Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Chính sách và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động sang Malaysia trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.55 KB, 40 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
XKLĐ
LĐXK
NKLĐ
DN
NLĐ
BHXH
CNH
HĐH

Xuất khẩu lao động
Lao động xuất khẩu
Nhập khẩu lao động
Doanh nghiệp
Người lao động
Bảo hiểm xã hội
Công nghiệp hóa
Hiện đại hóa


LỜI MỞ ĐẦU
Xuất khẩu lao động là một hoạt động trao đổi hàng hoá sức lao động giữa các quốc
gia, các nền kinh tế dựa trên cơ sở lợi thế về nguồn và cơ cấu lao động. Với nước ta, một
quốc gia có đông dân số và nguồn lao động dồi dào thì xuất khẩu lao động thực sự là một
lĩnh vực có nhiều lợi thế. Hơn thế nữa, nó còn là một yêu cầu bức bách khi mà tình trạng
thiếu việc làm ở nước ta hiện nay vẫn đang là vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch định
chính sách. Xuất khẩu lao động thực sự đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
và giải quyết các nhu cầu xã hội ở nước ta.
Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam thời gian qua có thế chia làm hai thời


kỳ: Thời kỳ hợp tác lao động quốc tế (1980-1990) và thời kỳ xuất khẩu lao động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước (1991-nay). Điểm nổi bật của hoạt động xuất
khẩu lao động Việt Nam trong thời kỳ hợp tác quốc tế là hình thức cung ứng lao động
Việt Nam trong thời kỳ hợp tác quốc tế là hình thức cung ứng lao động chủ yếu thông
qua Hiệp định hợp tác lao động ký kết giữa Chính phủ ta với Chính phủ bạn, thị trường
tiếp nhận phần lớn là các nước XHCN. Bước sang thời kỳ xuất nhập khẩu lao động theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, chúng ta đã mấy đi hầu hết thị trường tiếp
nhận lao động truyền thống trước đây. Tuy nhiên với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước ta và
trước hết là những cố gắng tự thân không ngừng của các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động, hoạt động xuất khẩu lao động của ta đã được khôi phục trở lại và không ngừng
phát triển trong những năm qua. Hiện nay, thị trường xuất khẩu lao động của ta đã đươc
khôi phục trở lại và không ngừng phát triển trong những năm qua. Hiện nay, thị trường
xuất khẩu lao động của ta đã mở rộng đến trên 40 nước và vùng lãnh thổ. Đông và Đông
Nam Á là khu vực thị trường xuất khẩu lao động chủ yếu của nước ta hiện nay. Khu vực
này hàng năm tiếp nhận khoảng trên 40.000 lao động Việt Nam, chiếm gần 80% số lao
động đi làm việc tại nước ngoài của ta. Hiện tại khu vực này gồm có 5 thị trường đã mở
cửa tiếp nhận lao động của ta là Lào, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia tuy
nhiên dự báo trong tương lai số lượng thị trường của ta tại khu vực này chắc chắn không
dừng lại ở con số 5 như trên.

2


Với nội dung bài tiểu luận này, nhóm 8 xin nghiên cứu đề tài về Xuất khẩu lao
động Việt Nam sang Malaysia, thị trường xuất khẩu lao động lớn thứ ba của Việt Nam
nhằm làm rõ hơn về những lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trên lĩnh vực này.

3



I. Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu lao động
1.1 Khái niệm
Xuất khẩu lao động (XKLĐ) được hiểu là hoạt động trao đổi, mua bán hay thuê mướn
hàng hóa sức lao động giữa các chính phủ, các quốc gia với nhau trên cơ sở hiệp định hay
hợp đồng cung ứng lao động. Quốc gia đưa lao động đi làm việc là nước xuất khẩu lao
động, và quốc gia thuê mướn lao động là nước nhập khẩu lao động.
1.2 Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
Sức lao động là một hàng hóa đặc biệt nên hoạt động XKLĐ cũng có những đặc điểm
khác so với hoạt động xuất khẩu các loại hàng hóa khác.
a. XKLĐ là hoạt động kinh tế đồng thời cũng là một hoạt động mang tính xã hội cao.

Tính kinh tế thể hiên ở chỗ: nó đem lại lợi ích cho cả hai bên tham gia (bên cung
và bên cầu). Ở tầm vĩ mô, bên cung là nước xuất khẩu lao động còn bên cầu là nước nhập
khẩu lao động. Ở tầm vi mô, bên cung là người lao động mà đại diện cho họ là các tổ
chức kinh tế làm công tác xuất khẩu lao động (gọi tắt là doanh nghiệp xuất khẩu lao
động), bên cầu là người sử dụng lao động nước ngoài. Dù đứng ở góc độ nào thì với tư
cách là chủ thể của một hoạt động kinh tế, cả bên cung và bên cầu khi tham gia hoạt động
xuất khẩu lao động đều nhằm mục tiêu là lợi ích kinh tế. Họ luôn luôn tính toán giữa chi
phí phải bỏ ra với lợi ích thu được để có được quyết định cuối cùng sao cho có lợi nhất.
Chính vì thế bên cạnh các quốc gia chỉ đơn thuần là xuất khẩu hay nhập khẩu lao động
thì còn có những quốc gia vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu lao động.
Tính xã hội thể hiện ở chỗ: dù các chủ thể tham gia xuất khẩu lao động với mục
tiêu kinh tế nhưng trong quá trình tiến hành xuất khẩu lao động thì cũng đồng thời tạo ra
các lợi ích cho xã hội như giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phân người lao động,
góp phần ổn định và cải thiện cuộc sống cho người dân, nâng cao phúc lợi xã hội, đảm
bảo an ninh chính trị…
b. XKLĐ là hoạt động mang tính cạnh tranh mạnh

Cạnh tranh là quy luật tất yếu của thị trường. Trong cạnh tranh ai mạnh thì thắng,
yếu thì thua. Và khi xuất khẩu lao động vận động theo quy luật thị trường thì tất yếu nó

4


phải chịu sự tác động của quy luật cạnh tranh và mang tính cạnh tranh. Sự cạnh tranh ở
đây diễn ra giữa các nước xuất khẩu lao động với nhau và giữa các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động trong nước với nhau trong việc dành và thống lĩnh thị trường xuất khẩu lao
động. Cạnh tranh giúp cho chất lượng nguồn lao động xuất khẩu ngày càng được nâng
cao hơn và đem lại lợi ích nhiều hơn cho các bên đồng thời cũng đào thải những cá thể
không thể vận động trong vòng xoáy ấy.
c. Hoạt động XKLĐ phải đảm bảo lợi ích kinh tế cho ba chủ thể tham gia.

Hoạt động XKLĐ, ngoài sự tham gia của Nhà nước và doanh nghiệp XKLĐ, còn
có sự tham gia trực tiếp của người lao động. Người lao động tham gia vào hoạt động
XKLĐ với tư cách vừa là người tạo ra hàng hóa xuất khẩu, vừa là người trực tiếp mang
hàng đi bán, lợi ích của họ là các khoản thu nhập hay tiền công lao động ở nước ngoài;
lợi ích của các doanh nghiệp XKLĐ chủ yếu là các chi phí trong việc giúp cho người lao
động đi làm việc ở nước ngoài; lợi ích của nhà nước là các khoản ngoại tệ ròng nhận
được thông qua các khoản tiền của người lao động gửi về nước, các khoản phí và thuế từ
hoạt động XKLĐ. Vì lợi ích kinh tế, cả người lao động và doanh nghiệp XKLĐ rất dễ vi
phạm các quy định của pháp luật. Do đó các chính sách điều chỉnh phải đảm bảo được sự
hài hòa lợi ích trực tiếp của các chủ thể tham gia, trong đó phải chú trọng đến lợi ích của
người lao động.
d. Hoạt động XKLĐ có sự di chuyển và giao thoa của các yếu tố truyền thống, văn

hóa, phong tục tập quán giữa các quốc gia, dân tộc.
Sức lao động bao hàm cả yếu tố lịch sử và tinh thần, vì thế người lao động luôn
mang trong mình các yếu tố thuộc về đạo đức, truyền thống văn hóa, phong tục tập
quán… của một quốc gia, dân tộc và chúng được di chuyển cùng với người lao động sang
nước nhập khẩu lao động. Người lao động xuất khẩu, để sống và làm việc ở nước nhập
khẩu lao động, buộc phải thích nghi, hòa nhập với phong tục tập quán, truyền thống văn

hóa, pháp luật, thói quen sinh hoạt và làm việc,… của nước sở tại, do đó tạo ra sự trao
đổi, hiểu biết về các yếu tố đó giữa người lao động xuất khẩu và người dân bản địa. Vì
vậy, hoạt động XKLĐ cũng là một nhân tố thúc đẩy giao lưu văn hóa và hợp tác hữu nghị
giữa nước xuất khẩu lao động và nước nhập khẩu lao động.
5


1.3 Các hình thức xuất khẩu lao động
Hình thức xuất khẩu lao động là cách thức thực hiện việc đưa người lao động và
chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài do Nhà nước quy định.
Các hình thức đưa lao động Việt Nam ở nước ngoài gồm có:


Cung ứng lao động theo các hợp đồng ký với bên nước ngoài. Đây là trường hợp

các tổ chức kinh tế Việt Nam được phép XKLĐ tuyển dụng lao động Việt Nam để đưa đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cung ứng lao động. Hình thức này tương đối phổ
biến, được thực hiện rộng rãi trong các năm vừa qua và những năm tới. Đặc điểm của
hình thức này là: Tổ chức kinh tế Việt Nam tổ chức tuyển chọn lao động và chuyên gia
Việt Nam đi làm việc cho người sử dụng lao động ở nước ngoài; Các yêu cầu về tiêu
chuẩn về lao động do phía nước ngoài đặt ra. Quan hệ lao động được điều chỉnh bởi pháp
luật của nước nhận lao động. Quá trình làm việc ở nước ngoài, người lao động Việt Nam
chịu sự quản lý trực tiếp của người sử dụng lao động nước ngoài; các điều kiện và quyền
lợi của người lao động do phía nước ngoài bảo đảm. Chính vì vậy, việc thích ứng của
người lao động Việt Nam với môi trường lao động nước ngoài có những hạn chế.


Đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở nước

ngoài, đầu tư ra nước ngoài. Đây là trường hợp doanh nghiệp tuyển lao động và chuyên

gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài để thực hiện hợp đồng kinh tế với bên nước ngoài;
các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận khoán công trình ở nước ngoài hoặc đầu tư
dưới hình thức liên doanh, liên kết chia sản phẩm hoặc các hình thức đầu tư khác ở nước
ngoài. Những năm vừa qua, hình thức này tuy chưa phổ biến nhưng theo chủ trương chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, mở rộng và tăng cường kinh tế đối ngoại thì
hình thức này sẽ ngày càng phát triển. Đặc điểm của hình thức này là: Việc tuyển người
lao động là để thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp Việt Nam; yêu cầu về tiêu chuẩn lao
động, các điều kiện lao động do doanh nghiệp Việt Nam đặt ra, doanh nghiệp Việt Nam
sử dụng lao động có thể trực tiếp tuyển dụng lao động hoặc uỷ quyền cho doanh nghiệp
cung ứng lao động tuyển lao động. Doanh nghiệp Việt Nam đưa lao động đi làm việc ở
nước ngoài, quản lý, sử dụng lao động ở nước ngoài đảm bảo các quyền lợi cho người lao
động làm việc ở nước ngoài. Do đặc điểm và hình thức sử dụng lao động này nên quan hệ
6


lao động tương đối ổn định. Việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động
của người lao động khi làm việc ở nước ngoài có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, do hợp đồng
được thực hiện ở nước ngoài nên ít nhiều có sự ảnh hưởng của pháp luật, phong tục tập
quán của nước ngoài. Ngoài việc tuân thủ pháp luật Việt Nam, cả doanh nghiệp Việt Nam
quản lý sử dụng lao động và người lao động Viêt Nam còn phải tuân thủ các qui định của
pháp luật nước ngoài.


Theo hợp đồng lao động giữa các cá nhân người lao động với người sử dụng lao

động nước ngoài. Hình thức XKLĐ này ở nước ta chưa phổ biến vì muốn ký được hợp
đồng với phía nước ngoài, người lao động phải có những hiểu biết cần thiết về nhiều mặt
như các thông tin về đối tác nước ngoài, về ngôn ngữ, khả năng giao tiếp với người nước
ngoài…vv. Trong khi đó, trình độ hiểu biết các vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội và pháp
luật của người lao động Việt Nam còn những hạn chế nhất định.

1.4 Vai trò của xuất khẩu lao động
1.4.1 Đối với nước xuất khẩu lao động
Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người lao
động. XKLĐ là một biện pháp tốt để góp phần giải quyết một phần lao động dôi dư ở
nhiều nước, nhất là các nước đang và chậm phát triển, những nước đông dân, thiếu việc
làm và có mức thu nhập thấp và tỷ lệ thất nghiệp lớn, trong khi dân số lại tăng nhanh.
LĐXK khi ra nước ngoài làm việc có mức lương cao hơn nhiều lần so với mức
lương của những lao động có cùng ngành nghề và trình độ ở trong nước, vì vậy người lao
động có điều kiện tích lũy được một số lượng vốn lớn mà ở trong nước họ rất khó có cơ
hội đẻ đạt được.
Góp phần vào việc đào tạo tay nghề cho người lao động, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Đội ngũ lao động đi XKLĐ sau thời gian làm việc ở nước ngoài sẽ có
được những kinh nghiệm, tác phong lao động công nghiệp, thành thạo về chuyên môn kỹ
thuật. Những người này sẽ dễ dàng thích ứng với việc tiếp thu và chuyền giao công nghệ
hay đáp ứng được các nhu cầu lao động của các công ty nước ngoài hay các xí nghiệp
liên doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút đầu tư nước ngoài. Đây cũng là nguồn lao
động đủ khả năng đáp ứng cho quá trình phát triển kinh tế thời kỳ CNH, HĐH.
7


Tạo nguồn thu quốc gia, tăng tích lũy cho nền kinh tế quốc dân. Lượng tiền do
người lao động đi làm việc ở nước ngoài tích lũy được gửi về nước là nguồn vốn quan
trọng cho nhiều quốc gia XKLĐ. Đối với nhiều nước đang phát triển, lượng tiền do người
lao động gửi về ngang với thu nhập từ xuất khẩu một số loại hàng hóa và là một trong
những nguồn thu ngoại tệ nhiều nhất, giúp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đối phó
với tình trạng nợ nần, nhập siêu.
Góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước XKLĐ và nước
NKLĐ. Hoạt động XKLĐ có diễn ra sự giao thoa, hòa nhập của các yếu tố lịch sử và tinh
thần của người LĐXK với người bản địa. Do đó, hoạt động XKLĐ là cầu nối, hình thức
để trao đổi, giao lưu các nền văn hóa, phong tục tập quán các dân tộc, góp phần tăng

cường sự hiểu biết giữa các quốc gia, thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước
XKLĐ và NKLĐ.
Tuy nhiên, hoạt động XKLĐ cũng có những tác động tiêu cực nhất định tới sự
phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia. Hoạt động XKLĐ có khả năng làm giảm bớt
một bộ phận lao động trẻ, khỏe, có trình độ văn hóa, chuyên môn tương đối cao, do đó có
thể làm giảm sức sản xuất của nước XKLĐ. Hoạt động XKLĐ cũng có thể gây biến động
về sức mua trong nước, ảnh hưởng đến an ninh kinh tế quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Hoạt động XKLĐ cũng có thể tác động xấu tới quan hệ quốc tế của nước XKLĐ khi
LĐXK có các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng ở nước NKLĐ làm phương hại
đến quan hệ hợp tác giữa nước XKLĐ và nước NKLĐ.
1.4.2 Đối với nước nhập khẩu lao động
Bù đắp sự thiếu hụt nguồn lao động trong nước. Hoạt động NKLĐ cung cấp
nguồn nhân lực từ nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt lao động ở các ngành, lĩnh vực mà
lực lượng lao động trong nước không đáp ứng được.
Góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Người LĐXK đã được đào tạo cơ bản về kỹ năng lao động, trình độ tay
nghề, do đó họ có thể tham gia làm việc luôn mà không cần hoặc chỉ mất ít thời gian và
vốn đầu tư để đào tạo lại. Ngoài ra, người LĐNN hầu hết làm việc trong thời hạn ngắn,

8


do đó nước NKLĐ không phải chi trả nhiều cho các khoản chi phí về bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, đặc biệt tiền lương hưu.
Tận dụng được nguồn LĐNN trẻ có hiệu suất lao động cao, điều kiện thực hiện
phân công lao động và tái cơ cấu nền kinh tế. Lao động đi XKLĐ hầu hết là lao động trẻ,
đang ở độ tuổi sung mãn về thể lực và trí lực, được đảm bảo về sức khỏe. Đây là giai
đoạn người lao động có khả năng làm việc với hiệu suất cao nhất, tạo ra được nhiều giá
trị thặng dư nhất cho chủ sử dụng, nhất là trong việc sử dụng, khai thác chất xám từ
LĐXK chất lượng cao như các chuyên gia, kỹ thuật vien chuyên ngành.

Tuy nhiên, NKLĐ cũng có những tiêu cực nhất định, làm giảm bớt số lượng việc
làm ở nước NKLĐ. NKLĐ tác động tới sự phân phối lại thu nhập và phúc lợi đối với
người lao động của nước NKLĐ.
II. Thực trạng XKLĐ Việt Nam sang Malayxia
Xuất khẩu lao động Việt Nam ra nước ngoài, thường gọi tắt là xuất khẩu lao động
Việt Nam là hoạt động kinh tế dưới hình thức cung ứng lao động Việt Nam đi làm việc có
thời hạn ở nước ngoài, phục vụ cho nhu cầu nhân công lao động của doanh nghiệp nước
ngoài. Hoạt động này bắt đầu từ năm 1980 dưới hình thức hợp tác lao động với các nước
Xã hội chủ nghĩa, trong tình hình kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn. Và xuất
khẩu lao động Việt Nam đã mang lại nhiều thuận lợi cho đất nước.
Từ khi cơ chế thay đổi năm 1991, hoạt động xuất khẩu lao động phát triển mạnh
mẽ, mở rộng thị trường ra nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Bước sang thế kỷ 21, có sự
tăng đột biến lượng lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, đặc biệt là một số thị
trường lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia. Tính đến năm 2013, Việt
Nam có khoảng trên 600.000 người xuất khẩu lao động nước ngoài, trong đó trên 85.000
người tại Đài Loan, trên 20.000 tại Nhật Bản, giữ vị trí thứ hai về tổng số lao động nước
ngoài tại Đài Loan, Nhật Bản.
Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Malaysia đứng thứ 3 về số lượng lao động
Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài, sau thị trường Đài Loan và Nhật Bản. Đây là thị
trường xuất khẩu lao động truyền thống hấp dẫn đối với người lao động Việt Nam, với

9


chi phí xuất cảnh thấp, thu nhập ở mức trung bình khá, phù hợp với các đối tượng người
lao động phổ thông tại Việt Nam.
2.1 Đặc điểm thị trường lao động Malaysia
2.1.1 Giới thiệu chung về Malaysia
2.1.1.1 Vị trí địa lý
Liên Bang Malaysia nằm trong khu vực Đông Nam Á, có diện tích gần

330.307km2 bao gồm bán đảo phía Tây MaLaysia ở đầu mút phần đất liền của khu vực
Đông Nam Á với 11 bang gồm: Perlis, Kedah, Terengganu, Kelantan, Penang, Perak,
Malacca, Pahang, Selangor, Johor và Negeri Sembilan, ba hạt liên bang và các bang
Sarawak, Sabah nằm trên bờ tây bắc của đảo Borneo (Phần lãnh thổ Phía Đông của
Malaysia).
Thủ đô của Malaysia là Kuala Lumpur. Được thành lập vào năm 1857 tại nơi hợp
lưu của hai dòng sông Klang và Gombak, Kuala Lumpur là một trong những thành phố
năng động nhất Châu Á.
Thủ đô Kuala Lumpur là một trong ba vùng lãnh thổ của Malaysia cùng với
Lubuan và Putrajaya, nằm ở bán đảo phía Tây. Tại Kuala Lumpur có các địa danh nổi
tiếng như tháp truyền hình Kuala Lumpur, tháp đôi Petronas cao 452 m, Quảng Trường
Độc Lập, Đài Tưởng Niệm Quốc Gia, đền thờ Hồi giáo, tòa nhà Sultan Abdul Samad nổi
tiếng, Động Batu mang vẻ huyền bí của những người Ấn Độ giáo.
2.1.1.2 Khí hậu:
Malaysia có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và độ ẩm cao. Nhiệt độ trung bình
trong ngày từ 21o C đến 32oC. Lượng mưa trung bình trong năm khoảng từ 2.032mm đến
2.540mm, ở vùng núi cao nhiệt độ cao nhất thường vào khoảng 26 oC, nhiệt độ thấp nhất
là 2oC. Do chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam bắt nguồn từ Ấn Độ Dương và gió mùa
Đông Bắc từ biển Đông, khí hậu Malaysia được chia thành hai mùa rõ rệt: mùa gió Tây
Nam từ giữa tháng 5 cho đến tháng 9, gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 2 năm
sau.
2.1.1.3 Dân số:
10


Dân số Malaysia năm 2005 là 25 triệu người, năm 2011 là 28,9 triệu người. Người
Mã Lai và người bản địa chiếm đa số (55%), thứ đến là người Hoa (30%), người Ấn Độ
(10%), người Âu và một số dân tộc thiểu số bản địa (5%). Hiện số người cao tuổi của
nước này vào khoảng 2,1 triệu người, chiếm khoảng 7,3% của 28 triệu dân. Với tốc độ
tăng dân số như hiện nay, Malaysia sẽ trở thành quốc gia có dân số già vào năm 2030, lúc

đó, số người trong độ tuổi từ 60 trở lên chiếm khoảng 15% dân số. Trước xu hướng tăng
trưởng hiện nay, dân số Malaysia sẽ đạt khoảng 35 triệu người vào năm 2020, với 3,4
triệu người già.
2.1.1.4 Ngôn ngữ:
Theo luật về ngôn ngữ quốc gia được Quốc hội thông qua năm 1967, ngôn ngữ
chính thức của Malaysia là Bahasa Malaysia (tiếng Mã Lai). Tuy nhiên Malaysia là một
quốc gia đa dân tộc, nên người Malaysia nói nhiều thứ tiếng khác nhau. Bởi vậy tiếng
Anh, tiếng Trung Quốc được dùng phổ thông, tiếng địa phương và tiếng Ấn Độ cũng
được sử dụng rộng rãi.
2.1.1.5 Tôn giáo:
Malaysia là một quốc gia đa dân tộc, có nhiều tôn giáo khác nhau cùng tồn tại,
sống hòa thuận nhờ chính sách tôn giáo thống nhất, một số tôn giáo phổ biến như: Đạo
Hồi, Đạo Phật, Đạo Hindu, Đạo thiên chúa giáo, Đạo Lão, Đạo Tin Lành.
Tuy nhiên theo hiến pháp Liên bang, đạo Hồi là quốc giáo. Toàn bộ người
Malaysia và một bộ phận người Ấn Độ, Trung Quốc và thổ dân Orang Asli theo đạo Hồi.
Phần lớn người Trung Quốc ở Malaysia theo đạo Phật và đạo Lão.
2.1.1.6 Chế độ chính trị:
Malaysia thực hiện chế độ quân chủ lập hiến liên bang. Đứng đầu nhà nước
Malaysia hiện nay là quốc vương. Đứng đầu chính phủ là thủ tướng.
2.1.1.7 Kinh tế:
Kinh tế Malaysia phát triển mạnh dựa vào các lĩnh vực: Cao su, Dầu cọ, Điện tử,
Công nghiệp chế tạo và Dầu mỏ.

11


Malaysia là đất nước khá phát triển nằm trong khu vực Đông Nam Á. Malaysia là
quốc gia dẫn đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu dầu cọ và cao su, ca cao và hạt tiêu,
đồng thời là nước xuất khẩu về gỗ khối và các sản phẩm từ gỗ. Chính phủ Malaysia có
các chính sách khuyến khích giáo dục với nhiều ưu đãi. Hàng năm chính phủ dành ra một

khoản ngân sách khá lớn đầu tư cho giáo dục. Vì vậy các trường đại học, cao đẳng
Malaysia có các cơ sở vật chất hiện đại phục vụ cho việc học tập cũng như sinh hoạt của
sinh viên. Ngành công nghệ thông tin của Malaysia rất phát triển. Các trường đại học cao
đẳng đều có các phòng vi tính, các trung tâm dịch vụ Internet miễn phí cho sinh viên.
2.1.1.8 Tiền tệ:
- Đơn vị tiền tệ của Malaysia là Ringit.
- Tỉ giá: 1USD = 3.02 RM, (1RM = 6.700VND)
- Các loại mệnh giá: tiền giấy có RM1, RM2, RM5, RM10, RM50 và RM100.
Tiền xu gồm có 1 cent, 5 cent, 10 cent, 50 cent và RM1.
- Các ngân hàng làm việc từ 9h30 sáng đến 4h00 chiều, từ thứ 2 đến thứ 6 trừ
những ngày lễ.
2.1.2 Quy mô lực lượng lao động và thị trường lao động của Malaysia
Theo thống kê của Bộ Nguồn Nhân lực Malaysia (Human Resources) thì Malaysia
hiện có quy mô dân số khoảng 28 triệu người (49,2% là nữ); lực lượng lao động có
khoảng 9,6-10 triệu người (thương mại và du lịch chiếm 28%, sản xuất chế tạo chiếm
27%, nông nghiệp 16%, dịch vụ 10%...). Tỷ lệ thất nghiệp trong những năm gần đây duy
trì khoảng 3-4%.
Có khoảng 350.000 - 400.000 người Malaysia đã di cư và đang làm việc tại các
nước phát triển hơn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và một số các nước Châu
Âu… trong các ngành nghề đòi hỏi có trình độ tay nghề, kỹ thuật cao, khả năng giao tiếp
quốc tế tốt (tiếng Anh và tiếng Trung) hoặc dưới hình thức các chuyên gia, lý do chủ yếu
của dòng di cư đi này là do thu nhập tại nước ngoài cao hơn so với trong nước (thu nhập
tại các nước trên tối thiểu khoảng 3.000 USD) và có điều kiện làm việc, phát triển nghề
tốt. Bên cạnh đó khoảng 200.000 lao động Malaysia làm việc tại Singapore.
12


Trong khi đó, cùng với sự phát triển kinh tế trong nước và sự đầu tư từ nước ngoài
mạnh mẽ nên Malaysia thu hút được số lượng rất lớn lao động nhập cư từ các nước đang
phát triển. Tuy nhiên, công việc chủ yếu của lao động nước ngoài tại Malaysia có được là

do các công việc này không thu hút được lao động trong nước, đó là các công việc giản
đơn trong các khu công nghiệp, nhà xưởng quy mô vừa và nhỏ, các ngành nghề không
cần nhiều kỹ thuật hoặc độc hại và thu nhập không cao.
Hiện Malaysia có khoảng 3,1 triệu lao động nước ngoài đang làm việc (kể cả hơn
1 triệu lao động không có giấy tờ cư trú và làm việc hợp pháp) đến từ 14 quốc gia, chủ
yếu là những nước Đông Nam Á và Nam Á như: Indonesia, Bangladesh, Ấn Độ,
Cambodia, Nepal, Myanmar, Lào, Việt Nam, Philippines, Pakistan, Sri Lanka, Thái Lan,
Turkmenistan, Uzbekistan, Kazakhstan. Trong đó lao động chiếm tỷ lệ nhiều nhất là
Indonesia khoảng 51%, kế đến là Bangladesh với 17%, Nepal với 9,7%.... Việt Nam đứng
thứ bảy trong số các quốc gia đang có nhiều lao động tại Malaysia với khoảng hơn 2%.
Các ngành nghề chủ yếu là sản xuất chế tạo khoảng 38.2%, xây dựng khoảng
16%, trang trại và đồn điền (chủ yếu làm trồng cọ) khoảng 14.2% và các ngành nghề
khác như nông nghiệp, dịch vụ, giúp việc gia đình…
Bên cạnh hình thức lao động nước ngoài di cư vào Malaysia để làm việc, cũng có
một bộ phận không nhỏ người nước ngoài đến Malaysia sinh sống, học tập hoặc đầu tư.
Chính phủ Malaysia thực hiện chính sách “Second Home” khuyến khích người nước
ngoài đầu tư vào thị trường bất động sản, cũng như việc chi phí sinh hoạt và học phí rẻ
nên thu hút nhiều sinh viên và nhà đầu tư nước ngoài di cư vào Malaysia.
2.2 Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Malaysia
2.2.1 Đặc điểm của người lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài
Nguồn lao động xuất khẩu của Việt Nam rất dồi dào. Người lao động Việt Nam
được đánh giá khá nhanh nhẹn, cần cù, chịu khó học hỏi, ham hiểu biết, nắm bắt công
việc nhanh. Nói chung chủ sử dụng lao động thích lao động Việt Nam khi họ đang làm
việc chăm chỉ, năng động, thông minh, cởi mở và khéo léo hơn và luôn sẵn sàng để làm
việc thêm.
13


Tuy nhiên, chất lượng và trình độ của lao động xuất khẩu còn chưa cao, ngoài ra
người lao động còn có thể lực yếu, chưa thích nghi được với cường độ lao động công

nghiệp, ý thức tổ chức kỉ luật chưa cao. Những điểm yếu của người lao động Việt Nam
thực tế hầu hết trong số đó là từ các khu vực nông thôn và chưa được đào tạo hoặc định
hướng để thực hành làm việc trong môi trường công nghiệp hóa. Ngoài ra, kỹ năng ngoại
ngữ phần lớn công nhân của lao động đến từ Việt Nam, đặc biệt là tiếng Anh, rất kém dẫn
đến thất bại trong việc thâm nhập thị trường nước ngoài với mức lương cao. Hơn nữa,
chứng chỉ hoặc bằng cấp của lao động Việt Nam vẫn chưa được công nhận quốc tế nên
họ chỉ có thể tham gia vào các công việc không chuyên nghiệp, lao động phổ thông tại
nước ngoài. Khả năng tìm hiểu pháp luật và tuân thủ kỷ luật, đọc hiểu và tuân thủ hợp
đồng lao động cũng là điểm hạn chế của lao động Việt Nam. Nhiều lao động thậm chí
còn chưa biết đọc biết viết và hành xử hoàn toàn theo bản năng.
2.2.2 Công việc và thu nhập của lao động Việt Nam tại Malaysia
Hoạt động xuất khẩu lao động sang Malaysia ở nước ta chủ yếu diễn ra theo hình
thức đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, bao gồm: Đi theo Hiệp định
chính phủ ký kết giữa hai nhà nước; Hợp tác lao động và chuyên gia; Thông qua doanh
nghiệp Việt Nam nhận thầu, khoán xây dựng công trình, liên doanh, liên kết chia sản
phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài; Thông qua các doanh nghiệp Việt Nam làm
dịch vụ cung ứng lao động; Người lao động trực tiếp ký hợp đồng lao động với cá nhân,
tổ chức nước ngoài.
Báo cáo của Cục quản lý lao động ngoài nước cho biết, Việt Nam bắt đầu đưa lao
động sang làm việc tại Malaysia từ năm 2002. Năm 2003, Chính phủ Việt Nam và chính
phủ Malaysia đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác lao động. Hiện cả nước có khoảng trên 100
doanh nghiệp được phép đưa lao động sang làm việc tại Malaysia. Từ năm 2002 đến nay,
đã có trên 220.000 lượt người đi lao động Malaysia, có thời điểm số lao động Việt Nam
có mặt tại Malaysia lên tới 130.000 người, làm việc tại tất cả các bang của Malaysia, tập
trung vào các lĩnh vực chế tạo, xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ và giúp việc gia đình
Malaysia. Sau ảnh hưởng kinh tế thế giới 2008, từ cuối năm 2009, nhu cầu tiếp nhận lao
động nhập cư của Malaysia đã tăng trở lại. Năm 2010, Việt Nam đã có gần 12 nghìn lao
14



động sang thị trường này. Năm 2011, nhu cầu về lao động nhập cư của Malaysia lên đến
90 nghìn người.
Theo thống kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước thuộc Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội, trong năm 2015 đã có 115.980 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài, tăng 8,55% so với năm 2014 và vượt 28,86% so với kế hoạch năm đặt ra.
Tính riêng thị trường Đông Nam Á có 7.389 lao động Việt Nam đi làm việc, chiếm
6,37% tổng số lao động làm việc ở nước ngoài, tăng 34,81% so với số lao động được đưa
đi trong năm 2014. Trong khu vực này, chỉ có hai thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam
đó là Malaysia và Singapore. Trong đó Malaysia có quy mô tiếp nhận lớn nhất là 7.354
người, chiếm 99,52% số lao động được đưa đi trong khu vực này.
Bình quân mỗi tháng thị trường này tiếp nhận 612 lao động. Thu nhập bình quân
của lao động Việt Nam sang Malaysia làm việc khoảng từ 8 đến 12 triệu đồng/tháng.
Hiện lao động Việt Nam đang làm việc tại Malaysia khoảng 65.000 người (khoảng
hơn 12.000 người trong số này là cư trú bất hợp pháp), công việc chủ yếu là sản xuất chế
tạo trong các nhà máy điện tử, nội thất, may mặc, đóng gói sản phẩm hay trong ngành
dịch vụ (phục vụ nhà hàng- quán ăn, lau chùi dọn vệ sinh, nấu ăn, bán hàng…), ngành
nông nghiệp và số ít làm giúp việc nhà trong các gia đình người Mã gốc Hoa. Việt Nam
đang xúc tiến đưa trở lại lao động xây dựng và đưa mới lao động trồng cọ cho các trang
trại cọ thuộc 02 tập đoàn SIM DARBY và FELDA của Malaysia.
Trong đó, lao động nam được xuất khẩu sang Malaysia thường chiếm số lượng lớn
hơn lao động nữ.
Số lượng lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia 2002-2016
STT
1
2
3
4
5
6
7


Năm

Xuất cảnh
Tổng số
19.965
38.227
14.567
24.605
37.941
26.704
7.810

2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
15

Nữ
5.161
6.069
3.340
6.660
17.468
9.054
4.158



8
9
10
11
12
13

2009
2010
2012
2013
2014
Quý I 2016
Tổng cộng

2.792
11.741
9.298
6.783
5.139
1.259
197.533

1.604
5.502
4.184
3.052
2.431

706
69.389

(Nguồn: Bộ lao động TB & XH)
Yêu cầu về độ tuổi lao động xuất khẩu đến Malaysia tương đương với nhiều nước
khác, vào khoảng 18-35 tuổi, một số khu vực chấp nhận công nhân có độ tuổi dưới 40.
Tiền lương cơ bản (tối thiểu) áp dụng đối với người lao động Việt Nam là
21RM/ngày hay 546RM/tháng, làm việc 08h/ngày hay 48h/tuần.
Ngoài tiền lương cơ bản, người lao động còn có thu nhập từ làm thêm giờ (tính
theo hệ số nêu trên) và các khoản trợ cấp khác như: chuyên cần, ca, bộ phận... hoặc tiền
trang phục, tiền thưởng....
Tổng thu nhập hàng tháng của người lao động Việt Nam hiện đạt khoảng 9001.200RM/tháng. Tuy nhiên, kể từ thời điểm năm 2013, chính phủ Malaysia sẽ áp dụng
quy định tiền lương cơ bản mới là 900RM/tháng, theo đó mức lương kỳ vọng của lao
động Việt Nam (vốn cần cù, chịu khó sàng làm thêm nhiều) sẽ đạt khoảng 1.4001.700RM/tháng (tương đương khoảng 460-560USD/tháng).
2.3 Đánh giá về hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sang Malaysia
2.3.1 Lợi ích
Xuất khẩu lao động Malaysia là thị trường lao động quen thuộc và phổ thông đối
với người lao động Việt Nam. Đây là thị trường xuất khẩu lao động lớn thứ 3 của Việt
Nam sau Đài Loan và Nhật Bản. Điểm hấp dẫn của thị trường lao động này là: chi phí
thấp, thu nhập khá và yêu cầu tay nghề và ngoại ngữ không cao, rất phù hợp với lao động
phổ thông Việt Nam. Và xuất khẩu lao động sang Malaysia đã mang lại những lợi ích
nhất định, cụ thể như sau:
2.3.1.1 Đối với người lao động
16


Người lao động khi tham gia xuất khẩu lao động sang Malaysia sẽ được đào tạo cơ
bản về kiến thức cần thiết khi ra nước ngoài tạo cho họ có kỹ năng sống và làm việc phù
hợp với luật pháp quốc tế, được học nghề và học ngoại ngữ để làm việc và giao tiếp quốc
tế.

Người lao động đi làm việc ở nước ngoài sẽ có một tầm nhìn xa hơn, cao hơn và
rộng hơn, họ sẽ mở rộng được hiểu biết và tri thức của mình ở một đất nước hoàn toàn
mới lạ.
Người lao động sẽ học được cách ứng xử văn minh, họ biết xếp hàng chờ đợi, biết
im lặng nơi công cộng, biết giữ gìn vệ sinh môi trường, biết giúp đỡ người già – phụ nữ trẻ nhỏ, biết phán đoán đường đi lối lại, biết làm việc nghỉ ngơi đúng lúc, biết ăn uống
khoa học đảm bảo sức khoẻ, không uống rượu bia bê tha, không hút thuốc lá nơi đông
người,…
Người lao động phần lớn làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp
hiện đại sẽ tích lũy được kinh nghiệm làm việc khoa học, có tính kỷ luật công nghiệp cao,
học được phong cách làm việc hiện đại, họ biết phối hợp với nhau tạo thành một dây
truyền vận hành trong sản xuất, họ được nhìn thấy và được làm trên các dây truyền công
nghệ hiện đại mà ở làng bản chắc sẽ còn rất lâu mới có thể có, họ học được kinh nghiệm
từ đồng nghiệp đến từ các nước khác nhau, tích luỹ được kỹ năng nghề mang tầm quốc tế
mà đất nước ta đang rất cần trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
2.3.1.2 Đối với Việt Nam

Vào đầu năm 2002, dưới sự thỏa thuận của Chính phủ 2 nước về hợp tác lao động
giữa 2 nước, Việt Nam đã bắt đầu đưa lao động sang Malaysia làm việc. Với chi phí thấp
và yêu cầu không quá cao, XKLĐ Malaysia được đánh giá là phù hợp với phần đông lao
động tại các vùng nông thôn và dân tộc thiểu số. Nhờ vậy mà trong những năm
qua, XKLĐ Malaysia đã góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo tại các cùng nông
thôn Việt Nam.
Người lao động sang Malaysia được ký hợp đồng làm việc 3 năm. Sau thời hạn
trên, có thể được gia hạn 1 năm một nếu được chủ đồng ý thuê tiếp. Tiền lương trung
17


bình của các lao động tại Malaisia khoảng 8 triệu đồng/tháng, ở mức trung bình. Tuy
nhiên so với chi phí xuất cảnh chỉ khoảng trên 20 triệu đồng thì đây là một phương án

khá an toàn và có khả năng thu hồi vốn nhanh. Do đó, sau hơn 10 năm xuất khẩu lao
động sang Malaysia, nhiều lao động Việt Nam đã thoát nghèo, tích lũy được tài sản và
vươn lên làm giàu thành công. Trong những năm tới, Malaysia vẫn tiếp tục là thì trường
lao động truyền thống và đảm bảo dành cho các lao động Việt Nam.
Người đi xuất khẩu lao động không chỉ đem về một khoản tiền thu nhập cho bản
thân và gia đình mà còn mang về một mỗi quan hệ quốc tế mà đất nước ta đang rất cần
trong thời kỳ hội nhập sâu rộng về kinh tế quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế
giới; mỗi quan hệ quốc tế đó sẽ giúp cho công tác xuất khẩu lao động giúp giải quyết việc
làm ở nước ta được phát triển hơn, giúp cho Việt Nam thu hút được các khoản vốn đầu
tư, hỗ trợ, giúp cho quá trình sản xuất, kinh doanh của vượt ra khỏi biên giới góp phần
tạo nên kim ngạch xuất – nhập khẩu nước ta ngày càng lớn mạnh.
Quan trọng hơn cả là người đi xuất khẩu lao động sẽ đem về một khối tri thức
được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội để làm thay đổi cách nghĩ, cách làm,
cách tổ chức sản xuất kinh doanh; họ đem về một tầm nhìn cao hơn, xa hơn, rộng hơn; họ
đem về cả một động cơ để khơi dậy những tiềm năng phát triển của chúng ta.
2.3.2

Hạn chế
Nhu cầu cao, điều kiện tiếp nhận khá dễ, tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp khai thác

thị trường Malaysia lại cho biết, họ vẫn gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong quá
trình đưa lao động sang Malaysia.
Một trong những khó khăn mà ngành xuất khẩu lao động của ta phải đối mặt tại
thị trường Malaysia có lẽ đến từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Sau khủng hoảng,
Chính phủ Malaysia đã quyết định ngừng thuê lao động nước ngoài vào làm việc tại
Malaysia trong 2 lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Theo quyết định này, Malaysia sẽ ngừng
thuê lao động cho hai lĩnh vực trên và số đang làm việc tại 2 lĩnh vực này sẽ được phép
làm việc cho đến khi giấy phép lao động của họ hết hạn hoặc cho đến khi doanh nghiệp
cắt giảm. Động thái này nhằm đối phó với khó khăn do ảnh hưởng cua cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới. Và đến hiện nay, trong những năm gần đây thì nhu cầu lao động nước

18


ngoài của Malaysia đã tăng dần lên nhưng chưa thực sự là sôi động so với những năm
trước.
Một khó khăn đến từ chính nguồn lao động của chúng ta, hiện tại thị trường
Malaysia đang dần mất tính hấp dẫn đối với người lao động xuất khẩu. Hiện ở trong nước
vẫn tồn tại thông tin sang làm việc tại Malaysia thu nhập không cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro
đã tác động mạnh đến tâm lý người lao động khiến họ quay lưng với thị trường Malaysia.
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động than phiền: có nhiều trường hợp đã đăng ký,
được cấp calling visa, hoàn tất thủ tục xuất cảnh, thậm chí đến giờ bay, người lao động
vẫn hủy hợp đồng. Có những doanh nghiệp xuất khẩu lao động trước đây mỗi năm cung
ứng hơn 1000 lao động sang Malaysia như Airseco, Châu Hưng, Hiteco, Sovilaco… thì
nay đều rơi vào tình trạng khó tuyển lao động. Vấn đề này đôi khi xuất phát từ một vài
công ty xuất khẩu lao động của ta, cũng như từ chính sách xuất khẩu lao động của ta chưa
thực sự chuyên nghiệp. Tình hình này kéo dài có thể gây ra việc trì trệ xuất khẩu lao động
dẫn đến mất luôn thị trường ổn định và dễ tính như Malaysia.
Tuy nhiên hiện nay, chúng ta có một số khó khăn chính sau đây:
2.3.2.1 Khó khăn trong quá trình đưa lao động sang Malaysia

Khó khăn được nhắc đến nhiều nhất là thủ tục calling visa. Lương đã thấp hơn so
với nhiều thị trường khác, lại phải chờ đợi visa hơn 1 tháng khiến lao động thêm nản.
Trong khi đó, thủ tục này thông thường chỉ mất khoảng 3 ngày, đại diện một doanh
nghiệp nêu ý kiến.
Vấn đề vay vốn cũng được các doanh nghiệp đề cập. Đại diện Công ty Sona cho
rằng, mặc dù chi phí đi Malaysia làm việc không nhiều, chỉ hơn 20 triệu đồng, nhưng lao
động vẫn gặp không ít khó khăn khi làm thủ tục vay vốn tại các ngân hàng. Nhiều doanh
nghiệp đã phải áp dụng chính sách cho lao động đi làm việc trước, khấu trừ sau. Tuy
nhiên, khi áp dụng chính sách này, doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro bởi có những lao động
đã trốn ra ngoài làm việc sau khi sang Malaysia.

Trong khi đó, đại diện của Công ty Châu Hưng thì bức xúc chuyện nhiều địa
phương không tạo điều kiện cho doanh nghiệp khai thác nguồn. Cụ thể, tại Thanh Hóa,
Nghệ an, Bắc Giang, giấy phép cấp cho doanh nghiệp tạo nguồn chỉ có thời hạn 6 tháng.
19


Ngoài ra, một số tỉnh lại giới hạn địa phận tạo nguồn, chỉ cho phép doanh nghiệp tuyển
dụng ở một hai huyện nhất định.
Còn ông Nguyễn Thanh Sơn, Tổng giám đốc Công ty Thương mại và Dịch vụ
Vĩnh Cát cho rằng, phía Malaysia cần tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam cử cán bộ
đại diện thường trực ở Malaysia để hỗ trợ người sử dụng lao động trong công tác quản lý
lao động và giải quyết các vấn đề phát sinh.
Theo ông Sơn, lao động Việt Nam làm việc tại Malaysia bị hạn chế về mặt ngôn
ngữ nên thường gặp khó khăn trong giao tiếp với người sử dụng lao động và lao động
nước khác nên rất dễ phát sinh nhiều va chạm do ngôn ngữ bất đồng. Nếu có đại diện của
doanh nghiệp Việt Nam hỗ trợ và giải quyết tình hình sẽ bớt phức tạp hơn.
Tuy nhiên, hiện nay tất cả các cán bộ của đại diện doanh nghiệp Việt Nam đều
sang Malaysia bằng visa du lịch, thời hạn tối đa là 3 tháng. Điều này gây nhiều bất lợi
cho doanh nghiệp và khá tốn kém về mặt tài chính.
Nhiều doanh nghiệp cũng đưa ra ý kiến, thu nhập của lao động nhập cư tại
Malaysia hiện thấp hơn so với nhiều thị trường và mong muốn Chính phủ Malaysia nâng
mức thu nhập cơ bản cho lao động Việt Nam.
Ông Dato’Sh Yahya Bin SH. Mohamed, Cục trưởng Cục Lao động, Bộ Nguồn
nhân lực Malaysia cho biết, Malaysia không quy định mức lương tối thiểu nên chúng tôi
không thể đề xuất tăng lương cho lao động nhập cư mà chỉ có thể cố gắng làm sao quyền
lợi của lao động nhập cư cũng như lao động bản địa.
Tuy nhiên, vị Cục trưởng Lao động Malaysia cũng cho rằng, áp dụng chính sách
tiền lương theo thỏa thuận của thị trường, cung cầu tự điều tiết cũng có lợi cho người lao
động. Đơn giản, khi nhu cầu về lao động cao, cung không đáp ứng đủ thì mức thu nhập
được chủ sử dụng đưa ra cao lên. Ví dụ, hiện mức lương sàn tại Malaysia là 21RM/ngày,

nhưng với những lao động có tay nghề, hay những ngành nghề khó tuyển lao động thì
lương cũng cao hơn.
2.3.2.2 Vấn đề BHXH cho người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước, cho
rằng dù chưa có thông tư hướng dẫn nhưng quy định về BHXH bắt buộc đối với lao động
20


xuất khẩu khá cụ thể trong Luật BHXH và Nghị định 115/CP. Theo đó, NLĐ tham gia
BHXH bắt buộc ở 2 chế độ hưu trí và tử tuất. Mức đóng hằng tháng bằng 22% tiền lương
tháng đóng BHXH của NLĐ trước khi đi làm việc ở nước ngoài (trường hợp đã tham gia
BHXH bắt buộc); bằng 22% của 2 lần mức lương cơ sở (trường hợp chưa tham gia
BHXH bắt buộc). NLĐ có thể đóng 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng/lần hoặc đóng trước một
lần theo thời hạn hợp đồng. Về hình thức đóng, NLĐ đóng trực tiếp cho cơ quan BHXH
nơi cư trú trước khi đi hoặc đóng qua DN, tổ chức phái cử. Ông Quỳnh cho rằng do chỉ
thu hộ nên DN không bị ảnh hưởng về tài chính.
Tuy nhiên, theo ý kiến của các DN xuất khẩu lao động, Nghị định 115/CP chưa
phủ hết đối tượng. Cụ thể, nghị định chỉ quy định chung chung đối tượng “NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài” mà không nhắc đến thực tập sinh. Giám đốc một DN tại TP HCM đặt
vấn đề: “Luật quy định NLĐ đi làm việc ở nước ngoài bao gồm cả thực tập sinh. Vậy,
NLĐ sang Nhật theo chương trình thực tập sinh hay hộ lý, điều dưỡng sang Nhật, Đức
theo chương trình thực tập nâng cao tay nghề có thuộc phạm vi điều chỉnh hay không?”.
Dù chỉ thu hộ, không phải chi trả một phần BHXH cho NLĐ nhưng chắc
chắn hoạt động kinh doanh của DN và cả ngành XKLĐ sẽ bị ảnh hưởng. NLĐ vốn đã bỏ
ra nhiều chi phí để đi XKLĐ, nay phải đóng thêm BHXH bắt buộc, gánh nặng tài chính
có thể khiến nhiều người bỏ cuộc. Chưa kể, quy định cào bằng mức đóng 22% trên mức
lương cơ sở sẽ tạo ra sự bất bình đẳng, nhất là đối với những người sang các thị trường có
thu nhập thấp như Malaysia hoặc các nước Trung Đông.
Ông Vũ Minh Xuyên, Tổng Giám đốc Công tySovilaco đã chia sẻ khi bàn về quy

định người lao động phảitham gia BHXH bắt buộc kể từ ngày 1-1-2016. “Khó lắm!
Không hề đơn giản! Họ chủ yếu là lao động phổ thông, người nghèo ở nông thôn, chỉ
mong 3 năm ra nước ngoài tích cóp một khoản thu nhập để cải thiện cuộc sống gia
đình chứ làm gì nghĩ đến lợi ích lúc về già để tham gia BHXH bắt buộc”.
Theo ông Xuyên, mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ đều có quy định về chế độ bảo
hiểm đối với lao động nước ngoài. Lao động Việt Nam sang Nhật, Đài Loan, Malaysia
đều phải đóng các loại bảo hiểm, trừ vào lương hàng tháng. Ở Hàn Quốc, NLĐ khi xuất
cảnh sang nước này phải mang theo 450 USD để đóng bảo hiểm hồi hương, bảo hiểm rủi
21


ro, thất nghiệp. “Việc tham gia BHXH bắt buộc trong nước sẽ khiến họ nghĩ rằng bị
“đánh thuế 2 lần” nên ngại tham gia” - ông Xuyên nói.
Hơn thế nữa, đa phần NLĐ làm việc tại nước ngoài như Malaysia, Nhật Bản, Hài
Quốc, Đài Loan sẽ không mấy mặn mòi. Anh Nguyễn Văn Thanh (ngụ huyện Bù
Đăng, tỉnh Bình Phước) lo lắng: “Gia đình tôi phải cầm sổ đỏ mới có đủ 4.200 USD để
làm chi phí sang Nhật. Mấy tháng qua, tôi phải bán thêm rẫy để có tiền học tiếng, học
nghề, ăn ở, chi tiêu chờ ngày đi. Nếu đóng thêm tiền BHXH, chắc chắn thu nhập sẽ giảm,
thời gian trả nợ kéo dài. Tôi chỉ muốn sang Nhật kiếm chút tiền sửa sang cái nhà rồi tiếp
tục ruộng rẫy chứ chẳng màng chuyện lương hưu”.
III. Chính sách và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động sang Malayxia
3.1 Chính sách xuất khẩu lao động của Việt Nam

3.1.1 Quy định tiền ký quỹ với người lao động
Theo Thông tư số 21/2013 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định về
tiền ký quỹ với người lao động ban hành ngày 10-10-2013, văn bản này áp dụng đối với
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài ký với doanh nghiệp có giấy phép hoạt động dịch vụ này.
Như vậy, người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ký với các tổ chức khác
không thuộc diện điều chỉnh của Thông tư bao gồm: Tổ chức sự nghiệp được phép đưa

người lao động đi làm việc ở nước ngoài, doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ
chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài;
doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình thức thực tập nâng cao tay nghề;
người lao động đi làm việc theo hợp đồng cá nhân.
Mức trần ký quỹ là mức tiền ký quỹ tối đa doanh nghiệp dịch vụ có thể thỏa thuận
ký quỹ với người lao động dùng để bù đắp thiệt hại hợp lý do lỗi của người lao động gây
ra cho doanh nghiệp. Mức tiền đối với từng thị trường được quy định rất cụ thể. Thí dụ,
Đài Loan: từ 800 - 1.000 USD tùy theo ngành nghề, Malaysia: 300 USD, Hàn Quốc: từ
1.500- 3.000 USD, Nhật Bản: từ 1.500 0- 3.000 USD…

22


Cần lưu ý, theo quy định của Luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng, trường hợp người lao động không ký quỹ hoặc không đủ tiền để ký
quỹ, doanh nghiệp có thể thỏa thuận với người lao động về biện pháp bảo lãnh để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ của người lao động theo hợp đồng. Việc thực hiện thỏa thuận
tuân theo các quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2007 giữa Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội và Bộ Tư pháp hướng dẫn chi tiết một số vấn đề về nội dung hợp đồng bảo
lãnh và việc thanh lý hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng.
Hoạt động quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của người lao động được thực hiện theo
quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2007 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
3.1.2 Quy định hợp đồng mẫu
Thông tư số 22/2013 ngày 15-10-2013 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
quy định hai mẫu và nội dung Hợp đồng cung ứng lao động ký giữa doanh nghiệp doanh
nghiệp với đối tác nước ngoài về việc cung ứng lao động cho người sử dụng lao động
nước ngoài và Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài ký giữa người lao
động và các doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài

Theo đó, trừ người lao động đi làm việc ở nước ngoài ở nước ngoài theo hợp đồng
cá nhân, mọi doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đều
phải ký hợp đồng với người lao động quy định tại văn bản này.
Dưới đây là một số văn bản về xuất khẩu lao động:
Thông tư số 21/2013 ngày 10-10-2013 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
quy định mức trần tiền ký quỹ và thị trường lao động mà doanh nghiệp dịch vụ được thỏa
thuận ký quỹ với người lao động
Thông tư số 22/2013 ngày 15-10-2013 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
quy định mẫu và nội dung Hợp đồng cung ứng lao động, Hợp đồng đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài

23


Quyết định số 1465/QĐ-TTg ngày 21-8-2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc
thực hiện thí điểm ký quỹ đối với người lao động đi làm việc tại Hàn Quốc theo Chương
trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài của Hàn Quốc (chương trình EPS).
Thông tư liên tịch số 31/2013 giữa Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Bộ Tài
chính ngày 12-11-2013 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 1465/QĐ-TTg ngày 21-82013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện thí điểm ký quỹ đối với người lao động
đi làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình EPS.
Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22-8-2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Thông tư liên tịch số 32/2013 của liên bộ Lao động, Thương binh và Xã hội – Bộ
Ngoại giao ngày 6-12-2013 hướng dẫn trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi vi phạm quy định tại Điểm a, Điểm b, Điểm c, Khoản 2 Điều 35 của Nghị
định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22-8-2013 của Chính phủ
Trong các văn bản trên, riêng Quyết định số 1465 của Thủ tướng Chính phủ và
Thông tư liên tịch số 31/2013 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Bộ Tài chính
áp dụng riêng với người lao động đi làm việc ở nước ngoài tại Hàn Quốc theo chương

trình EPS. Các văn bản khác đều áp dụng chung cho công tác xuất khẩu lao động ở tất cả
các thị trường.
Nhằm đưa những quan điểm trên vào thực tiễn, Chính phủ đã sử dụng rất nhiều
công cụ cũng như chính sách khuyến khích nhằm tạo cho hoạt động XKLĐ những con
đường phát triển thuận lợi nhất. Mới đây, thông qua nghị định 81/2003/NĐ-CP, Chính
phủ đã có quyết định về việc thành lập quỹ hỗ trợ XKLĐ, theo đó quỹ này sẽ hỗ trợ chi
phí cho việc phát triển thị trường lao động mới, cho việc đào tạo người lao động , việc hỗ
trợ người lao động và doanh nghiệp giải quyết rủi ro cũng như việc thưởng cho các cơ
quan, đơn vị có thành tích trong hoạt động XKLĐ. Như vậy, quỹ này ra đời sẽ góp phần
phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của lao động

24


Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, đồng thời hỗ trợ rủi ro cho người lao động và
doanh nghiệp trong hoạt động này.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã có chính sách hỗ trợ cho vay đối với người lao
động đi xuất khẩu, theo đó người lao động đi XKLĐ không thuộc diện chính sách được
vay tối đa là 20 triệu đồng mà không yêu cầu thế chấp tài sản, điều này đã tháo gỡ rất
nhiều khó khăn cho người lao động, nhất là đối với những lao động nghèo ở nông thôn –
lực lượng chính của XKLĐ, mà trước đây không có tiền để đóng góp chi phí XKLĐ hoặc
không có tài sản để thế chấp. Đồng thời với chính sách này, hồ sơ thủ tục xin đi XKLĐ
cũng đó được giảm bớt và trở nên đơn giản thuận lợi hơn.
3.1.3 Đánh giá chính sách xuất khẩu lao động của Việt Nam:
3.1.3.1 Ưu điểm:
Trong năm 2014, một số thị trường truyền thống như Nhật Bản, Đài Loan,
Malaysia, Hàn Quốc, Đông Âu tiếp tục có nhu cầu cao tuyển lao động, hàng chục nghìn
lao động Việt Nam sẽ có cơ hội ra nước ngoài làm việc. Theo Bộ Lao động và Thương
binh Xã hội năm 2013 cả nước có 88.000 lao động sang nước ngoài làm việc, vượt trên
3000 lao động so với chỉ tiêu đặt ra. Trong năm 2013, cánh cửa tiếp nhận lao động có

trình độ của Việt Nam cũng đang dần hé mở. Các chương trình thí điểm đưa điều dưỡng
viên, hộ lý sang Đức và Nhật Bản làm việc đang được triển khai khá thuận lợi. Bước sang
năm 2014, tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn, nhưng thị trường lao động đã bắt đầu
ấm trở lại, một số thị trường truyền thống như: Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia… tiếp tục
có nhu cầu cao trong việc tiếp nhận lao động nước ngoài, trong đó có lao động Việt Nam.
Đặc biệt, cánh cửa vào thị trường tiềm năng Hàn Quốc sẽ dần được mở lại, tạo thêm cơ
hội cho lao động. Do đó ngành xuất khẩu lao động Việt Nam đặt ra chỉ tiêu năm 2014 sẽ
đưa 90.000 người đi làm việc ở nước ngoài, tăng 5.000 chỉ tiêu so với năm 2013. Theo
ông Đào Công Hải, Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết: Trong
năm 2014, chúng ta có khá nhiều thuận lợi. Khu vực Trung Đông có dấu hiệu phục hồi
trở lại, mặc dù năm 2013 chưa tăng mạnh số lượng lao động Việt Nam, nhưng đã có dấu
hiệu khả quan hơn đối với lao động xây dựng và dịch vụ sang UAE, Qatar… Các nước
25


×