Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

khóa luận tốt nghiệp Tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa hồ chí minh và sự vận dụng vào xây dựng nền văn hóa mới việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.52 KB, 86 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỉ XX kết thúc, để lại đằng sau nó biết bao biến cố lịch sử hùng tráng
và bi thương. Cũng chính thế kỉ XX đầy bão táp cách mạng đã sản sinh ra
“những người khổng lồ”, có thể làm thay đổi bộ mặt và diện mạo của toàn thế
giới. Tạp chí Thời đại (Mĩ) qua quá trình chọn lọc nghiêm ngặt đã công bố danh
sách 20 vĩ nhân có ảnh hưởng nhất thế kỉ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh được xếp ở
vị trí thứ 4 trong danh sách trên. Trước đó, năm 1990, tổ chức UNESCO đã suy
tôn Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa kiệt
xuất.
Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và nhân dân ta một di sản tư tưởng vô cùng
sâu sắc, vĩ đại và vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Đó “một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam; là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại…Tư tưởng Hồ Chí
Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản
tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”1.
Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động của cách mạng Việt Nam và cũng là
biểu tượng của văn hóa Việt Nam. Văn hóa Hồ Chí Minh là sự chắt lọc truyền
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, nxb Chính trị quốc gia, H.2000,
tr.83-84

1


thống hàng ngàn năm của dân tộc, tích hợp giá trị của mọi nền văn hóa ĐôngTây, kim cổ. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định: “Xây dựng kinh tế là


trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần
xã hội”. Do vậy việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa có vai trò rất
quan trọng. Và đây cũng chính là việc quay trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh,
lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng.
Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa, việc mở rộng các quan hệ giao lưu,
hợp tác về văn hóa đang là một thời cơ để để văn hóa Việt Nam tiếp nhận những
thành tựu mới của văn minh nhân loại, làm phong phú thêm cho văn hóa dân tộc
mình, rút ngắn khoảng cách của chúng ta với thế giới. Tuy nhiên, mặt trái của xu
thế toàn cầu hóa trên sẽ dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc nếu
chúng ta không có chiến lược văn hóa đúng đắn. Muốn bảo vệ nền văn hóa dân
tộc thì cần phải gắn liền với nâng cao dân trí, bồi dưỡng tinh thần nhân dân để
nền văn hóa nước ta có sức đề kháng với mọi ảnh hưởng theo chiều nghịch của
xu thế toàn cầu hóa.
Không những thế, một số thế lực thù địch đang lợi dụng giao lưu văn hóa để
thực hiện “diễn biến hòa bình”, chúng thông qua cái gọi là văn hóa đại chúng,
văn hóa nghe - nhìn làm cho thế hệ trẻ ngày càng xa rời cốt cách, lối sống, tâm
hồn dân tộc, chạy theo các phản giá trị, để từ tự diễn biến văn hóa đến tự diễn
biến chính trị. Vì vậy, trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp để bảo về
nền văn hóa dân tộc đó là xây dựng nền văn hóa phục vụ nhân dân chân chính,
hướng nhân dân đến các giá trị văn hóa, tinh thần cao đẹp để chống lại sự thẩm
thấu độc hại của văn hóa ngoại lai.
Với những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “Tính nhân dân trong tư tưởng văn
hóa Hồ Chí Minh và sự vận dụng vào xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam
hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu của khóa luận

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới nói chung
và đặc tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh nói riêng cho đến nay
đã có nhiều nhà khoa học, nhiều công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài
đề cập đến. Trong đó tiêu biểu là các công trình sau:
- GS. Song Thành: “Hồ Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2010. Tác giả khẳng định Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa kiệt xuất
và đưa ra những tư tưởng lớn của Người về văn hóa. Trong đó, tác giả nghiên
cứu khá kĩ về 3 tính chất của văn hóa trong Tư tưởng Hồ Chí Minh và đi tới
khẳng định các tính chất ấy đang ngày càng thấm sâu vào hoạt động văn hóa
nước nhà.
- TS. Bùi Đình Phong: “Đỉnh cao tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa”, Nxb
Lao động, Hà Nội, 2001. Cuốn sách gồm nhiều bài viết của tác giả về tư tưởng
văn hóa Hồ Chí Minh bao gồm cả những nghiên cứu sâu sắc về tính chất của nền
văn hóa mới Việt Nam.
- TS. Bùi Đình Phong (chủ biên): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền
văn hóa mới Việt Nam”, Nxb Lao động, H. 2001. Các tác giả đã nghiên cứu
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
Việt Nam trong đó có tính chất của nền văn hóa.
- GS. Đinh Xuân Lâm – PTS. Bùi Đình Phong: “Hồ Chí Minh văn hóa và đổi
mới”, Nxb Lao động, H.1998. Các tác giả đã đề cập đến các vấn đề: Xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng, sự hình thành một
nền văn hóa mới Việt Nam đồng thời, khẳng định Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh về
tính nhân dân của văn hóa.
- GS. Đỗ Huy: “Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị quốc gia,
H.1997. Tác giả đã đặt vấn đề phát triển văn hóa Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, trình bày các vấn đề: Phương pháp nghiên cứu tư tưởng văn hóa Hồ Chí

3



Minh, chiến lược xây dựng nền văn hóa mới, tư tưởng về bản chất của văn hóa và
văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa pháp luật, văn hóa nghệ thuật Hồ Chí
Minh và những cái nhìn mới về tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh.
- GS. Đỗ Huy: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển văn hóa mới ở
Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, H.2000. Tác giả đã đề cập đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về tính chất của nền văn hóa mới.
- Lê Xuân Vũ: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền văn hóa Việt Nam”, Nxb Văn
học, H.2004. Tác giả đã khẳng định Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn có
nhiều cống hiến đặc biệt cho văn hóa Việt Nam. Chủ tịch Hồ chí Minh cùng
Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập và xây dựng nền văn hóa Việt Nam xã hội
chủ nghĩa ngày càng phát triển trong sự nghiệp đổi mới ngày nay.
- Lê Xuân Vũ: “Trong ánh sáng tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh”, Nxb Văn
học, H. 2003. Tác giả đã tập hợp những bài viết của các tác giả phản ánh thực
tiễn văn hóa Việt Nam, những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối
của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong điều kiện cụ thể, góp phần
tích cực vào xây dựng nền văn hóa mới.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập toàn diện về tư tưởng văn hóa Hồ
Chí Minh từ nguồn gốc hình thành đến các nội dung chủ yếu trong tư tưởng văn
hóa của Người. Tuy nhiên, tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
chưa được tìm hiểu sâu sắc và cần được tiếp tục nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa
kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, luận văn sẽ đi sâu nghiên
cứu góp phần làm rõ hơn nữa tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí
Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là làm rõ tính nhân dân trong tư tưởng
Hồ Chí Minh với những giá trị lí luận và thực tiễn của nó.

4



3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
- Chỉ rõ cơ sở hình thành của tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí
Minh
- Trình bày những nội dung cơ bản của tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa
Hồ Chí Minh
- Đưa ra một số giải pháp để xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới mang đậm
tính nhân dân.
4. Đối tượng và phạm nghiên cứu của khóa luận
- Đối tượng nghiên cứu: Tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
và một số biện pháp nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới mang đậm tính
nhân dân
- Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa của Hồ
Chí Minh thông qua trước tác, cuộc đời và sự nghiệp của Người từ đó đưa ra một
số biện pháp nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới mang đậm tính nhân
dân
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu của khóa luận
5.1. Cơ sở lí luận
Khóa luận chủ yếu dựa trên cơ sở lí luận là chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa.
Đồng thời có tham khảo một số công trình nghiên cứu, sách báo, tạp chí…liên
quan đến nội dung được đề cập đến trong khóa luận.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó còn kết hợp các phương pháp nghiên cứu: Phân tích
và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, phương pháp lôgíc và lịch sử, so sánh và
khảo sát thực tiễn…
6. Đóng góp của khóa luận

5



- Thông qua nghiên cứu đề tài này, khóa luận góp phần làm rõ cơ sở hình
thành, nội dung của tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, từ đó
đưa ra một số biện pháp xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới mang tính nhân
dân.
- Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, tuyên
truyền tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng văn hóa nói riêng
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm
có hai chương:
Chương I: Tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
1.1. Cơ sở hình thành tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
1.1.1. Truyền thống văn hóa dân tộc
1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
1.1.3. Vai trò chủ quan Hồ Chí Minh
1.2. Nội dung tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
1.2.1. Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo các sản phẩm văn hóa
1.2.2. Nhân dân là đối tượng phản ánh của văn hóa
1.2.3. Văn hóa phải phục vụ quần chúng nhân dân
1.2.4. Những yêu cầu nhằm đảm bảo tính nhân dân của văn hóa
Chương II: Đảng ta vận dụng tính nhân dân trong tư tưởng văn hoánHồ Chí
Minh vào xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam hiện nay
2.2. Quan điểm, phương hướng và một số giải pháp xây dựng nền văn hóa mới
hướng tới phục vụ nhân dân của Đảng ta dưới ánh sáng tư tưởng văn hóa Hồ Chí
Minh

6



NỘI DUNG
Chương I
TÍNH NHÂN DÂN TRONG TƯ TƯỞNG VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH
1.1. Cơ sở hình thành tính nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Truyền thống văn hóa dân tộc
- Nước lấy dân làm gốc
Nằm ở vị trí địa lí thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nước ta ngay
từ buổi đầu dựng nước đã phải chịu biết bao cuộc xâm lược từ các nước đế quốc.
Do điều kiện lịch sử như vậy mà nhân dân lao động có vai trò đặc biệt trong lịch
sử và văn hóa dân tộc. Họ sớm có ý thức về quốc gia, ý thức làm chủ nước nhà,
gắn nước với nhà: “nước mất nhà tan”. Họ là lực lượng hùng mạnh chống ngoại
xâm, bảo vệ Tổ quốc, họ nói lên tiếng nói của mình, thực hiện quyền của mình
trong những vấn đề trọng đại của nước nhà.
Trong lịch sử dân tộc, lòng dân trở thành tiêu chuẩn đánh giá sự nghiệp của
các vua chúa, giải thích cho sự hưng suy của các triều đại. Bởi vậy,để đánh thắng
được kẻ thù xâm lược, xây dựng đất nước, các triều đại phong kiến đã sớm nhận
thức được vị trí vai trò quan trọng của dân: dân là gốc của nước, được dân thì
được nước, từ đó có những chính sách sao cho qui tụ được lòng dân.
Xưa, Nguyễn Trãi đã cho rằng: “Mến người nhân là dân mà chở thuyền, làm
lật thuyền cũng là dân”, “Làm lật thuyền mới biết dân mạnh như nước”. La Sơn
phu tử Nguyễn Thiếp trong “Tờ biểu trả lời vua Quang Trung và bàn về dân tình

7


xứ Nghệ” có câu: “Dân là gốc nước, gốc vững cây mới yêu”. Lê Quí Đôn viết
trong “Quần thư khảo biện”: “Gốc của nước vốn ở dân”. “Hải ngoại huyết thư”
của Phan Bội Châu cũng có câu nguyên văn chữ Hán: “Khởi tri dân duy bang
bản, vương giả dĩ dân vi thiên. Khí kỳ bản, thất kì sở thiên, bỉ thân năng phục tồn

hồ ?” (có nghĩa: Sao không biết dân chính là gốc nước, người làm vua lấy dân
làm trời. Vứt bỏ gốc, mất cả trời, thân mình liệu có còn được không?).
Chính sức mạnh dân chủ ấy, sức mạnh “chở thuyền và lật thuyền” ấy là sức
mạnh quyết định làm nên lịch sử dân tộc Việt Nam, làm nên cốt cách và bản sắc
của văn hóa Việt Nam.
- Văn hóa dân gian- sản phẩm sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động
Trong văn hóa dân tộc Việt Nam, bên cạnh văn hóa chính thống có cả một nền
văn hóa dân gian vô cùng phong phú và đa dạng. Đó là những phong tục tập
quán tốt đẹp về quan hệ giữa người với người. Đó là những điệu múa dân gian,
những tranh gà lợn, những lễ hội quần chúng… phản ánh tâm hồn trong sáng, ý
chí kiên cường, ước mơ gần gũi của nhân dân lao động. Đặc biệt là văn hóa dân
gian từ thần thoại, truyền thuyết đến tục ngữ, ca dao, dân ca, chèo, truyện cổ
tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn…ghi công đức những anh hùng dân tộc, ca
ngợi lao động và tình yêu quê hương Tổ quốc, chống lại áp bức bóc lột, chế giễu
bọn quyền quí, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, cổ vũ lòng tin thiện thắng ác, chính
thắng tà.
Nhân dân lao động là chủ thể của những tác phẩm văn hóa dân gian và là
người bảo lưu, gìn giữ, phát triển văn hóa dân gian qua các cuộc giao lưu văn
hóa, đồng hóa văn hóa của các nền văn hóa lớn. Trải hơn nghìn năm Bắc thuộc,
Việt Nam vẫn giữ được tiếng nói, lai tạo lấy chữ nôm cho mình. Các trào lưu
triết học và luồng tôn giáo từ bên ngoài vào không có tác dụng gì sâu sắc đối với
tâm hồn bất khuất, tư duy sáng tạo và lòng nhân ái, yêu nước thương nòi của
nhân dân Việt Nam, không xóa bỏ được tín ngưỡng cổ truyền của nhân dân Việt

8


Nam như tục thờ thành hoàng làng là những tổ tiên dựng làng, dựng nước,
những anh hùng dân tộc…Văn hóa dân gian luôn luôn là vũ khí sắc bén đập lại ý
đồ nô dịch và ngu dân của bọn xâm lược. Văn hóa dân gian Việt Nam xứng đáng

làm nòng cốt cho truyền thống văn hóa chân chính của dân tộc ta trong suốt quá
trình phát triển của nó.
Văn hóa dân gian là sản phẩm sáng tạo của nhân dân lao động nên nó phản
ánh sâu sắc những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, mơ ước, niềm tin của nhân
dân lao động, nó phản ánh những tri thức được đúc rút ra từ đời này qua đời
khác của nhân dân. Bởi vậy, có thể nói văn hóa dân gian là sáng tạo của nhân
dân, từ nhân dân mà ra và nó phục vụ cho cuộc sống của nhân dân.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên ở Nghệ An- một làng quê giàu truyền thống
văn hóa dân gian dân tộc. Người được hấp thu văn hóa dân gian Việt Nam một
cách rất tự nhiên từ người bà, người mẹ của mình, qua những câu ca dao, tục ngữ
ngắn gọn, giản dị mà sâu sắc, qua những làn hát ví dặm xứ Nghệ ngọt ngào, đằm
thắm. Ở cương vị là vị lãnh tụ tối cao của cả dân tộc nhưng Hồ Chí Minh lúc nào
cũng hết sức giản dị, gần gũi với quần chúng lao động một phần là bởi Người sử
dụng nhuần nhuyễn các hình thức văn hóa dân gian vào lời ăn tiếng nói của mình
như cao dao, tục ngữ, tập Kiều, lẩy Kiều…
1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
- Tinh hoa văn hóa phương Đông
Thứ nhất, Nho giáo. Hồ Chí Minh xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ
nhỏ Người đã được hấp thụ những kiến thức Nho học từ người cha của mình- cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và từ những người thầy đầu tiên như thầy Vương
Thúc Quí, thầy Trần Thân đều là những thầy đồ có kiến thức sâu sắc về Nho học
và có lòng yêu nước, thương dân nồng nàn.
Mặt tích cực của Nho giáo đó là coi trọng vị trí, vai trò, sức mạnh của
nhân dân: “hễ được dân chúng tự nhiên sẽ được thiên hạ… hễ được lòng dân tự

9


nhiên sẽ được dân chúng”, “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” nghĩa là
trong nước nhân dân là quan trọng nhất, thứ đến mới là quốc gia, vua là thứ bậc

xem nhẹ nhất. Bởi dân vốn là gốc nước, có dân mới có nước, có nước mới có
vua, ý dân là ý trời. Từ đó, Nho giáo chỉ ra một phương pháp nên theo của các
bậc thiên tử: “Dân muốn việc chi, nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ. Dân ghét
việc chi nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ”.
Một điểm tích cực nữa của Nho giáo là đã đề cao văn hóa đạo đức, đề cao
giáo dục. Nho giáo hết sức quan tâm đến việc giáo hóa dân chúng: “dân khờ
khạo mà phạm luật nước, đó không phải là tội của họ mà chính là tội của nhà
cầm quyền chẳng biết giữ gìn, giáo hóa họ”. Nho giáo đến thời Mạnh Tử, ông
chủ trương xây dựng mạng lưới trường học từ làng xã đến kinh đô, từ trường
hương học đến trường quốc học. Đây là đường lối đức trị lấy nhân nghĩa làm
gốc, coi trọng vai trò của dân, muốn cho nhân dân được hưởng thụ văn hóa hết
sức tiến bộ của Nho giáo.
Tuy nhiên, sự hiện thực hóa tư tưởng trên của Nho giáo trên thực tế còn
nhiều hạn chế. Tuyệt đại bộ phận nhân dân lao động không được hưởng thụ văn
hóa, giáo dục. Những chuẩn mực của văn hóa đạo đức mà Nho giáo đưa ra hay
một nền giáo dục toàn dân chỉ được thực hiện ở số ít người tầng lớp trên bởi tư
tưởng trọng nam khinh nữ, phân biệt đẳng cấp.
Tại Hội nghị huấn luyện toàn quốc tháng 5-1950, Hồ Chí Minh nhận định:
“Tuy Khổng Tử là phong kiến và trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều
không đúng, song những điều hay trong đó ta nên học” 1. Hồ Chí Minh đã tiếp
thu được nhiều điểm tích cực của Nho học như coi trọng vị trí vai trò của nhân
dân, đề cao văn hóa đạo đức và Người cũng thấy được điểm hạn chế đó là sự
phân biệt đẳng cấp, trọng nam kinh nữ, nhân dân không được hưởng thụ văn hóa
và giáo dục.
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.46

10



Thứ hai, Phật giáo. Phật giáo vào Việt Nam từ đầu công nguyên, tư tưởng từ
bi bác ái của Phật giáo bắt gặp tinh thần nhân văn bản địa lại trong hoàn cảnh
nhân dân ta bị đau khổ vì ngoại thuộc, Phật giáo đã nhanh chóng được tiếp cận
và truyền bá.
Điểm tích cực của Phật giáo đó là tư tưởng từ bi bác ái, thương người, vị tha,
quan tâm đến nỗi khổ của người khác, nếp sống có đạo đức, tinh thần dân chủ,
bình đẳng chống lại mọi phân biệt đẳng cấp…Đến thời nhà Trần, Trần Nhân
Tông đã sáng lập ra phái Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Điểm mới mẻ của
Thiền phái này là tuyên dương lao động, chủ trương không xa đời mà sống gắn
bó với nhân dân, đất nước.
Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, gần gũi nhân dân nên
từ nhỏ cũng đã thầm nhuần những truyền thống đó. Tương truyền, bà ngoại Hồ
Chí Minh, cụ Nguyễn Thị Kép là một phụ nữ rất mộ đạo, về già thường siêng
năng lên chùa và chăm làm việc thiện. Thân sinh của Người, cụ Nguyễn Sinh
Sắc, sau khi bị mất chức, bỏ đi dần vào các tỉnh phía Nam, đến sống ở Cao Lãnh
(Sa Đéc). Tại đây cụ thường cư ngụ ở các cửa chùa, vừa bốc thuốc vừa chữa
bệnh cho dân, vừa chăm chú nghiên cứu giáo lí đạo Phật. Những tư liệu này cho
thấy triết lí Phật giáo vốn không phải là điều xa lạ gì với Hồ Chí Minh ngay từ
thuở thiếu thời. Khi hoạt động bí mật trong Việt kiều tại Thái Lan, Hồ Chí Minh
đã từng khoác áo cà sa cùng với các vị chân tu bàn bạc về giáo lí đạo Phật…
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những điểm tích cực của Phật giáo như tư tưởng
bình đẳng, dân chủ, chống lại mọi tư tưởng phân biệt đẳng cấp, sống gần gũi
giản dị với nhân dân. Tư tưởng Phật giáo ảnh hưởng không nhỏ tới tính nhân dân
trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh bởi với những điểm tích cực trên, nhân dân
không phân biệt đẳng cấp đều được hưởng thụ những giá trị văn hóa.
Thứ ba, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Tôn Trung Sơn - Tôn Dật
Tiên (1866 - 1925) - nhà dân chủ cách mạng và chính khách kiệt xuất của Trung

11



Quốc. Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là
chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta”. Nội dung chính của chủ
nghĩa Tam dân là: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Sự gặp gỡ giữa tư tưởng của Tôn Trung Sơn với Hồ Chí Minh là gặp ở quan
điểm về chủ nghĩa dân tộc. Trong chủ nghĩa tam dân, Tôn Trung Sơn quan tâm
sâu sắc đến quyền lợi dân tộc. Ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh cũng đã nhận
định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Bên cạnh việc đề
cao chủ nghĩa dân tộc thì Tôn Trung Sơn rất chú ý đến chủ nghĩa dân quyền, chủ
nghĩa dân sinh. Theo ông, dân quyền là sức mạnh chính trị của nhân dân, nhân
dân quản lí chính trị. Còn chủ nghĩa dân sinh góp phần giải quyết những vấn đề
“đời sống của nhân dân, sinh tồn của xã hội, sinh kế của quốc dân, sinh mệnh
của quần chúng”. Tôn Trung Sơn hi vọng rằng những lí luận đề ra trong chủ
nghĩa dân sinh có thể kêu gọi quần chúng nhân dân đấu tranh xóa bỏ sự bất bình
đẳng về kinh tế, đem lại sự ấm no cho mọi người, làm cho đất nước trở nên hùng
mạnh. Tôn Trung Sơn đã đề ra chủ trương “người cày có ruộng”, quốc hữu hóa
ruông đẩt, hủy bỏ các quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời, tiết chế tư bản tư
nhân và phát triển tư bản nhà nước…
Những tư tưởng trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn đã có ảnh
hưởng lớn đến Nguyễn Ái Quốc, với nội dung được hết sức quan tâm là ba
nguyên tắc: “Dân tộc độc lập; Dân quyền tự do; Dân sinh hạnh phúc”. Trên lập
trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc
đã thấy ở đó những tư tưởng tiến bộ, tích cực và có thể vận dụng vào cách mạng
Việt Nam. Đó là đề cao vị trí vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, coi
đây là động lực của cách mạng. Tôn Trung Sơn chưa đề cập đến vấn đề xây
dựng nền văn hóa hướng đến phục vụ quần chúng nhân dân là bởi hoàn cảnh của
nước Trung Hoa bấy giờ là một nước phụ thuộc, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp
nên vấn đề dân tộc và vấn đề ruộng đất được đề cao. Hồ Chí Minh đã khắc phục


12


được những hạn chế đó để đưa ra những đường lối cách mang Việt Nam toàn
diện và sâu sắc trên các lĩnh vực.
- Lí luận của chủ nghĩa Mác- Lênin
Tính nhân dân của văn hóa nghệ thuật xuất hiện từ lâu trong nền văn hóa
nghệ thuật thế giới. Khát vọng đi gần với nhân dân của nhiều nhà nghệ thuật tiến
bộ đã được nhiều nhà văn hóa nghệ thuật lớn tiền Mác xít nêu lên. Tuy nhiên họ
không thể giải quyết được đúng đắn vấn đề tình nhân dân của văn hóa nghệ
thuật. Trước hết là vì họ không gắn được vấn đề động lực của lịch sử với sự
tham gia tích cực sáng tạo của quần chúng nhân dân. Thứ hai là họ không thể
đánh giá hết được mối quan hệ sâu rộng giữa nghệ thuật dân gian và các sáng tạo
chuyên nghiệp. Và điều thứ ba làm cho các nhà hoạt động văn hóa tiền Mác xít
không thể hiểu hết tính nhân dân của văn hóa nghệ thuật khi mà trong tầm mắt
của họ, quần chúng chỉ là những tầng lớp người ít học, sống hỗn độn, thiếu tổ
chức.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh một cách khoa học và xác định đúng
đắn mối quan hệ giữa vai trò của cá nhân và quần chúng nhân dân trong sự phát
triển của xã hội. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử, là
chủ thể của lịch sử. Vai trò của quần chúng nhân dân được thể hiện ở những mặt
cơ bản sau:
- Quần chúng nhân dân là người sản xuất ra của cải vật chất – nhân tố quyết
định của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
- Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
- Quần chúng nhân dân còn là lực lượng cơ bản sản xuất ra những của cải tinh
thần cho xã hội.
Bên cạnh đời sống vật chất, con người, xã hội còn có đời sống tinh thần như
tình cảm, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật…Cùng với sự phát
triển của đời sống vật chất, đời sống tinh thần của xã hội ngày càng nâng cao.


13


Quần chúng nhân dân chính là nguồn sáng tạo ra của cải tinh thần đồng thời họ
là chủ thể hưởng thụ những giá trị tinh thần đó.
Trước hết, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân cùng với những
tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ là nguồn đề tài vô tận cho những người
lao động trí óc chuyên nghiệp sáng tạo ra những của cải tinh thần.
Quần chúng nhân dân còn là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ nền văn hóa dân
gian trong lịch sử. Họ là chủ thể của những câu chuyện thần thoại, chuyện cổ
tích, của kho tàng tục ngữ, ca dao, dân ca…
Dưới chủ nghĩa xã hội, một mặt đã tạo ra được những điều kiện khách quan
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; mặt khác đòi hỏi quần chúng nhân dân phải
là chủ thể của những của cải tinh thần.
Trong bất kì thời đại nào, quần chúng nhân dân cũng là người sáng tạo chân
chính ra lịch sử. Nhưng trình độ sáng tạo của quần chúng đến mức nào là tùy
thuộc vào tính tích cực, sự hiểu biết của quần chúng về tự nhiên và xã hội, vào
trình độ tổ chức của quần chúng. Vai trò sáng tạo của quần chúng ngày càng
tăng cường cùng với sự phát triển của xã hội.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác về vai trò sáng tạo lịch sử của
quần chúng nhân dân, Lênin đã đặt lại vấn đề tính nhân dân của văn hóa nghệ
thuật trên một thế giới quan hoàn toàn mới. Đó là một thế giới quan tin tưởng
vào tính cách mạng và có thể cách mạng tới cùng của tuyệt đại bộ phận nhân dân
lao động.
Lênin đã đặt vấn đề tính nhân dân của văn hóa nghệ thuật trong vấn đề
chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là việc giải phóng năng lực sáng tạo
của hàng triệu người đã từng bị chế độ phong kiến và tư bản làm bần cùng hóa.
Đó là sự nghiệp cần phải tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân xây dựng chế
độ mới. Ở nước Nga trước cách mạng Tháng Mười là nước Nga của bọn Sa

hoàng, quần chúng nhân dân thường ít học và lạc hậu về văn hóa. Lênin đã từng

14


lập kế hoạch về cuộc cách mạng văn hóa để cứu nước Nga lạc hậu, làm tăng
trưởng các khả năng sáng tạo mới trong nhân dân, đẩy nền văn hóa nghệ thuật
của nước Nga lên một trình độ sáng tạo mới. Trong thời gian chuẩn bị cách
mạng Tháng Mười, để có một tuyên ngôn tập hợp lực lượng sáng tạo của quần
chúng và cũng để có một định hướng cho những người cách mạng thống nhất
hoạt động trên lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật, Lênin đã viết bài báo nổi tiếng:
“Tổ chức Đảng và văn học có tính Đảng”. Bài báo khẳng định nền văn nghệ mới
của giai cấp vô sản sẽ không phục vụ cho một số cô nàng sống phè phỡn và đã
chán chường. Nó cũng không phục vụ “một vạn kẻ có đặc quyền đặc lợi đang
chán ngấy và mang nặng cái bụng phệ của chúng, mà nó sẽ phục vụ hàng triệu
và hàng chục triệu nhân dân lao động”1. Nền văn hóa nghệ thuật của giai cấp vô
sản phải mang tính nhân dân sâu sắc.
Sau khi Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, Lênin bắt tay ngay vào tổ chức
một nền văn hóa nghệ thuật mà trong đó vai trò của quần chúng nhân dân sẽ trở
thành chủ đạo. Đó là một nền nghệ thuật “thuộc về nhân dân”, “bắt rễ sâu xa
trong lòng quần chúng đông đảo”2. Hồ Chí Minh đã tiếp thu trọn vẹn những nội
dung tích cực trên của chủ nghĩa Mác- Lênin về tính nhân dân của văn hóa để từ
đó, Người có những bước đi, cách làm phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt
Nam: trình độ dân trí thấp, nhân dân chịu nhiều tầng áp bức, không được hưởng
thụ các giá trị văn hóa của xã hội.
1.1.3.Vai trò chủ quan Hồ Chí Minh
Những nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh là cơ sở quan trọng trong việc hình
thành tính nhân dân của tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh.
Trước hết là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh
1


Lê nin. Bàn về văn hóa văn học. Nxb Văn học, Hà Nội, 1997, tr.79

2

Lê- nin. Bàn về văn hóa văn học. Nxb Văn học, Hà Nội, 1997, tr.464

15


tường. Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm lí luận
mang tính khoa học và cách mạng về văn hóa và xây dựng nền văn hóa Việt
Nam. Đó là sự chắt lọc, tổng hợp kết tinh những giá trị văn hóa của phương
Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Nếu như Hồ
Chí Minh không có tư duy độc lập tự chủ sáng tạo thì khi được tiếp thu những
tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc và của nhân loại, Người sẽ không thể
thấy được những nét tích cực và hạn chế của truyền thống. Hồ Chí Minh đã tiếp
thu trọn vẹn và sâu sắc những giá trị của văn hóa truyền thống Việt Nam như đề
cao vị trí, vai trò sức mạnh của người dân, nhân dân là chủ thể sáng tạo ra những
sản phẩm văn hóa đích thực và đồng thời cũng là người hưởng thụ những giá trị
tinh thần ấy. Người cũng nhận thấy những mặt hạn chế trong nền văn hóa thời kì
trước Mác, đó là văn hóa chưa hướng vào phục vụ số đông nhân dân lao động
mà rời xa thực tế cuộc sống, chỉ phục vụ một bộ phận nhỏ những người thuộc
tầng lớp trên do tư tưởng bất bình đẳng và coi khinh trình độ của nhân dân lao
động. Từ đó, Hồ Chí Minh hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới hướng
đến phục vụ quần chúng nhân dân, khắc phục những hạn chế về tư tưởng văn
hóa trước đó dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ hai đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú
của thời đại để có thể tiếp cận với chủ nghĩa Mác- Lênin.Tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nói riêng là sự kết tinh, sự kết

hợp nhuần nhuyễn truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân
loại. Để có được điều đó, Hồ Chí Minh luôn không ngừng học tập, nghiên cứu,
đánh giá nhận xét để tiếp thu những giá trị tích cực, loại bỏ những hạn chế không
còn phù hợp để có sự “vượt gộp” trong tư tưởng của Người. Trên nền tảng kiến
thức văn hóa đó, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết
cách mạng nhất và khoa học nhất. Trên lập trường chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ
Chí Minh đã hình thành và phát triển nên một tư tưởng sâu sắc và toàn diện bàn

16


về cách mạng Việt Nam trong đó có tư tưởng về văn hóa. Ngay từ rất sớm, Hồ
Chí Minh đã hết sức quan tâm đến xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam mang ba
tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Thứ ba đó là tâm hồn của một nhà yêu nước thương dân, một chiến sĩ cộng
sản nhiệt thành cách mạng của Hồ Chí Minh. Như chúng ta đã biết Hồ Chí Minh
đến với chủ nghĩa cộng sản từ chủ nghĩa yêu nước, từ lòng “ham muốn tột bậc là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ta cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” nhưng mục tiêu cuối
cùng vẫn là con người, là nhân dân lao động. Hồ Chí Minh có tấm lòng đối với
nhân dân hết sức chân thành. Sinh ra và lớn lên tại một cùng quê nghèo, thiên
nhiên không ưu đãi, từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã chứng kiến cảnh lam lũ, khổ nhọc
của những người nông dân chân lấm tay bùn lại thêm cảnh nô lệ, mất tự do. Khi
ra kinh thành Huế, Người lại càng thấm thía hơn nỗi khổ nhục của nhân dân lao
động, họ vừa đói khổ, vừa phải chịu cảnh nước mất, nhà tan, không có một chút
quyền hành, không được hưởng những giá trị văn hóa. Với tấm lòng yêu nước
thương dân, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước, và người đã đến được
với ánh sáng của cách mạng Tháng Mười Nga, ánh sáng của chủ nghĩa MácLênin. Sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, Hồ Chí Minh và chính
phủ lâm thời đã hết sức quan tâm đến việc bồi dưỡng văn hóa cho nhân dân và
chủ trương xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam hướng vào phục vụ quần chúng

nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân lao động được làm chủ
trên mọi mặt của đời sống kinh tế- chính trị- văn hóa- xã hội.
1.2. Nội dung tính nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
Theo GS.TS Nguyễn Phú Trọng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là “một
hệ thống các quan điểm lí luận mang tính khoa học và cách mạng về văn hóa và
xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Nó chắt lọc, tổng hợp và kết tinh được những
giá trị văn hóa của phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân

17


tộc và quốc tế, mà cốt lõi là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác- Lê nin với tinh hoa
và bản sắc dân tộc Việt Nam”1.
Với tư duy và trí tuệ của mình, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đưa ra khái
niệm về văn hóa, khái niệm của Người còn ra đời trước khái niệm văn hóa của tổ
chức UNESSCO. Trong “Mục đọc sách” của tập “Nhật kí trong tù” 1943, Người
viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn”2.
Trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh thì nền văn hóa mới Việt Nam khác với
nền văn hóa cũ trước hết ở những tính chất cơ bản của nó.
Khi nói về nền văn hóa cũ, Hồ Chí Minh chủ yếu tập trung vào văn hóa của
thực dân phong kiến. Đó là nền văn hóa mang tính chất nô dịch, ngu dân, muốn
biến cả dân tộc Việt Nam thành một dân tộc “ngu dốt”, “đần độn”, biến con
người Việt Nam thành người vừa “câm” vừa “điếc”, muốn “đình chỉ hẳn đời
sống tinh thần của họ”. Người đã phân tích sâu sắc nền văn hóa đó trong nhiều

bài viết trong những năm 1920, đặc biệt trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”
được xuất bản năm 1925.
Nền văn hóa mới mà Hồ Chí Minh hướng tới xây dựng là nền văn hóa của
toàn dân, phục vụ vụ nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm cơ sở. Đó là tính
nhân dân của nền văn hóa mới.
Năm 1943, trong Đề cương văn hóa, Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định ba
1
2

Ban tư tưởng văn hóa trung ương: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Hà Nội.2003
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr.431

18


nguyên tắc của nền văn hóa mới, ba nguyên tắc xuất phát từ thực tiễn và đáp ứng
rất kịp thời cho các nhu cầu bức thiết của thực tiễn. Đó là:
- “Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn
hóa Việt Nam phát triển độc lập)
- Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản
lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng)
- Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học,
phản tiến bộ)”1.
Theo Phong Lê, Đề cương văn hóa 1943 đã có tác dụng “lật sâu, đào sâu
xuống các nền tảng của đại chúng, nhằm đưa văn hóa vào quần chúng, và đưa
quần chúng vươn dần lên và hướng tới các mục tiêu từ thấp đến cao của sự tiếp
nhận và sáng tạo văn hóa”. Thứ tự ba nguyên tắc này về sau có thay đổi là dân
tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Từ ba nguyên tắc này đã xác định ba tính
chất của nền văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân là dân tộc, khoa học, đại chúng: “Cuộc vận động văn hóa mới Việt

Nam lúc này phải theo ba nguyên tắc, ba khẩu hiệu:
- Dân tộc hóa
- Khoa học hóa
- Đại chúng hóa…
Cho nên văn hóa mới Việt Nam phải có ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại
chúng”2.
Cách mạng tháng Tám thành công, chỉ năm ngày sau khi đọc bản tuyên
ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ với Ủy ban văn hóa lâm thời Bắc
Bộ về tính chất của nền văn hóa mới mà chúng ta cần bắt tay xây dựng: “Cái văn
hóa mới này cần phải có tính cách khoa học, tính cách đại chúng thì mới thuận
1
2

Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 316-321
Bàn về văn hóa văn nghệ, nxb Sự thật.Hà Nội.1963.tr.27-28

19


với trào lưu tiến hóa của tư tưởng hiện đại” 1. Ngày 13-9-1945, khi tiếp ông
Nguyễn Tường Phượng, phụ trách tạp chí Tri ân, Người lại nhấn mạnh: “Nay
nước ta đã độc lập, tinh thần được giải phóng, cần có một nền văn hóa hợp với
khoa học và hợp cả với nguyện vọng của dân”2.
Trong Báo cáo chính trị đọc tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng
Lao động Việt Nam (1951), Hồ Chí Minh khẳng định phải “Xúc tiến công tác
văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến
kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của
văn hóa đế quốc. Đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa
dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới để xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng”.

Trong nghị quyết của Đại hội III ( 9-1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta đưa ra tính chất của nền văn nghệ mới: “Phát triển nền văn nghệ mới với nội
dung XHCN và tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc”3.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng năm 1976: “ Nền văn
hóa mới là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất nhân dân tộc.
Đó là một nền văn hóa có tính Đảng và tính nhân dân”4.
Như vậy, tính nhân dân (hay còn gọi là tính đại chúng) trong tư tưởng văn
hóa Hồ Chí Minh là một trong ba tính chất quan trọng mà Người thường xuyên
nhắc tới và chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Tính
nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh được thể hiện ở những nội dung
sau:
1

Hồ Chí Minh-biên niên tiểu sử.nxb. Chính trị quốc gia, H, 1993.t.3, tr.13

2

Hồ Chí Minh-biên niên tiểu sử, nxb. Chính trị quốc gia, H, 1993, t.3, tr.16

3

Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.21, tr.930

4

Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.37, tr.519

20



- Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo các sản phẩm văn hóa.
- Nhân dân là đối tượng phản ánh của văn hóa.
-Văn hóa phụng sự nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân là cơ sở.
1.2.1. Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo các sản phẩm văn hóa:
Nói quần chúng là chủ thể sáng tạo các sản phẩm văn hóa tức là nói đến vị
trị, vai trò của nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Trước khi phân
tích vị trí, vai trò của nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, chúng ta đi
nghiên vai trò của quần chúng nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
Dân là một khái niệm đã có từ lâu trong lịch sử và được dung một cách phổ
biến, chúng ta thường gặp trong các di sản văn hóa, trong giao tiếp hằng ngày.
Tuy nhiên nội hàm của khái niệm dân không phải đơn giản, thuần nhất, không
bất biến mà nó thay đổi trong lịch sử.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, quần chúng nhân dân có cùng khái niệm với
khái niệm nhân dân, dân chúng, quần chúng,… Tuy nhiên tùy trường hợp cụ thể
mà Người có cách dùng thích hợp.
Trong “Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa”, Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân
“gồm đủ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh, gồm đủ các dân tộc: Việt,
Thổ, Nùng, Mường, Mán… không phân biệt gái, trai, già, trẻ, lương, giáo, giàu,
nghèo”1.
Trong “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”, Hồ Chí Minh viết: “người dân Việt
Nam gồm sỹ, nông, công, thương, binh… già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, lớn,
nhỏ”.
Hồ Chí Minh dung khái niệm dân để chỉ tất cả những người lao động bình
thường, đông đảo trong xã hội. Điều đó không có nghĩa là Người xem nhẹ vấn
đề giai cấp mà Người luôn đứng trên quan điểm, lập trường giai cấp công nhân
1

Hồ Chí Minh toàn tập, nxb Chính trị quốc gia, H. 2002, t.3, tr.553

21



để giải quyết một cách cụ thể trước mỗi nhiệm vụ cách mạng, tại những thời
điểm nhất định.
Về vị trí, vai trò của quần chúng nhân dân Hồ Chí Minh đã không chỉ tiếp
thu tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc của nước trong truyền thống dân tộc Việt
Nam và trong văn hóa Phương Đông mà Người còn tiếp thu quan điểm về vị trí,
vai trò của quần chúng nhân dân trong chủ nghĩa Mác- Lênin. Hồ Chí Minh cũng
khẳng định quần chúng nhân dân là người sản xuất ra những của cải vật chất và
tinh thần cho xã hội. Từ đó, Hồ Chí Minh có nhận thức sâu sắc về sức mạnh của
dân: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”1.
Về vị trí, vai trò của quần chúng nhân dân trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí
Minh. Theo Hồ Chí Minh, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo và hưởng
thụ những của cải tinh thần của xã hội. Có thể do đặc điểm của Việt Nam là một
nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ dân trí thấp lại bị thực dân đế quốc xâm lược,
thực hiện chính sách ngu dân, người dân không có điều kiện học tập và hưởng
thụ những của cải tinh thần của xã hội, cho nên khi nói về vai trò của quần chúng
nhân dân đối với lĩnh vực tinh thần, Hồ Chí Minh thường tập trung vào những
vấn đề: chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, nâng cao trình độ dân trí, nâng cao trình
độ tay nghề cho người lao động. Vì theo Người, người lao động là chủ thể của
đất nước- dân là chủ và dân làm chủ.
Khi nói về vai trò sáng tạo của cải tinh thần của quần chúng, Hồ Chí Minh đã
đặt ra vấn đề: “Quần chúng có biết sáng tạo không? Có sáng tác được không?”
và Người khẳng định: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là
những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của
cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa. Chắc các cô, các
chú cũng biết những câu tục ngữ của ta do ai làm ra? Đó là do quần chúng làm
1


Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 2002, t.8, tr.276

22


ra. Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay là những sáng tác của quần
chúng.”
Hồ Chí Minh còn hết lòng ngợi ca những sáng tác của quần chúng: “Các sáng
tác ấy hay mà lại ngắn chứ không trường thiên đại hải, dây cà ra dây muống…
những sáng tác ấy là những hòn ngọc quí”. So sánh những tác phẩm dân gian với
“những hòn ngọc quí” tức là Hồ Chí Minh hết sức đề cao giá trị của những tác
phẩm dân gian mà nhân dân lao động chính là chủ thể, là tác giả của chúng.
Lịch sử dân tộc ta đã trải qua nghìn năm Bắc thuộc, Trung Quốc đã thực hiện
chính sách đồng hóa ,đưa nền văn hóa Trung Quốc thâm nhập vào Việt Nam
nhằm phục vụ cho chính sách cai trị của chúng. Chúng ta cũng chịu ảnh hưởng
bởi những luồng tư tưởng văn hóa lớn như Phật giáo từ Ấn Độ, Thiên Chúa giáo
từ Phương Tây. Tuy nhiên, văn hóa nước ta không hề bị mất đi hay mờ nhạt mà
được duy trì, bảo lưu, phát triển qua các thế hệ. Chúng ta đã tiếp thu những yếu
tố tích cực để làm phong phú thêm cho nền văn hóa truyền thống, giúp thích
nghi với điều kiện mới. Và người bảo lưu những giá trị văn hóa dân tộc vượt qua
những cơn bão đồng hóa và ảnh hưởng văn hóa từ những nền văn hóa lớn chính
là nhân dân lao động. Nhân dân ta đã tạo ra một nền văn hóa dân gian đầy sức
sống và có bản sắc riêng. Đó là những câu ca dao, tục ngữ, hò, vè, phong tục tập
quán mà Hồ Chí Minh ví như “những hòn ngọc quí” đã được mài giũa hoàn hảo,
kết tinh trí tuệ của quần chúng.
Đề cao các sáng tác văn hóa dân gian của quần chúng, Hồ Chí Minh đã sử
dụng linh hoạt các hình thức văn hóa dân gian vào trong lời ăn tiếng nói của
mình. Những hòn ngọc quí ấy của nhân dân đã không chỉ góp phần làm cho
tiếng nói của Người thêm đậm đà tính dân tộc mà còn mang tính nhân dân sâu
sắc.

1.2.2. Nhân dân là đối tượng phản ánh của văn hóa:
Theo Hồ Chí Minh, tính nhân dân là động lực, là mục tiêu, là nền tảng của văn

23


hóa xã hội chủ nghĩa. Người quan niệm: một nền văn hóa nghệ thuật có sức sống
phải là một nền văn hóa nghệ thuật giàu tính nhân dân. Người nhấn mạnh:
“Nghệ thuật chân chính cốt là để phục vụ nhân dân” 1. Hồ Chí Minh đã phát huy
truyền thống nhân dân trong nền văn học nghệ thuật tiến bộ của dân tộc, kết hợp
với những khát vọng cao đẹp của chủ nghĩa Mác- Lênin về vị trí trách nhiệm của
văn học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa đối với nhân dân. Đó là nền văn hóa nghệ
thuật thuộc về nhân dân. Người đánh giá cao cống hiến của giới văn nghệ sĩ
trong kháng chiến chống Pháp “đã có những đóng góp đáng kể phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân…làm thế thì văn nghệ sĩ nhất định sẽ tiến bộ hơn nữa”. 2
Hồ Chí Minh xác lập văn hóa nghệ thuật cũng như một bộ phận của công tác
cách mạng, cũng cùng một mục đích như mọi lĩnh vực hoạt động khác là phục
vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân: “phục vụ nhân dân… là
mục đích của văn nghệ ta”3, “văn hóa…phục vụ công nông binh, tức là phục vụ
đại đa số nhân dân”. Bác luôn nhấn mạnh đối tượng phục vụ của văn nghệ là
quần chúng nhân dân. Tại Hội nghị cán bộ văn hóa năm 1958, Hồ Chủ tịch nói:
“Một vấn đề nữa phải đặt ra là văn hóa phục vụ ai? Cố nhiên chúng ta phải nói là
phục vụ công nông binh tức là phục vụ đại đa số nhân dân. Vài năm về trước
điều đó chưa hiểu được dứt khoát có phải không? Các đồng chí làm công tác văn
hóa cần phải dứt khoát như thế, không thể nói nghệ thuật vị nghệ thuật, mà cần
phải nói rõ văn hóa phục vụ công nông binh”. Văn hóa nghệ thuật lấy nhân dân
là đối tượng phản ánh, đồng thời phải hiểu rất rõ mặt mạnh và mặt yếu của trong
nhân dân. Hồ Chí Minh luôn kêu gọi văn hóa nghệ thuật phải chứa đựng khát
vọng giải phóng nhân dân, nâng cao trình độ nhận thức, hiểu biết và khả năng
sáng tạo trong nhân dân.

1

Hồ Chí Minh. Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, 1981, tr.441

2

Hồ Chí Minh: Tuyển tập văn học, Nxb Văn hóa, t.2, tr.334

3

Hồ Chí Minh: Tuyển tập văn học, Nxb Văn hóa, t.2, tr.382,336-337

24


Văn hóa nghệ thuật không phải chỉ phục vụ nhân dân mà chính nhân dân là
nguồn lực nuôi dưỡng sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Hồ Chí Minh nhấn mạnh
sự tác động biện chứng này: “Chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của
nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Nếu nhà văn quên điều đó, nhân dân cũng
quên anh ta”1.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, văn hóa nghệ thuật là một hoạt động thực
tiễn mang tính nhân dân sâu sắc. Sự phát triển của văn hóa nghệ thuật gắn liền
với sự phát triển của xã hội, của thực tiễn cách mạng, của nhân dân. Điều này
được thể hiện rõ ở các luận điểm của Người: “xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy”,
“từ cái phổ biến ấy, cái nền mà nâng cao lên làm cho văn nghệ ta ngày càng
phong phú về tư tưởng và nghệ thuật”. Văn hóa văn nghệ phải hiểu được nhân
dân và nhân dân phải hiểu được văn hóa văn nghệ. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, quá trình xây dựng nền văn hóa mới, Hồ Chí Minh coi tính
nhân dân của nền văn hóa nghệ thuật là nền tảng, cơ sở lâu bền của một nền văn
hóa mới, là phương thức làm giàu đời sống tinh thần của mọi người trong hưởng

thụ, đánh giá và sáng tạo. Đây là một nội dung tiến bộ và nhân đạo trong xây
dựng một nền văn hóa mới của Hồ Chí Minh.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, để phản ánh đời sống của nhân dân thì
nhất thiết văn hóa nghệ thuật phải bám rễ sâu bền vào trong đời sống nhân dân.
Nó phải “thấu hiểu, liên hệ đi sâu vào đời sống nhân dân”, phải “bầy tỏ được
tinh thần anh dũng và kiên quyết” của nhân dân, phải “giúp phát triển và nâng
cao tinh thần ấy”2.
Muốn vậy, trước hết phải đi sâu vào đời sống nhân dân, bày tỏ được tinh
1

2

Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội, 1981, tr.516
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr,368

25


×