính sách đãi ngộ phù hợp để thu hút lao động chất lượng cao, hạn chế việc
“Chảy máu chất xám”
14


. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực đặc biệt là kiến thức chuyên môn, kỹ năng làm
việc, kỹ năng mềm, khả năng ngoại ngữ, hiểu biết pháp luật để đáp ứng được yêu cầu của thị
trường lao động.
. Tố chức triển khai có hiệu quả các chương trình trọng điểm có khả năng tạo nhiều
việc làm mới, phát triển nông nghiệp nông thôn, phân bổ lại dân cư, lao động, xây dựng các
vùng kinh tế mới.
. Nâng cao thể lực để con người có thể tiếp thu được cường độ lao động với một nền
công nghiệp hiện đại và với một lao động trí lực rất cao. Tuyền truyền về kiến thức về các
chế độ dinh dưỡng, các hoạt động thúc đẩy người dân thể dục, thể thao. Siết chặt công tác
kiểm soát vấn đề môi trường an toàn trong lĩnh vực thực phẩm ăn uống.
. Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về tiền công, tiền lương, các chế độ đối với người
lao động (khi chuyển việc, thôi việc, điều kiện lao động). Đặc biệt là công tác tiền lương, nên
giảm sự can thiệp của Nhà nước trong công tác tiền lương nhất là với các doanh nghiệp Nhà
nước. Cần hoàn chỉnh chế độ tiền lương theo hướng thị trường, tiến tới thống nhất chính sách
tiền lương cho mọi loại hình doanh nghiệp.

. Tạo ra tính liên thông giữa thị trường lao động trong nước với thị trường lao động
ngoài nước, như cung cầu, giá cả sức lao động. Coi trọng việc mở cửa từng thị trường sức lao
động để người lao động Việt Nam tiếp cận dần với trình độ chuyên môn, kĩ năng, kĩ xảo, và
ý thức tổ chức kỉ luật… của các nước công nghiệp.

15


* Câu 5: Tại sao Các-Mác khẳng định: “Sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế
tuyệt đối của CNTB”? Vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối vào
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay?
- Quy luật kinh tế tuyệt đối hay quy luật kinh tế cơ bản là quy luật kinh tế phản ánh rõ
mục đích, bản chất của quan hệ kinh tế và phương tiện để đạt mục đích của một phương thức
sản xuất nhất định. Khi nghiên cứu về phương thức sản xuất TBCN, Các-Mác khẳng định
“Sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB”. Bởi vì:
+ Để sản xuất giá trị thặng dư không tự nhiên mà có, mà phải thông qua quá trình sản
xuất ra giá trị thặng dư. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình
sản xuất ra giá trị thặng dư hình thành nên một quy luật kinh tế, đó là quy luật kinh tế giá trị
thặng dư. Quy luật giá thị thặng dư hình thành từ mối quan hệ bản chất tất nhiên từ tất cả các
quá trình nhà tư bản tiến hành đầu tư vì giá trị thặng dư, sinh ra một quy luật chi phối sự vận
động và phát triển của phương thức này.
+ Mỗi phương thức sản xuất có quy luật kinh tế tuyệt đối phản ánh mối quan hệ kinh
tế bản chất của phương thức sản xuất đó. Trong phương thức sản xuất TBCN, quy luật kinh
tế tuyệt đối của CNTB theo Các-Mác là quy luật giá trị thặng dư.
+ Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân lao động làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ
kinh tế bản chất nhất của CNTB - quan hệ tư bản - quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê.
Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các
nhà tư bản.
+ Nội dung quy luật giá trị thặng dư: “Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều, càng nhiều

giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các biện pháp kỹ thuật và nâng cao
trình độ quản lý để bóc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê”. Điều này cho thấy mục đích
của nhà sản xuất TBCN không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, theo
đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy hoạt động của mỗi nhà tư bản
cũng như toàn bộ xã hội tư bản. Nội dung này phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất
của CNTB, đó là quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê.
- Như vậy mục đích của nền kinh tế tư bản không phải vì giá trị sử dụng, mà là giá trị,
cũng không phải giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên.
+ Vì giá trị thặng dư đã trở thành mục đích, động cơ, động lực thôi thúc nhà tư bản
cũng như của toàn bộ xã hội tư bản vì lợi ích trực tiếp của mình mà bằng mọi cách để có
được giá trị thặng dư ngày càng nhiều. Đó là động lực trực tiếp mang tính chất vì lợi ích giá
trị thặng dư tối đa.
+ Bản chất của quan hệ sản xuất TBCN là một quan hệ kinh tế bất bình đẳng, người
bóc lột người, trong đó giai cấp tư bản đã chiếm dụng giá trị thặng dư do giai cấp công nhân
làm thuê tạo ra. Bởi vì giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức
lao động do công nhân làm thuê tạo ra trong thời gian lao động thặng dư bị nhà tư bản chiếm
không. Như vậy, nhà tư bản đã sử dụng đặc quyền, đặc lợi để chi phối một số lượng lao
động không công của công nhân làm thuê.
+ Phương tiện để đạt được mục đích vì giá trị thặng dư tối đa của nhà tư bản: Nhà tư
bản về cơ bản đã sử dụng hai phương pháp giá trị thặng dư. Đó là sử dụng phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thăng dư tương đối. Giá trị thặng dư tuyệt đối như:
Kéo dài ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi, tăng cường độ
lao động hoặc cắt xén tiền công. Sử dụng sử dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tương đối bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một cách tương ứng
thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài
16


ngày lao động không đổi. Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc nhà tư bản phải tăng năng
suất lao động, tức tăng năng suất lao động cá biệt, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu

ngạch, là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bả cải tiến kỹ thuật, áp dụng công
nghệ mới vào sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hóa.Ngoài ra, nhà tư
bản còn dùng phương pháp tăng cường quản lý bằng khoán sản phẩm và công việc.
Như vậy, sản xuất giá trị thăng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB, là cơ sở của
sự tồn tại và phát triển của CNTB
- Quy luật giá trị thặng dư có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng. Đó là chi phối,
quyết định sự ra đời, sự tồn tại, sự vận động, sự phát triển của CNTB đồng thời tạo ra những
tiền đề khách quan dẫn tới sự phủ định chính phương thức sản xuất TBCN. Như vậy CNTB
không tồn tại vĩnh viễn, không sớm thì muộn nó cũng sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản
xuất mới tiến bộ hơn.
- CNTB có thể nói rằng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển trong giai đoạn
ngày nay nó đã đang đổi mới để thích nghi, có sự điều chỉnh quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức
sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm, nhưng sự thống trị của CNTB tư bản tư nhân vẫn tồn
tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của CNTB vẫn không thay đổi. Quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư vẫn là quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB. Tuy nhiên, nó có 3 đặc điểm mới:
+ Thứ nhất, quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng
suất lao động.Việc tăng năng suất lao động từ việc áp dụng máy móc hiện đại, công nghệ kỹ
thuật cao nên chi phí lao động sống trong một đơn vị sản phẩm giảm nên giá trị thặng dư
(m’) thu được rất lớn.
+ Thứ hai, do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp,
lao động lao động trí lực tăng lên thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp. Vì vậy lao
động trí tuệ, lao động có kỹ thuật cao càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất giá tị
thặng dư. Nghĩa là để làm ra giá trị thặng dư là lao động chất xám, lao động được đào tạo,
huấn luyện bài bản, lành nghề cho nên khối lượng giá trị thặng dư đã tăng lên rất nhiều.
+ Thứ ba, phạm vi chiếm đoạt giá trị thăng dư rất mở rộng, không còn chỉ ở trong
nước mà đã vươn ra toàn cầu bằng xuất khẩu tư bản và hàng hóa, bằng đầu tư quốc tế và rất
nhiều các quan hệ kinh tế khác.
- Vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối vào phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay:
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân, việc nghiên cứu giá trị thặng dư gợi

mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng tăng năng suất lao động, coi đẩy mạnh CNH,
HĐH nền kinh tế quốc dân là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động, thúc đẩy phát
triển kinh tế.
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11, với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm
2011 - 2020, đặc biệt với tinh thần chỉ đạo của Đại hội 12 chúng ta cần phải phát triển nền
kinh tế của nước ta nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế theo mô hình chiều sâu dựa trên
cơ sở không ngừng gia tăng năng suất lao động xã hội để đưa trình độ mặt bằng chung của
nền kinh tế nước ta cao hơn.
Gạt bỏ mục đích và tính chất của TBCN, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương
đối là phương pháp rút ngắn thời gian lao động tất yếu, tăng thời gian lao động thặng dư dựa
trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi có
thể vận dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất lao
động; sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
17


Để tăng năng suất lao động của tất cả các ngành, các đơn vị kinh tế để sản xuất với
một cách thức tiên tiến hơn, tăng chỉ số năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư,
tăng khả năng cạnh tranh và khả năng sinh lợi, chú trọng bổ sung nguồn nhân lực chất lượng
cao....Các biện pháp bao gồm:
+ Áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, kỹ thuật mới, hiện đại vào trong quá trình sản
xuất kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp để giảm thời gian lao động tất
yếu và tiết kiệm được các chi phí nguyên vật liệu đầu vào.
+ Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng làm việc của người lao
động thông qua các kế hoạch đào tạo quy mô lớn, nhỏ theo ngành, vùng...
+ Cập nhật, trao đổi các kiến thức mới với các nước trong khu vực và trên thế giới để
đạo tạo lại cho người lao động trong nước, tạo tiền đề có được nguồn nhân lực chất lượng
cao, lao động trí thức để theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Nâng cao trình độ quản lý, điều hành, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của

chủ doanh nghiệp để hoạt động đảm bảo doanh nghiệp hoạt động hiệu qua thông qua việc sử
dụng hiệu quả nguồn vốn, nguồn nhân lực, nguyên vật liệu...
+ Cải thiện điều kiện tự nhiên, bảo vệ môi trường thiên nhiên, hoàn thiện quan hệ phân
phối.
+ Trong lĩnh vực nông nghiệp chú trọng tạo con giống mới có năng suất cao và hỗ trợ
bà con nông dân lao động sản xuất.
+ Tiếp tục triển khai Quyết định số 712/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020” trên cơ sở sâu rộng
hơn nữa để các doanh nghiệp không đứng ngoài cuộc. Qua đó đưa các mô hình, công cụ
quản lý tiên tiến như: Hệ thống quản lý: ISO 9000, ISO 12000, ISO 14000, SA8000, ISO
22000... HACC, TQM, GMP, GAP...; Các công cụ tiên tiến: 5S, TPM, LEAN, KAIZEN,
QCC,...đã được áp dụng ở một số doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài
rất hiệu quả.
+ Đổi mới công cụ lao động, tăng tỷ lệ hóa sản phẩm nội địa, nhận chuyển giao công
nghệ.
+ Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng để giảm bớt thời gian lưu thông.
+ Chăm lo đến chính sách xóa đói, giảm nghèo bằng cách gia tăng lao động sản xuất
trên tinh thần động viên và hỗ trợ nông dân, công nhân tự nguyện, tự giá tham gia lao động
sản xuất tốt để tăng năng suất lao động.
+ Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất thoát phần giá trị thặng dư vào
ngân sách nhà nước.
+ Nhà nước sử dụng giá trị thặng dư được điều tiết sao cho có lợi đối với việc thực hiện
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
+ Nhà nước phải đủ mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản lý và uy tín đối với xã hội.
+ Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, kể cả thị trường sức lao động.
Kết quả phát triển khả quan của Việt Nam cho thấy trong những năm qua nước ta đã
xác định đúng mục têiu và nhiệm vụ của mình, chúng ta đã đi đúng hướng trong phát triển
kinh tế theo hướng CNH, HĐH đất nước là hoàn toàn phù hợp nhưng cũng phải khẳng định
rằng Việt Nam cần cố gắng nhiều hơn nữa thì mới có thể đạt được mục tiêu tới năm 2020

nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.

18


* Câu 6: Phân tích lý luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản? Biện pháp nào để đẩy
nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này vào hoạt
động sản xuất kinh doanh ở nước ta hiện nay?
1. Phân tích lý luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản:
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá
trình lưu thông. Lưu thông của tư bản, theo nghĩa rộng, là sự vận động của tư bản, nhờ đó mà
tư bản lớn lên và thu được giá trị thặng dư, cũng tức là sự tuần hoàn và chu chuyển của tư
bản.
a. Lý luận tuần hoàn của tư bản:
- Tư bản công nghiệp (với nghĩa các ngành sản xuất vật chất), trong quá trình tuần hoàn
đều vận động theo công thức chung đầy đủ như sau:
Tư liệu sản xuất (c)
T-H

.....sản xuất ....... H’ - T’
Sức lao động (v)

- Để vận động từ T đến T’, tư bản trải qua ba giai đoạn, ba hình thái và thực hiện ba
chức năng. Trong đó có hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất. Cụ thể:
+ Giai đoạn thứ nhất: giai đoạn lưu thông được biểu thị như sau:
Tư liệu sản xuất (c)
T-H
Sức lao động (v)
Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản tiền tệ. Chức năng của tư bản tiền tệ
là mua các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất (tư liệu sản xuất, sức lao động), tức là biến tư

bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.
Mở đầu và kết thúc cho sự tuần hoàn này đều là tiền. Sự vận động của tư bản biểu hiện
ra là sự vận động của tiền, còn hàng hóa hay sản xuất chỉ là yếu tố trung gian để tiền sinh
thêm tiền. Hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ phản ánh rõ rệt nhất mục đích, động cơ vận
động của tư bản làm tăng thêm giá trị, giá trị thặng dư.
T - T' là biểu hiện phiến diện nhất che giấu bản chất quan hệ sản xuất TBCN nhưng nó
cũng đặc trưng nhất cho sự vận động của tư bản.
+ Giai đoạn thứ hai: giai đoạn sản xuất:
Tư liệu sản xuất (c)
H

.....sản xuất ....... H’
Sức lao động (v)

Trong giai đoạn này tư bản tiền tệ đã chuyển hóa thành tư bản sản xuất. Chức năng của
tư bản sản xuất là thực hiện kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất ra
hàng hóa (H’) mà trong đó có chứa đựng giá trị thặng dư.
Mở đầu và kết thúc cho sự tuần hoàn này đều là hàng hóa và tiền chỉ là yếu tố trung
gian. Tuần hoàn tư bản sản xuất không chỉ ra được mục đích và động cơ vận động của tư bản
nhưng lại phản ánh rõ nét nhất nguồn gốc của tư bản và nguồn gốc của tích lũy tư bản vì giá
trị thặng dư được sinh ra và lớn lên trong quá trình này.
19


Kết thúc của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng hóa.
+ Giai đoạn thứ ba: giai đoạn lưu thông:
H’ - T’
Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản hàng hóa, còn sản xuất và tiền
tệ chỉ là những hình thức trung gian. Chức năng của tư bản hàng hóa là thực hiện giá trị và
giá trị và giá trị thặng dư. Trong giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là

người bán hàng. Hàng hóa của nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền.
Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản tiền tệ.
- Như vậy sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có tính tuần
hoàn: Tư bản ứng ra dưới hình thái tiền và đến khi quay trở về cũng dưới hình thái tiền có
kèm theo giá trị thặng dư. Quá trình đó được lặp đi, lặp lại không ngừng gọi là sự vận động
tuần hoàn của tư bản.
Vậy, tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần
lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác nhau để rồi quay trở lại
hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
Như vậy tuần hoàn của tư bản phản ánh sự vận động của tư bản cá biệt.
- Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành một cách bình thường khi hai điều kiện sau đây
được thỏa mãn:
+ Một là, các giai đoạn của chúng phải diễn ra một cách liên tục.
+ Hai là, các hình thái tư bản cùng tồn tại và chuyển hóa một cách đều đặn. Vì vậy, tư
bản là một sự vận động tuần hoàn của tư bản, là sự vận động liên tục không ngừng.
Trong sự vận động liên tục của tư bản công nghiệp, mỗi hình thái tư bản đều có thể làm
điểm mở đầu và điểm kết thúc của tuần hoàn tạo nên ba hình thái tuần hoàn khác nhau của
TBCN. Đó là:
. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ:
Tư liệu sản xuất (c)
T-H

.....sản xuất ....... H’ - T’
Sức lao động (v)

. Tuần hoàn của tư bản sản xuất
SX…H’- T’- H

Tư liệu sản xuất (c)
.....sản xuất

Sức lao động (v)

. Tuần hoàn của tư bản hàng hóa
Tư liệu sản xuất (c)
H’ - T' - H

.....sản xuất ....... H’
Sức lao động (v)

Như vậy tuần hoàn tư bản công nghiệp, đó là sự thống nhất của ba hình thái tuần hoàn
của tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa. Tính thống nhất này phụ thuộc vào
những điều kiện đảm bảo cho tính liên tục, không gián đoạn của các giai đoạn. Các hình thái
tư bản và sự phân chia tư bản thành 3 hình thái tuần hoàn trên, là ự vận động liên tục, không
ngừng.
20


b. Lý luận chu chuyển của tư bản:
- Chu chuyển của tư bản là tuần hoàn của tư bản được lặp đi lặp lại theo định kỳ và
không ngừng đổi mới.
- Thời gian chu chuyển của tư bản là thời gian để tư bản ứng ra dưới hình thức nào thu
về dưới hình thức đó có kèm theo giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm
thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
Thời gian chu chuyển = Thời gian sản xuất + Thời gian quá trình lưu thông
Trong đó:
+ Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong sản xuất. Thời gian sản xuất bao
gồm: Thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất.
. Thời gian sản xuất là thời gian người lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo
ra sản phẩm. Đây là thời hữu ích nhất vì nó tạo ra giá trị hàng hóa.
. Thời gian gián đoạn là thời gian đối tượng lao động tồn tại dưới dạng bán thành phẩm

nằm trong lĩnh vực sản xuất nhưng không chịu tác động trực tiếp của những hoạt động của
lao động đó.
. Thời gian dự trữ sản xuất là thời gian các yếu tố sản xuất đã được mua về và sẵn
sàngdtham gia quá trình sản xuất nhưng chưa thực sự được sử dụng vào quá trình sản xuất,
còn ở dạng dự trữ tạo điều kiện cho sản xuất diễn ra.
Cả thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất đều không tạo ra giá trị sản
phẩm. Rút ngắn thời gian này có tác dụng quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.
+ Thời gian lưu thông: là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.
Thời gian lưu thông = Thời gian mua + thời gian bán.
Thời gian mua và bán dài hay ngắn phụ thuộc vào tình hình của thị trường và phụ thuộc
vào trình độ phát triển của phương tiện vận tải, hệ thống giao thông, vị trí thị trường…
Thời gian chu chuyển của tư bản càng rút ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng
dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.
c. Tốc độ chu chuyển tư bản:
Tốc độ chu chuyển của tư bản là số vòng (lần) chu chuyển của tư bản trong một năm và
tốc độ chu chuyển của tư bản phản ánh sự vận động của tư bản nhanh hay chậm (sự chu
chuyển của đồng vốn nhanh hay chậm
Công thức:
n = CH/ch
Trong đó:

n: tốc độ chu chuyển của tư bản.
CH: thời gian trong năm.
ch: thời gian chu chuyển một vòng của tư bản.

Ví dụ: 12 tháng/6 tháng = 2 vòng/năm. Tức là đồng vốn quay vòng 2 lần/năm
Thời gian này phụ thuộc vào tính chất của ngành đầu tư, quy mô sản xuất sản xuất sản
phẩm, dự vào tình hình dự trữ các yếu tố sản xuất, tình hình thị trường…. Xác định được các
yếu tố là cơ sở để tăng tốc độ chu chuyển của tư bản.
- Biện pháp đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản:

Nhìn vào công thức tốc độ chu chuyển của tư bản có tử số (CH) là thời gian trong năm
không thay đổi, như vậy để tăng tốc độ chu chuyển của tư bản bắt buộc (ch) thời gian chu
chuyển một vòng của tư bản phải giảm xuống. Điều này đồng nghĩa với việc phải giảm thời
gian sản xuất và giảm thời gian lưu thông.
21


- Thứ nhất: Để rút ngắn thời gian sản xuất cần phải rút ngắn thời gian lao động, rút
ngắn thời gian gián đoạn lao động và rút ngắn thời gian dự trữ sản xuất.
+ Rút ngắn thời gian lao động bằng biện pháp tăng năng suất lao động thông qua: Nâng
cao trình độ tay nghề người lao động, áp dụng các biện pháp cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình
độ quản lý, điều hành, tổ chức hoạt động sản xuất, phát triển các điều kiện sản xuất.
+ Rút ngắn thời gian gián đoạn lao động không cần thiết (giờ chết, giờ thiếu nguyên vật
liệu, mất điện…) với những thời gian bắt buộc phải có (thời gian cho cây cối sinh trưởng…)
bằng cách áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật (cho vật nuôi, cây trồng giống năng
suất cao).
+ Giảm thời gian dự trữ sản xuất thông qua việc: xây dựng phương án kinh doanh hợp
lý, đảm bảo thị trường cung cấp các yếu tố sản xuất đầu vào và thị trường đầu ra.
- Thứ hai: Để rút ngắn thời gian quá trình lưu thông thì cần:
+ Giảm thời gian mua: Tìm kiếm, khai thác các thị trường cung cấp yếu tố sản xuất ổn
định, chất lượng tốt.
+ Giảm thời gian bán: Đẩy mạnh các biện pháp marketing, nghệ thuật bán hàng hiệu
quả nhất để rút ngắn thời gian bán hàng.
+ Phát triển kết cấu hạ tầng, phương tiện vận tải.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ta
hiện nay
Nghiên cứu tuần hoàn của tư bản vận động liên tiếp qua ba giai đoạn (hai giai đoạn sản
xuất và một giai đoan lưu thông) cho thấy trong mỗi giai đoạn tư bản mang một hình thái
nhất định và chức năng nhất định. Nghiên cứu sự biến hóa tư bản tiền tệ thành tư bản sản
xuất rồi đến tư bản hàng hóa cho ta thấy sự vận động của chúng như một chuỗi biến hóa hình

thái của tư bản, cho thấy tư bản không ở trạng thái tĩnh mà nó lấy hiện vật làm hình thái tồn
tại trong quá trình vận động. Thực tiễn sản xuất lưu thông cho thấy không phải lúc nào các
giai đoạn và các hình thái tư bản trong quá trình tuần hoàn đều diễn ra liên tục. Vì vậy việc
nghiên cứu tuần hoàn tư bản đã chỉ ra rằng: Tư bản, tư bản công nghiệp Việt Nam nói riêng
cần tạo điều kiện để quá trình tuần hoàn diễn ra liên tục và trải qua đầy đủ ba giai đoạn.
Do đó để doanh nghiệp vận hành một cách thông suốt, doanh nghiệp cần tạo ra những
điều kiện để vốn đồng thời tồn tại trong ba hình thái trên, vốn của doanh nghiệp trong quá
trình vận động của bản thân mình cũng tồn tại dưới ba hình thái vốn: vốn tiền tệ, vốn sản
xuất, vốn hàng hóa. Tiền tệ, sản xuất hay hàng hóa là ba nấc mà vốn sẽ phải trải qua trong
quá trình tuần hoàn và chu chuyển của bản thân nó. Như vậy doanh nghiệp phải tăng quy mô
nguồn vốn, khoa học công nghệ, tổ chức quản lý...đồng thời với việc xác định đường lối kinh
doanh của các thành phần kinh tế, nhát là kiểm soát các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế
nhà nước.
Tiết kiệm được tư bản ứng trước: Sau một thời gian dài máy móc hoạt động hao mòn
cần được cải tiến, nhập thêm, bảo dưỡng, duy tu, đại tu...
Nghiên cứu chu chuyển tư bản cho thấy thời gian chu chuyển được càng nhiều vòng
trong một năm thì càng đem lại nhiều cho doanh nghiệp. Đối với hoạt động kinh doanh ở
nước ta hiện nay, để nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản cần:
- Rút ngắn thời gian sản xuất:
+ Áp dụng khoa học kỹ thuật làm tăng năng suất lao động.
+ Nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân để họ sản xuất ra sản phẩm nhanh hơn với
chất lượng tốt hơn.
+ Cải thiện bộ máy tổ chức và quản lý lao động, làm việc có hiệu quả hơn tránh tình
trạng cồng kênh, chồng chéo.
22


+ Có đãi ngộ xứng đáng với người lao động, khuyến khích lao động tích cực, có trách
nhiệm hơn trong lao động sản xuất.
- Rút ngắn thời gian lưu thông:

+ Doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, bắt kịp thị hiếu người tiêu
dùng để từ đó quyết định mở rộng hay thu hẹp sản xuất các mặt hàng của doanh nghiệp trên
thị trường để đảm bảo mặt hàng được tiêu thụ nhanh, hạn chế tồn kho.
+ Thường xuyên cải tiến mặt hàng làm phong phú các chủng loại, thỏa mãn tối đa lợi
ích của người tiêu dùng để kích thích hàng hóa tiêu thụ mạnh.
+ Thường xuyên cải tiến mặt hàng, làm phong phú các chủng loại, phù hợp với mọi đối
tượng, độ tuổi, giới tính. Sự đa dạng của hàng hoá đem lại lợi ích rất lớn không những thoả
mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng mà còn tận dụng những tư liệu sản xuất chưa dùng
đến và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
+ Áp dụng các phương pháp thanh toán linh hoạt, xác định và phân loại thị trường chính
xác để phân phối hàng hóa thích hợp, từ đó giảm được việc lãng phí thời gian.
+ Mở rộng quan hệ liên doanh, liên kết; mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, giúp các
sản phẩm lưu thông nhanh hơn.
+ Cải tạo cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.
+ Tận dụng tối đa công suất máy móc và thiết bị, đẩy nhanh tốc độ xây dựng để đưa
công trình, máy móc vào sản xuất càng sớm càng tốt.
+ Chính phủ cần ban hành đồng bộ, đầy đủ cơ chế chính sách về huy động vốn để tạo
hành lang pháp lý cho doanh nghiệp thực hiện việc huy động vốn.
Vì vậy, quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn nhanh sẽ góp phần phát triển kinh doanh
của doanh nghiệp. Nghiên cứu tuần hoàn và chu chuyển của tư bản sẽ giúp các doanh nghiệp
tìm ra các biện pháp phù hợp để tăng tốc chu chuyển vốn và đó chính là quá trình tái sản xuất
vốn. Tái sản xuất vốn mở rộng dẫn đến lợi nhuận doanh nghiệp tăng từ đó tăng khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, góp phần tích cực đến sự phát triển của doanh
nghiệp cũng như của nền kinh tế đất nước.

23


* Câu 7: Phân tích nguyên nhân của sự chuyển biến từ CNTB tự do cạnh tranh sang
CNTB độc quyền

. Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ
nghĩa tư bản độc quyền? Bản chất kinh tế của CNTB độc quyền?
1. Nguyên nhân của sự chuyển biến từ CNTB tự do cạnh tranh sang CNTB độc quyền
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác và điều kiện lịch sử mới
của thế giới. Lê-nin đã chứng minh rằng: Chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản
độc với sự tác động khách quan của sáu nguyên nhân cơ bản sau:
Nguyên nhân 1: Do sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới sự tác động của tiến bộ
khoa học, kỹ thuật đã đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất dẫn đến hình thành
những xí nghiệp có quy mô lớn.
Nguyên nhân 2: Vào 30 năm cuối thế kỷ XIX, những thành tựu của khoa học, kỹ thuật
mới đã làm xuất hiện. Một mặt đã làm xuất hiện những ngành sản xuất mới mà đòi hỏi xí
nghiệp phải có quy mô lớn. Mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng
tích lũy tư bản từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Nguyên nhân 3: Trong CNTB sự tác động của quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích
lũy tư bản đã làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tâp trung sản xuất.
Nguyên nhân 4: Do tác động khốc liệt của cạnh tranh kinh tế, một mặt buộc các nhà tư
bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Mặt
khác cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản nhỏ và vừa bị phá sản nên cũng đã đẩy nhanh
quá trình tập trung tư bản và xí nghiệp có quy mô ngày càng lớn hơn.
Nguyên nhân 5: Do tác động của khủng hoảng kinh tế từ năm 1873 làm phá sản hầu
hết các xí nghiệp vừa và nhỏ và từ đó đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
Nguyên nhân 6: Sự phát triển của hệ thống tín dụng TBCN đã trở thành đòn bảy mạnh
mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần tạo tiền đề cho sự
ra đời của các tổ chức độc quyền.
Từ những nguyên nhân trên, Lê-nin khẳng định: “...cạnh tranh tự do đẻ ra tập trung sản
xuất và sự tập trung sản xuất này khi phát triển tới một mức độ nhất định lại dẫn tới độc
quyền”
2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn
chủ nghĩa tư bản độc quyền:
- Quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc

quyền
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự do. Nhưng
sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, trái lại nó còn làm cho cạnh
tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa những
người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản
cạnh tranh tự do, mà còn có thêm các loại cạnh tranh sau:
Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc quyền. Các
tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối, thôn tính các xí nghiệp ngoài độc quyền
bằng nhiều biện pháp như: độc chiếm nguồn nguyên liệu, nguồn nhân công, phương tiện vận
tải, tín dụng, hạ giá có hệ thống,... để đánh bại đối thủ.
Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại cạnh tranh này do nhiều
hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong một ngành, kết thúc bằng một sự thỏa
hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên; cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác ngành
có liên quan với nhau về nguồn nguyên liệu, kỹ thuật...
24


Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những nhà tư bản tham gai
cácten, xanhđica cạnh tranh với nhau để giành thị trường tiêu thụ có lợi hoặc giành tỷ lệ sản
xuất cao hơn. Các thành viên của tơrớt và côngxoócxiom cạnh tranh với nhau để chiếm cổ
phiếu khống chế, từ đó chiếm địa vị lãnh đạo và phân chia lợi nhuận có lợi hơn.
- Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai
đoạn CNTB độc quyền:
Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ nghĩa tư bản
sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó không vượt ra khỏi
các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng, phát triển những xu thế sâu
sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng hóa nói chung làm cho các quy luật
kinh tế của nền sản xuất hàng hóa và của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện mới.
- Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền;

giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị không còn hoạt động, về
thực chất, giá cá độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các
tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là chiếm đoạt một phần
giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế
tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Như vậy, nếu như trong giai doạn
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị biểu liện thành quy luật giá cả sản xuất, thì
trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị biêu hiện thành quy luật giá cả
độc quyền.
- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, quy luật giá trị thặng dư biểu
hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền, các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi
nhuận độc quyền cao. Do đó, quy luật lợi nhuận độc quyền cao là hình thức biểu hiện của
quy luật giá tri thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở các
xí nghiệp độc quyền; một phần lao động không công của nhân công ở các xí nghiệp không
độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt
trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi có một phần lao động tất yếu của những
người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa, phụ thuộc.
Như vậy, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị thặng dư biểu
hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao. Quy luật này phản ánh quan hệ thống trị và bóc
lột của tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã hội tư bản và trên toàn thế
giới.
3. Bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền:
Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của CNTB sinh ra. Độc
quyền là biểu hiện mới mang những quan hệ mới nhưng nó không vượt ra khỏi các quy luật
của CNTB mà chỉ là sự tiếp tục, mở rộng, phát triển những xu thế sâu sắc nhất của CNTB và
của nền kinh tế sản xuất hàng hóa nói chung làm cho các quy luật kinh tế của nền sản xuất
hàng hóa và của CNTB có những biểu hiện mới.
Khi CNTB độc quyền ra đời bản chất của nó là sự thống trị của các tổ chức dộc quyền

thay cho tự do canh tranh.
CNTB độc quyền vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất.
Trong giai đoạn này quy luật giá trị sẽ chuyển hóa thành quy luật giá cả độc quyền, quy
luật giá trị thặng dư sẽ chuyển hóa thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao.
25


×