Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Phân tích thị trường cổ phiếu việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.99 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

Tổng quan về thị trường cổ phiếu

I.

Thị trường cổ phiếu là một bộ phận cơ bản của thị trường chứng khoán,
hoạt động của thị trường này diễn ra khá sôi nổi và nhạy cảm, phụ thuộc vào kết
quả sản xuất kinh doanh của công ty. Với những chức năng, vai trò quan trọng
của thị trường cổ phiếu trong việc góp phần phát triển kinh tế thì việc phát triển
thị trường cổ phiếu ở Việt Nam hiện nay là sực thự cần thiết, có thể nói là nhu
cầu thiết yếu giúp chúng ta hội nhập nhanh chóng và tiến kịp với trình độ của các
nước trên thế giới.
I.1.
-

Khái niệm
Thị trường cổ phiếu là nơi diễn ra giao dịch trao đổi, mua bán các loại cổ phiếu.
Thị trường cổ phiếu là một bộ phận cơ bản của thị trường chứng khoán. Vì cổ
phiếu là loại chứng khoán có lãi suất thường phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh
doanh của công ty do đó những nhân tố có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
tình hình hoạt động của công ty như khủng hoảng giá dầu, giá USD, đình công,
lạm phát, thất nghiệp, chiến tranh đều ảnh hưởng đến giá cả của thị trường cổ
phiếu.

1


-

Thị trường chứng khoán là hình thức vận động điển hình của thị trường vốn với


khối lượng giao dịch và sức thu hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư thị trường

I.2.
-

này luông giữ vị trí chủ yếu trong kết cấu của thị trường vốn cả nước.
Phân loại
Căn cứ váo cơ cấu tổ chức thị trường cổ phiếu bao gồm:
Thị trường sơ cấp: Là nơi mua bán các loại cổ phiếu chưa phát hành. Thị trường
sơ cấp tạo điều kiện tăng quy mô vốn đầu tư và là nơi cung ứng cổ phiếu vào lưu

-

thông.
Thị trường thứ cấp: Là nơi chuyển nhượng quyền sở hữu các loại cổ phiếu đã
phát hành và đang lưu thông trên thị trường. Thị trường thứ cấp không làm thay
đổi quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế. Thị trường thứ cấp thường được tổ



chức theo hai cách đố là thị trường tập trung và thị trường phi tập trung
Thị trường tập trung là nơi mà các hoạt động giao dịch được thực hiện tại các cơ
sở giao dịch, cổ phiếu được mua bán tại đây thỏa mãn các điều kiện được niêm
yết, hay các loại hàng hóa được đưa vào thị trường tập trung phải nằm trong



danh mục thị trường như thị trường giao dịch cà phê, lúa mì, bò,...
Thị trường phi tập trung được thực hiện ở mọi nơi, việc mua được bán thông qua
đường dây viễn thông hoặc hệ thống máy tính, tại đây thực hiện phương thức

mua bán thẳng cho những ai chấp nhận giá được đưa ra nên còn được gọi là thị

I.3.
-

trường trao tay.
Chức năng của thị trường cổ phiếu
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Khi các nhà đầu tư mua cổ phiếu do các công ty phát hành, số tiền nhàn
rỗi của họ được đưa vào sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản

-

xuất xã hội.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng.
Thị trường cổ phiếu cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành
mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại cổ phiếu trên thị trường rất
khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa
chọn loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của chính mình.

2


Chính vì vậy, thị trường cổ phiếu góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc
-

gia.
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chình sách kinh tế vĩ mô.
Các dự báo của thị trường cổ phiếu phản ánh động thái của nền kinh tế
một cách nhạy bén và chính xác. Giá cổ phiếu tăng lên cho thấy đầu tư đang mở

rộng, nền kinh tế tăng trưởng. Và ngược lại, giá cổ phiếu giảm sẽ cho thấy các
dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thê, thị trường cổ phiếu được gọi là phong
vũ biểu của nền kinh tế và là công cụ quan trọng để chính phủ thực hiện chính

-

sách kinh tế vĩ mô.
I.4.
Vai trò của thị trường cổ phiếu
Tạo tính thanh khoản cho các cổ phiếu
Nhờ có thị trường cổ phiếu mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi cổ phiếu
mà họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại cổ phiếu khác khi họ muốn. Thị
trường cổ phiếu hoạt động càng năng động và hiệu quả thì càng có khả năng



nâng cao tính thanh khoản của các cổ phiếu giao dịch trên thị trường.
Đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp.
Thông qua giá cổ phiếu, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một
cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các
doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra được môi
trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp



dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Sự biến đổi không ngừng giá của cổ phiếu, nhà đầu tư có thể đánh giá doang




nghiệp một cách khách quan và khoa học tại bất kỳ thời điểm nào
Ngoài ra, đối với các công ty niêm yết, nghĩa vụ công khai thông tin trên thị
trường chứng khoán giúp các nhà đầu tư, các nhà quản trị thị trường có thể đánh



giá sự tăng trưởng ổn định hay suy thoái bất ổn định của các công ty.
Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển.
Thị trường cổ phiếu hỗ trợ chương trình cổ phần hóa cũng như việc thành
lập và phát triển của các công ty cổ phần qua việc quảng bá thông tin, định giá
doanh nghiệp, bảo lãnh phát hành, phân phối cổ phiếu một cách nhanh chóng,

3


tạo tính thanh khoản cho chúng. Từ đó thu hút các nhà đầu tư đến góp vốn vào


công ty cổ phần.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thị trường cổ phiếu không những thu hút vốn đầu tư nội địa mà còn giúp
Chính phủ hoặc doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu công ty ra thị trường vốn
quốc tế để thu hút thêm ngoại tệ.
I.5.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu
Giá của cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, cả những yếu tố

vĩ mô và vi mô. Do đó, khi đầu tư cổ phiếu, nhà đầu tư cần quan tâm tìm
hiểu và phân tích tác động của các yếu tố tới cổ phiếu mình đang đầu tư, để

đưa ra các quyết định đầu tư thích hợp. Sau đây là một số yếu tố ảnh hưởng
đến giá cổ phiếu mà nhà đầu tư cần biết.
+ Môi trường chính trị, xã hội và pháp luật:
* Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng
khoán: Nếu khoản thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán cao (hoặc tăng
lên) sẽ làm cho số người đầu tư giảm xuống, từ đó làm cho giá chứng khoán
giảm.
* Những biến động về chính trị, xã hội, quân sự: Đây là những yếu
tố phi kinh tế nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá cổ phiếu trên thị
trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tình hình
kinh doanh của DN thì giá cổ phiếu của DN sẽ tăng lên
Đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng ảnh hưởng ko nhỏ đến
giá cổ phiếu trên thị trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng
tích cực tới tình hình doanh nghiệp thì giá cổ phiếu của DN sẽ tăng lên.

4


+ Các ảnh hưởng kinh tế vĩ mô:
* Tỷ giá hối đoái: Tác động đến thị trường ở các DN nhập nguyên vật
liệu hoặc tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài. Tỷ giá hối đoái tăng caonhà
đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn khỏi thị trườnggiảm giá cổ phiếu và ngược
lại

* Sự tiến triển của nền kinh tế quốc dân, tình hình kinh tế khu vực
và thế giới: Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế
phát triển (và có xu hướng giảm khi nền kinh tế yếu đi). Bởi khi đó, khả
năng về kinh doanh có triển vọng tốt đẹp, nguồn lực tài chính tăng lên, nhu
cầu cho đầu tư lớn hơn nhiều so với nhu cầu tích luỹ và như vậy, nhiều
người sẽ đầu tư vào cổ phiếu.

* Lạm phát: Lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng
trưởng của nền kinh tế sẽ không bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu
lợi nhuận của DN bị hạ thấp khiến giá cổ phiếu giảm. Lạm phát càng thấp
thì càng có nhiều khả năng cổ phiếu sẽ tăng giá và ngược lại.
* Tình hình biến động của lãi suất: Lãi suất tăng làm tăng chi phí
vay đối với DN. Chi phí này được chuyển cho các cổ đông vì nó sẽ hạ thấp
lợi nhuận mà DN dùng để thanh toán cổ tức. Cùng lúc đó, cổ tức hiện có từ
cổ phiếu thường sẽ tỏ ra không mấy cạnh tranh đối với nhà đầu tư tìm lợi
tức, sẽ làm họ chuyển hướng sang tìm nguồn thu nhập tốt hơn ở bất cứ nơi
nào có lãi suất cao. Hơn nữa, lãi suất tăng còn gây tổn hại cho triển vọng
phát triển của DN vì nó khuyến khích DN giữ lại tiền nhàn rỗi, hơn là liều
lĩnh dùng số tiền đó mở rộng sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy, lãi suất
5


tăng sẽ dẫn đến giá cổ phiếu giảm. Ngược lại, lãi suất giảm có tác động tốt
cho DN vì chi phí vay giảm và giá cổ phiếu thường tăng lên.
Tuy nhiên, sự dao động của lãi suất không phải luôn được tiếp theo
bởi sự phản ứng tương đương và trái ngược của giá cổ phiếu. Chỉ khi nào lãi
suất phản ánh xu hướng chủ đạo trong lạm phát, nó mới trở thành thước đo
hiệu quả sự dao động của TTCK. Lãi suất có xu hướng giảm khi lạm phát
giảm và lạm phát giảm khiến giá cổ phiếu tăng cao hơn. Ngược lại, lạm phát
tăng cùng với lãi suất, giá cổ phiếu sẽ giảm. Nhưng nếu lạm phát không phải
là một vấn đề nghiêm trọng và lãi suất tăng, đầu tư vào TTCK thường mang
lại nhiều lãi. Bởi vì trong trường hợp này, lãi suất tăng là do nền kinh tế tăng
trưởng.
+ Yếu tố vi mô:
* Những yếu tố nội tại gắn liền với nhà phát hành biến động: yếu
tố về kỹ thuật sản xuất: trang thiết bị máy móc, công nghệ, tiềm năng nghiên
cứu phát triển...; yếu tố về thị trường tiêu thụ: khả năng về cạnh tranh và mở

rộng thị trường...; yếu tố về con người: chất lượng ban lãnh đạo, trình độ
nghề nghiệp của công nhân; tình trạng tài chính của DN...
* Tâm lý nhà đầu tư: Theo thuyết lòng tin về giá cổ phiếu, yếu tố căn
bản trong biến động của giá cổ phiếu là sự tăng hay giảm lòng tin của nhà
đầu tư đối với tương lai của giá cổ phiếu, của lợi nhuận DN và của lợi tức cổ
phần. Vào bất cứ thời điểm nào, trên thị trường cũng xuất hiện 2 nhóm
người: nhóm người lạc quan và nhóm người bi quan. Khi số tiền do người
lạc quan đầu tư chiếm nhiều hơn, thị trường sẽ tăng giá và khi số tiền bán ra
của người bi quan nhiều hơn, thị trường sẽ hạ giá. Tỷ lệ giữa 2 nhóm người
này sẽ thay đổi tuỳ theo cách diễn giải của họ về thông tin, cả về chính trị
6


lẫn kinh doanh, cũng như những đánh giá của họ về nền kinh tế nói chung
và TTCK nói riêng.
Chính vì thế, cùng một loại chứng khoán, có người cho rằng, xấu quá
cần phải bán đi, nhưng ngược lại có người cho rằng, tương lai của nó rất
sáng lạn cần phải mua vào. Điều này cũng lý giải tại sao trên TTCK lúc nào
cũng có người mua, người bán.
Ngoài ra, các hành động lũng đoạn, tung tin đồn nhảm, các biện pháp
kỹ thuật của nhà điều hành thị trường, ý kiến của các nhà phân tích... cũng
có thể khiến thị giá cổ phiếu biến động.

II.
II.1.
II.1.1.

Thị trường cổ phiếu Việt Nam
Sự hình thành và phát triển thị trường cổ phiếu Việt Nam
Giai đoạn năm 2000-2005

Sự ra đời của thị trường cổ phiếu Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa
vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày
20/07/2000. Trái ngược với không khí trầm lắng trên thị trường trái phiếu, ngay
từ phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000,thị trường cổ phiếu đã là tiêu
điểm thu hút sự chú ý của đông đảo công chúng đầu tư. Mặc dù ở thời điểm khai
trương chỉ có một khối lượng nhỏ của 2 loại cổ phiếu đã niêm yết là cổ phiếu của
Công ty Cổ phần Cáp & Vật liệu Viễn thông (SAM) và cổ phiếu của Công ty Cổ
phần Cơ điện lạnh (REE) nhưng tại các sàn giao dịch của các công ty chứng
khoán, lệnh đặt mua cổ phiếu SAM và REE vẫn liên tục được nhập vào hệ thống
giao dịch.Với tổng khối lượng đặt mua cho hai loại cổ phiếu này là 335.500 cổ
phiếu trong khi khối lượng chào bán chỉ giới hạn, phiên giao dịch đã diễn ra suôn
sẻ nhưng kết thúc với tổng giá trị giao dịch khá khiêm tốn: 70,4 triệu đồng.Tình

7


trạng mất cân bằng quá lớn giữa cung và cầu ngay từ phiên giao dịch đầu tiên đã
báo trước một kịch bản đơn điệu sẽ diễn ra liên tục trên thị trường cổ phiếu.
Để nhanh chóng khắc phục hiện tượng mất cân đối quá lớn giữa cung và
cầu, ngày 4/8/2000, trên 2 triệu cổ phiếu của Công ty Cổ phần giao nhận Kho
vận ngoại thương Thành phố Hồ Chí Minh (TMS) và 1 triệu cổ phiếu của công
ty Hapaco (HAP) đã được đưa vào giao dịch.Cũng trong tháng 8/2000, trong các
nỗ lực khắc phục sức ép của nhu cầu lên giá cổ phiếu,Chính phủ đã đồng ý cho
phép bán ra một khối lượng lớn cổ phiếu SAM và REE trong số cổ phần nhà
nước đang nắm giữ. Tuy nhiên, cho đến lúc này, quan hệ cung cầu vẫn chưa
được cải thiện đáng kể vì lệnh chào bán cần được đưa vào thị trường với nhỏ
giọt trong khi số lượng đặt mua chưa có lệnh bán đối ứng vẫn còn tồn đọng với
khối lượng lớn.
Đầu năm 2001, tình trạng đơn điệu của thị trường bị phá vỡ trong phiên
giao dịch ngày 9/2/2001, khi lần đầu tiên một mức kỷ lục về giá trị giao dịch

được thiết lập trong Guinness giao dịch chứng khoán. Tổng giá trị giao dịch cổ
phiếu đã đột ngột tăng nhanh và vượt ngưỡng 10 tỷ đồng khi các thông tin về
việc REE công bố bán lại 1,8 triệu cổ phiếu quỹ được tiết lộ. Thông tin này
nhanh chóng được chuyển đi và phản ứng tự nhiên của các nhà đầu tư là nhanh
chân bán tống tháo càng nhiều càng tốt số lượng lớn cổ phiếu đang nắm giữ các
loại cổ phiếu khác như SAM. Hệ quả là hàng loạt cổ phiếu bắt đầu giảm giá,báo
hiệu giai đoạn giá trên thị trường cổ phiếu.
Từ lúc thành lập đến năm 2005,thị trường cổ phiếu luôn trong trạng thái
gà gật.Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chính thức đi
vào hoạt động,thị trường cổ phiếu dần tỉnh ngủ.
II.1.2.

Giai đoạn năm 2006-2010

8


Hoạt động phát hành huy động vốn qua thị trường cổ phiếu thực tế chỉ mới
phát sinh từ năm 2006 trở lại đây. Năm 2006 thị trường cổ phiếu Việt Nam có sự
phát triển vượt bậc, chỉ số VN-index tại sàn giao dịch thành phố Hồ Chí Minh
(HOSE) tăng 144%, tại sàn giao dịch Hà Nội (HASTC) tăng 152,4% chỉ số VNindex cuối năm tăng 2,5 lần so với đầu năm. Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỷ
USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP) giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước
ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỷ USD, chiếm khoảng 16,4% mức vốn hóa
của toàn thị trường, hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch.
Trong năm 2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện việc chào bán hơn 203 triệu cổ
phiếu. Tuy nhiên, hoạt động phát hành mới thực sự bùng nổ vào năm 2007, khi
có gần 200 đợt phát hành của 192 công ty và gần 4 ngân hàng thương mại được
đăng ký với UBCKNN với tổng lượng vốn huy động lên đến gần 40.000 tỷ
VND.
Trong năm 2008,do sự suy giảm của thị trường chứng khoán, tổng số vốn

huy động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng thông qua hơn 100 đợt chào bán chứng
khoán ra công chúng. Thị trường hồi phục vào năm 2009 và tạo điều kiện cho
hoạt động phát hành qua thị trường chứng khoán, đặc biệt là phát hành cổ phiếu
năm 2009 đã tăng hơn 50% so với năm 2008, đạt 21.724 tỷ đồng. Những thành
tích trên thị trường thứ cấp đã tác động tích cực đến thị trường phát hành, nhiều
công ty đại chúng, đặc biệt là các công ty niêm yết đã tăng vốn từ hàng chục đến
hàng trăm lần. Riêng 2 năm 2008 - 2009 đã có 35.000 tỷ đồng giá trị cổ phiếu
(tính theo mệnh giá) được phát hành ra công chúng, góp phần làm lành mạnh cơ
cấu tài chính của doanh nghiệp.
Năm 2010,thị trường cổ phiếu Việt Nam ghi nhận “làn sóng” doanh
nghiệp ồ ạt lên sàn với tổng cộng 195 mã cổ phiếu, tương ứng với hơn 40,038 tỷ
đồng mệnh giá. Tính đến cuối năm, vốn hóa của 195 cổ phiếu này đạt 93,666 tỷ
đồng, chiếm 13% toàn thị trường.
9


Kết thúc năm 2010, thị trường chứng khoán có tổng cộng 647 doanh
nghiệp niêm yết, tương ứng với vốn hóa thị trường đạt 708,595 tỷ đồng, tăng
14% so với mức 622,678 tỷ đồng của năm 2009. Trong đó, sàn HOSE chiếm
573,459 tỷ đồng và HNX đạt 135,135 tỷ đồng, tăng lần lượt 15% và 8%.
Ngoài ra, trong số này có 195 mã niêm yết mới, chiếm 93,666 tỷ đồng vốn
hóa, tương ứng với 13% thị trường. Mặc dù lượng doanh nghiệp niêm yết mới
khá lớn nhưng hầu hết đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với khối lượng niêm
yết dưới 100 triệu cổ phiếu.
Hệ thống trung gian của định chế thị trường tài chính cổ phiếu Việt Nam
tăng mạnh về số lượng và chất lượng; tính đến năm 2010 có 105 công ty chứng
khoán và 46 công ty quản lý quỹ hoạt động trên thị trường. Đồng thời hệ thống
các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển mạnh: Năm đầu khai trương thị
trường có 3.000 tài khoản, đến 2010 đạt 926.000 tài khoản. Vốn đầu tư gián tiếp
của các nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 7 tỷ USD.

Trải qua 10 năm thành lập và phát triển thị trường cổ phiếu đã trải qua
nhiều biến động. Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lại xuất hiện một trào lưu, một chiến
thuật đầu tư mới, mỗi lần như vậy nhà đầu tư Việt Nam lại có những hành động
để phù hợp với hoàn cảnh mới.
II.1.3.

Giai đoạn 2011 – 2012
Năm 2011 là năm thị trường cổ phiếu đầy biến động: Việc thị trường
lao dốc mạnh trong năm 2011 đã kéo giá trị tất cả các cổ phiếu xuống mức giá
thấp nhất trong lịch sử. Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2011 tiếp tục
chứng kiến đà lao dốc không phanh của cả hai chỉ số chính. Trong khi VN-Index
giảm từ 486 điểm xuống mức 356,2 điểm (mức thấp nhất kể từ tháng 5/2010) thì
HNX-Index đạt mức thấp nhất từ khi chỉ số này ra đời, giảm 55,4 điểm xuống 58
điểm tính đến ngày 26/12.
10


Với xu hướng lao dốc mạnh của thị trường trong năm 2011, giá trị tất cả
các cổ phiếu đã được kéo xuống mức thấp nhất trong lịch sử. Tính đến ngày
26/12, tổng cộng cả hai sàn có tới 433 mã có giá trị dưới 10.000 đồng (sàn HSX
chiếm 156 mã, sàn HNX chiếm 277 mã) và 186 mã có giá trị dưới 5.000 đồng
trong tổng cộng 696 mã.Trong đó cổ phiếu VKP có giá rẻ nhất, đóng cửa phiên
giao dịch ngày 26/12 đạt 800 đồng/cp (ngày 24/11 đạt 600 đồng/cp). CAD và
SME cùng có giá 1.600 đồng, VES có giá 1.500 đồng, ORS có giá 1.800 đồng,
VNE có giá 2.800 đồng…
Cổ phiếu “giá bèo” áp đảo trên sàn niêm yết: Hàng loạt cổ phiếu
nằm dưới mệnh giá và lần đầu tiên xuất hiện cổ phiếu VKP( công ty cổ phần
nhựa Tân Hóa) có giá dưới 1.000 đồng . Việc các cổ phiếu trên có mức giá quá
“bèo” như vậy là điều hoàn toàn có thể hiểu khi khá nhiều cổ phiếu đã rơi vào
tình trạng cảnh báo, thậm chí bị ngừng giao dịch do làm ăn thua lỗ.

Không những các mã nhỏ, các mã lớn thuộc nhóm chủ chốt của hai sàn
cũng giảm mạnh xuống mức giá dưới 10.000 đồng như PVF đạt 7.500 đồng,
OGC đạt 7.600 đồng, KLS đạt 7.900 đồng, PVX đạt 7.100 đồng…
Ngoài ra, Với việc thị trường ảm đạm kể từ giữa năm 2010 đến hết 2011,
đã ảnh hưởng mạnh tới kết quả cũng như hoạt động kinh doanh của các công ty
chứng khoán.
Nhiều công ty chứng khoán cho biết, họ đang xem xét việc dừng cung cấp
dịch vụ môi giới vì doanh thu thì ít mà chi phí thì nhiều. Công ty cổ phần Chứng
khoán Đông Dương ( DDSC ) vừa có thông báo tạm ngưng nghiệp vụ môi giới
và chuyển khách hàng qua Công ty chứng khoán Kim Eng Việt Nam ( KVS ).
Trong khi đó, Công ty chứng khoán Hà Nội ( HSSC ) đã có động thái xin rút
nghiệp vụ môi giới.

11


Công ty chứng khoán không muốn làm chứng khoán, bỏ nghiệp vụ môi
giới: Điều này thể hiện qua vụ việc Công ty cổ phần Chứng khoán Kim Long
(HNX: KLS ) với số vốn điều lệ lên tới hơn 2.000 tỷ đồng muốn rời khỏi ngành
chứng khoán.
Công ty chứng khoán (CTCK) thiếu hụt thanh khoản và kiểm soát
rủi ro yếu kém.
Nguyên nhân là do:



Tình hình kinh tế thế giới vẫn khó khăn
Lạm
phát,
lãi


suất

tăng

cao

Lam phát và lãi xuất tăng cao là nguyên nhân chính tác động xấu đến thị
trường chứng khoán năm 2011, khiến giá trị của hai chỉ số chính và các cổ phiếu
lao dốc không phanh. Mức tăng của chỉ số CPI mạnh nhất là vào tháng 4/2011
với mức tăng 3,32%, đẩy CPI cả năm 2011 tăng 18,58%.
Dòng tiền vào chứng khoán đã thắt chặt trước thông tư 13 của Chính phủ
được ban hành trong năm 2010, nay còn thắt chặt hơn khi lạm phát tăng cao
khiến lãi xuất vay vốn trong năm có lúc lên tới 22-25%, cùng với việc Ngân
hàng Nhà nước có chỉ thị yêu cầu các tổ chức tín dụng phải cơ cấu lại tín dụng,
và đến 30/6 tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất (bao gồm cho vay lĩnh
vực đầu tư chứng khoán) so với tổng dư nợ tối đa phải là 22% và đến 31/12/11
tối đa là 16%.
Đây là những nguyên nhân khiến dòng tiền chảy vào thị trường ngày càng
eo hẹp, thanh khoản chứng khoán luôn ở mức thấp. Giá cổ phiếu ở mức rất thấp,
công ty chứng khoán gặp nhiều khó khăn
Ngoài ra, việc các ngân hàng thương mại nhỏ phải thực hiện tăng vốn lên
đủ 3.000 tỷ đồng trong năm nay cũng sẽ hút một lượng tiền khá lớn của nhà đầu
tư và nó khiến thị trường niêm yết càng "đói" vốn hơn.
12


Mặc dù tình hình khá ảm đạm, thị trường tài chính xuống dốc không
phanh, áp lực cổ phần hóa,…nhưng thị trường huy động vốn bằng cổ phiếu vẫn
diễn ra sôi động. Bằng chứng là xuất hiện những thương vụ nổi tiếng về cả số

lượng cổ phiếu phát hành lẫn giá tri phát hành giữa các đối tác như:
Thương vụ M&A lớn từ đầu năm 2011 là C.P Pokphand (CPP) – công ty
sản xuất thức ăn gia súc có trụ sở tai HongKong – mua lại 70,82% cổ phần chăn
nuôi CP Việt Nam (CPVL) với giá 609 triệu USD.
Cả CPP và CPVL đều là thành viên của Tập đoàn C.P có trụ sở tại Thái
Lan.
Thương vụ này được đánh giá có ảnh hưởng lớn đến ngành nông nghiệp
Việt Nam khi CPVL chiếm khoảng 20% thị trường bán thức ăn chăn nuôi, 77%
trên thị trường chăn nuôi lợn công nghiệp và 30% trên thị trường chăn nuôi gà
thịt ở Việt Nam.
Tuy nhiên có thể nhân thấy rằng, những thương vụ trên chủ yếu được thực
hiện bởi các doanh nghiệp lớn và đều phát hành cổ phiếu riêng lẻ cho các đối tác
chiến lược. Hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng diễn ra hết sức trầm
lắng, kể cả đối với cả DN Nhà nước, các NHTM lớn ....
Thị trường cổ phiếu năm 2012: Thị trường kết thúc năm 2011 với nhiều lo
lắng khi: thông tin xấu vẫn tràn ngập, giá chứng khoán liện tục sụt giảm mạnh,
tâm lý giới đầu tư chán nản và đầy hoài nghi. Đây cũng là lý do khiến đà giảm
tiếp tục kéo dài trong những tuần đầu tháng 1/2012.
Tuy nhiên những tháng tiếp theo giới đầu tư đã bắt đầu nhắc tới cụm từ
“thị trường đã vào vùng đáy” với những dấu hiệu đang diễn ra ở trên. Chính điều
này đã kích thích hoạt động bắt đáy gia tăng trở lại và giao dịch thị trường dần
khởi sắc một cách bất ngờ.
13


Đà tăng của thị trường được củng cố thêm nhờ những diễn biến vĩ mô “bớt
xấu đi”, chẳng hạn như:


Lạm phát được kiềm chế, tạo điều kiện cho các ngân hàng kéo giảm lãi suất

(NHNH ban hành Thông tư 14 áp trần lãi vay 15%/năm với 4 lĩnh vực ưu tiên),
tỷ giá cũng được cam kết giữ ổn định.



Chính phủ đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế.



Ra mắt VN30-Index và HNX30-Index:
Ngày 6/2, Sở giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HoSE) bắt đầu áp dụng
VN30 ra thị trường. Bộ chỉ số này đại diện cho 30 công ty niêm yết trên HoSE
có giá trị vốn hóa lớn và thanh khoản cao và sẽ được xem xét 6 tháng một lần.
Đến ngày 9/7, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) cũng đưa vào vận
hành bộ chỉ số HNX30. HNX30-Index lấy ngày mùng 3/1 làm mốc với điểm cơ
sở là 100, áp dụng phương pháp tính giá trị vốn hóa thị trường có điều chỉnh tỷ
lệ tự do chuyển nhượng và cũng được xem xét định kì 6 tháng một lần.



Gỡ khó cho ngành bất động sản bằng cách loại mảng tín dụng bất động sản quan
trọng ra khỏi “không khuyến khích”, cho phép tái cơ cấu các khoản nợ vay.
Từ 10/05 - 28/11: Vĩ mô không tiến triển, và cú sốc từ hàng loạt thông tin
“hình sự”.
Đây là giai đoạn thị trường lao dốc khá mạnh. Theo đó, VN-Index đã sụt
giảm 22.3% về 375.79 điểm và HNX-Index đã giảm 38.1% về 51 điểm so với
mức đỉnh được thiết lập vào ngày 09/05.

14



Thị trường thiếu vắng thông tin hỗ trợ khi các kế hoạch nhằm cải thiện
nền kinh tế đã được tung ra trong giai đoạn trước đó nhưng chưa đem lại hiệu
quả rõ rệt. Tâm lý của giới đầu tư, vì vậy, thận trọng trở lại khiến áp lực chốt lời
tăng cao khi các chỉ số VN-Index và HNX-Index tiến sát các đỉnh cũ.
Kinh tế vĩ mô trong giai đoạn này không thực sự có nhiều chuyển biến
đáng kể mà thậm chí còn bộc lộ nhiều điểm đáng lo ngại hơn, cụ thể:


Lãi suất mặc dù giảm nhưng tăng trưởng tín dụng lại diễn ra khá chậm. Trong
khi đó, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng vẫn ngày một gia tăng.



Thị trường bất động sản tiếp tục đông cứng mặc dù các doanh nghiệp thi nhau
giảm giá sốc.
Thị trường rúng động khi đón nhận các thông tin hình sự liên quan đến
việc Bầu Kiên bị bắt và những đồn thổi xung qua gia đình ông Đặng Văn Thành.
Đây chính là nguyên nhân chính khiến các thị trường giảm sâu trong năm qua,
đặc biệt là HNX-Index đã tạo đáy mới 50.66 điểm vào phiên giao dịch ngày
06/11/2012. sau cơn địa chấn mang tên Bầu Kiên và Đặng Văn Thành, diễn biến
thị trường không mấy sôi đông do tâm lý thận trong tăng cao và một phần nào
niềm tin trong giới đầu tư bị sứt mẻ đáng kể.

II.1.4.

Giai đoạn từ 2013 đến nay
Thị trường cổ phiếu năm 2013
Khi nền kinh tế cả nước có dấu hiệu phục hồi cũng là lúc thị trường cổ
phiếu Việt Nam chuyển mình đứng lên.Trong năm 2013, nhờ có những tín hiệu

ổn định vĩ mô nhờ những giải pháp tích cực mà thị trường cổ phiếuViệt Nam có
những diễn biến khả quan.
Những con số ấn tượng trong năm 2013:
15


-

21,97% và 18,83%: Là mức tăng lần lượt của VN-Index và

HNX-Index trong năm 2013. VN-Index kết thúc phiên giao dịch cuối cùng
của năm 2013 ở mức 504,63 điểm, HNX-Index chốt năm 2013 ở mức
67,84 điểm.
Sự gia tăng của các chỉ số đã đưa Việt Nam trở thành 1 trong 10 nước có
mức độ phục hồi mạnh nhất thế giới.
-

949.000 tỷ đồng là mức vốn hoá thị trường năm 2013 (tăng

184.000 tỷ đồng so với cuối năm 2012), tương đương mức 31% GDP.
107.630.000 cổ phiếu là KLGD bình quân 1 phiên của năm
2013, giá trị giao dịch bình quân trên hai sàn đạt 1.380 tỷ đồng/phiên, tăng
6% so với năm 2012.
Thị trường cổ phiếu đầu năm 2014
5 tháng đầu năm các nhà đầu tư nước ngoài giao dịch khá tích cực, giá trị
mua vào khoảng 979,54 triệu cổ phiếu tương đương với 30.624 tỷ đồng, số
lượng bán ra khoảng 751,42 triệu cổ phiếu tương đương với 25.492 tỷ
đồng.Ngoài ra, các nhà đầu tư trong nước có sự đầu tư đối với kênh đầu tư cổ
phiếu khi mà các kênh đầu tư khác kém phát triển hơn.
Cho đến phiên giao dịch ngày 08/5 được coi là phiên giao dịch giảm

mạnh nhất từ năm 2001 đến nay. Phân tích thị trường của Công ty Cổ phần
chứng khoán FPT cùng buổi sáng nhận định "đây có thể là phiên giảm điểm
mạnh nhất trong quá trình giao dịch của thị trường những năm gần đây."
"Phiên sáng, VN-Index như một cỗ xe mất phanh, phăng phăng lao dốc
với tốc lực mỗi lúc một thêm mạnh và xuyên thủng các ngưỡng hỗ trợ một cách
nhanh chóng, đà giảm sau sâu hơn đà giảm trước," báo cáo của FPT cho biết.
Nguyên nhân là do tác động từ tin giàn khoan của Trung Quốc. Các nhà đầu tư e
ngại chiến tranh vũ trang, với kinh nghiệm đối phó chiến tranh, họ nhanh chóng
16


rút khỏi kênh đầu tư này để chuyển sang các kênh đầu tư là vàng và ngoại tệ
mạnh.
=> Thị trường cổ phiếu Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn khi cơ sở là nền
kinh tế không khỏe mạnh , vững chắc, đồng thời tình hình chính trị không ổn
định cũng là một rào cản khó khăn cho sự phát triển của thị trường này.
Những hạn chế của thị trường cổ phiếu Việt Nam
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thị trường cổ phiếu vẫn tồn tại một

II.2.

-

số hạn chế sau:
Số lượng và chất lượng hạn chế của cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch
Chứng khoán
Hạn chế lớn nhất của thị trường là chưa có một lượng hàng hóa đủ lớn về
quy mô cũng như cơ cấu nếu so sánh 600 mã chứng khoán niêm yết và đăng ký
giao dịch với khoảng 4.000 công ty đại chúng. Sau 10 năm hoạt động, với 600
công ty được niêm yết vào thời điểm hiện tại, quy mô của thị trường cổ phiếu ở

Việt Nam còn nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Nhiều công ty niêm yết
hiện là các công ty quy mô nhỏ với số vốn khoảng vài chục tỷ đồng, chưa đủ gây
ra sức hút đối với các nhà đầu tư.

-

Thiếu vắng sự tham gia tích cực của những nhà đầu tư tổ chức trên thị
trường
Về phía cầu, nhiều nhà đầu tư cổ phiếu trên thị trường Việt Nam là cá
nhân và mang tính đầu cơ hơn là đầu tư, góp phần tạo tính bất ổn định của thị
trường. Điều này làm cho chính các doanh nghiệp ngần ngại khi quyết định huy
động vốn qua thị trường cổ phiếu. Những nhà đầu tư tổ chức Việt Nam cũng như
nước ngoài chưa tham gia nhiều vào mua cổ phiếu của các công ty niêm yết, một
phần là do tính kém hấp dẫn của các cổ phiếu trên thị trường, nhưng cũng một
phần do những khó khăn, phức tạp liên quan đến khuôn khổ pháp lý. Những khó
17


khăn đó là khung pháp lý về bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số chưa đầy đủ,
thiếu các chuẩn mực về công khai minh bạch thông tin, các quy định chưa rõ
ràng về chế độ thuế đối với nhà đầu tư, quỹ đầu tư nước ngoài, các hạn chế về
-

hạn mức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, v.v.
Hoạt động của mua bán cổ phiếu trên thị trường phi chính thức lớn hơn
nhiều lần so với thị trường chính thức và không được kiểm soát thích đáng.
Việc bán cổ phiếu cho công chúng ở bên ngoài thị trường giao dịch chứng
khoán (thị trường phi tập trung OTC) diễn ra khá sôi động, nhưng hiện chưa có
quy định pháp luật nào kiểm soát hoạt động này. Theo ước tính, số lượng doanh
nghiệp huy động vốn cổ đông từ công chúng trên thị trường không chính thức

này gấp khoảng 30 lần số doanh nghiệp niêm yết chính thức. 2 trong số khoảng
1.000 DNNN đã được cổ phần hóa, chỉ có chưa tới 3% đã niêm yết, như vậy có
thể cho rằng một số lượng lớn cổ phiếu của các doanh nghiệp này đang được
mua bán trên thị trường không chính thức. Ở các nền kinh tế phát triển, thị
trường OTC thường cũng có quy mô lớn hơn gấp nhiều lần thị trường tập trung,
song thị trường này được kiểm soát bởi các luật lệ khá chặt chẽ nhằm bảo vệ
quyền lợi của nhà đầu tư. Các luật lệ này vẫn chưa được thiết lập ở Việt Nam. Lo
lắng chung từ phía quản lý nhà nước cũng như giới doanh nghiệp là thị trường
phi chính thức không được kiểm soát này có nguy cơ sụp đổ cao và có thể gián

-

tiếp làm tổn hại cho thị trường chính thức mới manh nha phát triển.
Quy mô nhỏ và mức độ công khai thông tin thấp của các doanh nghiệp Việt
Nam
Các công ty tư nhân của Việt Nam mới phát triển trong vòng hơn một thập
kỷ qua, đặc biệt là từ năm 2000. Vì vậy, hầu hết các công ty tư nhân đều ở một
quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ và thường được quản lý theo kiểu gia đình. Hơn nữa,
nhiều doanh nghiệp tư nhân Việt Nam thường tìm cách duy trì chế độ nhiều sổ
sách và không công khai thông tin. Ví dụ, số doanh nghiệp báo cáo tài chính theo
quy định của Luật Doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 15-20%.3 Nguyên nhân của
tình hình này không chỉ do ý định chủ quan, thói quen của doanh nghiệp mà còn
18


do sự thiếu vắng khung pháp lý và các chuẩn mực về công khai thông tin, kiểm
toán, kế toán... của Việt Nam. Các vấn đề này tiếp tục là trở ngại đối với nhà đầu
II.3.
II.3.1.
-


tư và không khuyến khích được hoạt động huy động vốn cổ đông.
Rủi ro của thị trường cổ phiếu Việt Nam
Các yếu tố rủi ro từ thị trường
Lừa đảo trên thị trường
Hiện tượng lừa đảo trên thị trường chứng khoán tồn tại ở nhiều dạng khác
nhau như: làm giả các số liệu tài chính, đánh bóng công ty, che giấu không cho
các nhà đầu tư biết các rủi ro hay các tin xấu, rút ruột công ty, trò Ponzi (hút tiền
của các nhà đầu tư mới để trả cho các nhà đầu tư cũ và một phần bỏ túi chứ
doanh nghiệp không tạo lợi nhuận thực sự), lũng đoạn giá chứng khoán trên thị
trường, giao dịch nội gián, cò mồi kích động các nhà đầu tư mua bán bằng các
tin đồn, phân tích giả,…
Trong tất cả các vụ lừa đảo như vậy, người bị thiệt hại là các nhà đầu tư.
Một khi các nhà đầu tư bị lừa đảo mất tiền thì có rất ít khả năng đòi lại số tiền bị
mất đó.
Năm 2011, thị trường tiếp đà sụt giảm mạnh cả về giá cả cổ phiếu cũng
như số lượng các nhà đầu tư. Trước tình thế khó khăn, để thu hút các nhà đầu tư,
một số công ty chứng khoán đã cố tình vi phạm các quy định của Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước như làm giả một số cổ phiếu, ứng khống trước cổ phiếu cho
một số nhà đầu tư ruột, bảo lãnh khống cho một số nhà đầu tư vay tiền ngân
hàng…Đồng thời một số nhà đầu tư có hành vi tung tin đồn thất thiệt tạo sốt ảo
một số cổ phiếu, thao túng giá cổ phiếu nhằm trục lợi. Tiêu biểu là sự kiện Tổng
giám đốc Công ty Dược Viễn Đông thao túng giá cổ phiếu DHT – Dược Hà Tây,
khai khống tạo doanh thu giả cho công ty. Do đó, công ty đã phải chấm dứt hoạt
động vào cuối tháng 9/2011 và bị xử lý hình sự. Đây là vụ khởi tố hình sự đầu

-

tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Rủi ro về hoạt động của doanh nghiệp đầu tư

Đây là rủi ro rất phổ biến hiện nay do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, thậm chí phá sản. Chỉ
19


tính riêng quý I/2012 đã có hơn 12.000 doanh nghiệp đóng cửa và ngừng hoạt
động. Do vậy, nếu nhà đầu tư đang nắm giữ cổ phiếu của công ty này sẽ đứng
trước nguy cơ mất trắng.
Từ giữa năm 2008, thị trường bất động sản Việt Nam “đóng băng”, giao
dịch hết sức trầm lắng…Kết quả là giao dịch của các nhóm ngành này cũng bị
“vạ lây” – giảm hơn 80% so với đầu năm 2008. Chẳng hạn cổ phiếu TDH (Công
ty Phát triển Nhà Thủ Đức) đã giảm xuống còn 28.900 đồng từ mức 141.000
-

đồng/cổ phiếu.
Rủi ro về chính sách
Các cơ quan chính phủ có thể ban hành nhiều loại chính sách khác nhau
ảnh hưởng trực tiếp tới các nhà đầu tư, ví dụ như: Mức thuế cho lợi nhuận từ đầu
tư, các quy định về việc được mua bán chứng khoán, quy định về chuyển ngoại
về ra nước ngoài,…Các chính sách đó có thể khiến các nhà đầu tư không thể
thực hiện được chiến lược đầu tư đáng lẽ có thể thực hiện được. Đặc biệt là khi
chinh sách thay đổi đột ngột, nhà đầu tư có thể bị mắc kẹt, thậm chí trở thành
phạm pháp nếu không kịp thời thay đổi theo chính sách.
Ngày 27/9/2010, Thông tư 19/2010/TT-NHNN sửa đổi Thông tư
13/2010/TT-NHNN quy định về tỷ lệ an toàn của tổ chức tín dụng được ban
hành. Thông tư 13 và thông tu 19 là văn bản pháp lý có ảnh hưởng lớn nhất tới
thị trường chứng khoán trong năm 2010 được coi là tác nhân gây ra sự lo lắng vè
khả năng thoái vốn ồ ạt của các ngân hàng, giảm hoạt động cho vay đầu tư
chứng khoán, bất động sản…nhằm đảm bảo tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu theo tiêu


-

chuẩn mới.
Rủi ro về thông tin
Vấn đề “thông tin bất cân xứng” là vấn đề nổi cộm trong đầu tư chứng
khoán ở Việt Nam. Rất khó khăn để biết được tình trạng kinh doanh thật thực sự
của doanh nghiệp, bởi các thông tin trên báo cáo tài chính thường thiếu tin cậy.
Hơn nữa một số “tay trong” nắm được thông tin tốt và sớm hơn, mua bán dựa
20


trên các thông tin đó, còn những người khác không hề nhận được thông tin, hoặc
chỉ nhận được khi đã muộn.
II.3.2. Các yếu tố rủi ro từ bản thân
- Rủi ro về khả năng quản lý

người đầu tư

Việc quản lý danh mục đầu tư nói chung và quản lý rủi ro nói riêng đòi
hỏi nhiều công sức, kiến thức, kinh nghiệm,..Khi quyết định đầu tư vào bất cứ
chứng khoán nào, người đầu tư cũng phải thu thập thông tin, phân tích, quyết
định đầu tư, theo dõi và xử lý,…Một người riêng lẻ có thể không đủ khả năng để
làm tất cả những việc đó một cách hiệu quả, dễ dẫn đến nhiều sai lầm gây thiệt
hại, đồng thời bỏ lỡ nhiều cơ hội đầu tư tốt.
- Rủi ro về ước lượng sai giá trị
Việc ước lượng giá trị thực của cổ phiếu là điều không hề đơn giản.
Những người khác nhau có thể đưa ra ước lượng chênh nhau đến vài lần, trong
đó có những người quá lạc quan và những người quá bi quan. Nếu lạc quan quá,
ước lượng giá trị cao quá so với giá trị thực, thì có thể dẫn đến mua cổ phiếu đắt
hơn so với giá trị thực và nếu sau đó cổ phiếu giảm về giá trị thực thì thua lỗ.

Vào khoảng thời gian tháng 3-4/2011, thị trường chứng khoán nằm trong
bối cảnh chịu nhiều thông tin xấu về kinh tế vĩ mô như chỉ số lạm phát, giá một
số mặt hàng thiết yếu tăng liên tục. Tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp
niêm yết cũng trở nên khó khăn. Có 1/3 số công ty chứng khoán báo lỗ. Trong
khi đó, nhiều phiên giao dịch nối tiếp nhau với thanh khoản lên xuống thất
thường vẫn không phát ra một tín hiệu rõ ràng nào về xu hướng thị trường.
Hiển nhiên, đây là giai đoạn mua vào mang tính đánh cược rất cao và quá
rủi ro đối với nhà đầu tư. Hệ quả của sự rủi ro đó đã đến vào tuần đầu tháng
5/2011, khi cả 2 sàn chứng khoán lao dốc mạnh, tạo nên hiệu ứng “tuần lễ kinh
hoàng”. Niềm tin đánh cược với thị trường đã bị đổ vỡ hoàn toàn.
- Rủi ro về tâm lý
Nhà đầu tư Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng của “tâm lý số đông”. Nhà đầu
tư có thể dễ bị kích động theo xu hướng chung của thị trường, mua lúc đáng nhẽ
không nên mua, bán lúc đáng nhẽ không nên bán, mua bán quá nhiều,…
21


Khi thị trường chứng khoán trong trạng thái Mania (giá bị thổi phồng lên
rất cao), là lúc có rủi ro cao, thì các nhà đầu tư lại cạnh tranh nhau mua vào theo
tâm lý số đông, để rồi sau đó thua lỗ thảm hại khi thị trường đi xuống. Ngược lại
khi thị trường ở mức thấp, rất rẻ so với giá trị thực, là cơ hội hấp dẫn, thì nhà đầu
tư lại sợ không dám mua vào. Tâm lý này không chỉ ảnh hưởng tới các nhà đầu
tư nhỏ mà còn ảnh hưởng tới các quỹ đầu tư và daonh nghiệp lớn.
II.4.
Các biện pháp quản trị rủi do khi đầ tư vào thị trường cổ phiếu

-

Việt Nam
Đối với rủi ro lừa đảo trên thị trường

Tránh xa các cổ phiếu nhỏ lẻ, ít thông tin, ít người quan tâm, trừ khi tiếp
cận được với các giám đốc điều hành đáng tin cậy của các công ty đó, bởi

-

cổ phiếu càng nhỏ và càng ít thông tin thì càng dễ lừa đảo và lũng đoạn.
Khi cổ phiếu đang giữ là của doanh nghiệp có dấu hiệu lừa đảo, nhà đầu
tư nên loại nó ra khỏi danh mục đầu tư, kiểm tra lại cẩn thận trước khi

-

quyết định có nên đầu tư vào loại cổ phiếu đó không.
Xây dựng khả năng tự phân tích và thu thập thông tin, tự xác định được


-

giá trị của các cổ phiếu, để tránh bị các cò mồi kích động.
Đối với rủi ro về hoạt động của doanh nghiệp
Đa dạng hóa cổ phiếu, để nếu cổ phiếu của doanh nghiệp này bị rủi ro thì

-

đã có cổ phiếu khác bù lại.
Chọn lựa cổ phiếu của các doanh nghiệp mạnh và tương đối ít rủi ro, loại
khỏi danh mục đầu tư các doanh nghiệp có nhiều nguy cơ suy yếu và phá


-


sản (ví dụ như lợi nhuận kém, công nghệ lỗi thời,…)
Đối với biến động giá thị trường
Có tầm nhìn đầu tư dài hạn, để có thể chấp nhận lỗ tạm thời về các biến
động bất lợi về giá trong ngắn hạn xảy ra, miễn sao kỳ vọng với lợi

-

nhuận về dài hạn là tốt.
Không tham lam dùng đòn bẩy cao vì dễ gặp phải rủi ro bất lợi khi có
biến động ngắn hạn. Ngược lại cần có tiền mặt dự trữ (hay nguồn thu
nhập đều đặn có thể dùng để đầu tư thêm), để mỗi khi giá trị của cổ phiếu
đi xuống trong ngắn hạn là có cơ hội để mua vào.
22


-

Có thể kết hợp dùng các chứng khoán phái sinh để giảm bớt độ biến động

-

danh mục đầu tư, tăng độ ổn định ngắn hạn.
Đa dạng hóa các chứng khoán để góp phần làm giảm rủi ro biến động giá


-

thị trường.
Đối với rủi ro thông tin
Tương tự như đối với rủi ro lừa đảo, nhà đầu tư nên tránh các cổ phiếu


-

thiếu thông tin đáng tin cậy, đặc biệt là cổ phiếu nhỏ, mờ ám.
Dành công sức, thời gian, tiền và chi phí một cách thích đáng cho việc thu


-

thập thông tin.
Đối với rủi ro về khả năng quản lý
Nhà đầu tư cần có những người đáng tin cậy giúp đỡ trong quản lý đầu tư.
Nếu không tự tin trong quyết định đầu tư của mình thì tốt nhất là nên ủy


-

thác cho một tổ chức đầu tư uy tín.
Trau dồi thêm kiến thức về tài chính và đầu tư.
Đối với rủi ro về ước lượng sai giá trị
Cần tích lũy thêm kinh nghiệm phân tích, hoặc dựa trên sự tham mưu của

-

những người có chuyên môn trong lĩnh vực này.
Phân tích dựa trên các mô hình hợp lý và các nguồn đáng tin cậy.
Đối với các cổ phiếu là “ửng cử viên” mới cho danh mục đầu tư, cần có
đủ thời gian phân tích (ít nhất một tháng), để có thể hiểu rõ về công ty và

II.5.



-

giá trị của chúng trước khi đầu tư.
Đối với rủi ro tâm lý
Xây dựng trước các tinh huống có thể xảy ra và tính trước cách xử lý tình

-

huống để tránh hoanh mang, thụ động.
Kỷ luật trong đầu tư: có chiến lược và quy trình rõ ràng tuân thủ theo nó,

-

không đầu tư theo cảm tính.
Có kiểm soát: cần có người kiểm soát (nếu một mình đầu tư thì không có

ai kiểm soát, dễ đầu tư sai lầm)
Các giải pháp khắc phục hạn chế và phát triển thị trường cổ phiếu Việt
Nam
-

Gia tăng chất lượng và chủng loại hàng hóa
Đây là giải pháp quan trọng để người đầu tư có thể chủ động xây dựng

chiến lược phòng ngừa rủi ro. Đưa các công ty lớn, có khả năng chi phối lớn tới
23



nền kinh tế vào niêm yết cùng với việc cho phép niêm yết cả những công ty vừa
và nhỏ. Nếu chúng ta có được số lượng những công ty đủ lớn, thuộc đủ loại
ngành và đủ các quy mô thì khả năng đa dạng hóa có hiệu quả danh mục đầu tư
sẽ tăng lên.Mặt khác, nên khẩn trương thành lập nhiều quỹ đầu tư hơn, bởi loại
hình đầu tư qua quỹ là rất thích hợp cho một thị trường mà người đầu tư chủ yếu
là những nhà đầu tư nhỏ và ít hiểu biết về lĩnh vực này.
-

Đa dạng hóa các loại hình giao dịch
Cho đến thời điểm hiện tại mới chỉ có hai loại giao dịch được phép thực

hiện trên thị trường là giao dịch theo phương thức khớp lệnh và giao dịch thỏa
thuận. Thị trường cổ phiếu Việt Nam giai đoạn này cũng chưa đủ điều kiện để áp
dụng đầy đủ các phương thức giao dịch vẫn đang được thực hiện bên ngoài SGD
do chưa có đầy đủ các quy định cho các loại hình giao dịch này. Các loại giao
dịch về chuyển nhượng nội bộ, thừa kế chứng khoán niêm yết đang được thực
hiện theo cách tự chuyển nhượng cho nhau giữa các nhà đầu tư với khối lượng
lớn, sau đó làm thủ tục với tổ chức phát hành để thay đổi tên danh sách cổ đông
trên SGD. Ngoài ra, các giao dịch khác như giao dịch lô lẻ, giao dịch lô lớn, giao
dịch đấu thầu cũng là các hình thức cần sớm được đưa vào thực hiện vì lợi ích
của cộng đồng các nhà đầu tư.
-

Cung cấp thông tin đầy đủ
Khi số lượng cổ phiếu niêm yết tăng lên, nhà đầu tư sẽ có cơ hội để lựa

chọn đầu tư. Chắc chắn những gì mà nhà đầu tư mong đợi không chỉ là bản cáo
bạch của công ty phát hành. Người ta còn chờ đợi bức tranh toàn cảnh của nền
kinh tế, của ngành hoạt động của công ty: chu kỳ sống, tiềm năng công nghệ, lợi
thế cạnh tranh, khả năng bị thay thế bởi những sản phẩm khác, tương quan giữa

công ty đang xem xét với các công ty trong ngành, cùng với đánh giá sâu sát
hơn, chuyên nghiệp hơn và triển vọng của từng cổ phiếu…Vì thế chúng cần phải
được phân tích để đưa ra những khuyến nghị cảnh báo kịp thời và thích hợp. Để
24


tiến hành những phân tích này đương nhiên cần có những chuyên gia giỏi và một
hệ thống hạ tầng thông tin tương đối tốt. Những cái đó không phải là quá xa tầm
đối với cơ quan quản lý Nhà nước trong những điều kiện hiện tại. Tuy nhiên vấn
đề là phải dành cho nó một sự quan tâm đúng mức.
-

Phát triển chế độ thanh toán không dùng tiền mặt
Mặc dù con số các tài khoản được mở tại các công ty chứng khoán đã tăng

lên rất nhiều so với thời điểm SGD mới đi vào hoạt động nhưng số tài khoản
không giao dịch thì có chiều gia tăng. Hiện tượng này xuất phát từ nhiều nguyên
nhân, trong đó có một nguyên nhân quan trọng xuất phát từ nền kinh tế chủ yếu
sử dụng tiền mặt như hiện này của Việt Nam. Một nhà đầu tư sẽ e ngại khi đưa
số tiền của mình vào tài khoản và chịu sự giám sát quản lý của các cơ quan quản
lý thị trường trong khi đó nếu họ không mở tài khoản họ có thể dùng số tiền mặt
đó để giao dịch tùy ý mà không chịu sự giám sát của cơ quan nào, hơn nữa lại có
thể bớt được một khoản phí khi mở tài khoản. Do đó, để các nhà đầu tư mạnh
dạn hơn trong việc thực hiện các giao dịch trên SGD, hạn chế hoạt động của
TTCK ngầm, và cũng nhằm nâng cao khả năng quản lý của cơ quan quản lý,
phải đẩy mạnh việc sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt. Đây cũng là yêu
cầu hàng đầu trong việc tiến hành đến giao dịch chứng khoán điện tử và phát
triển dịch vụ ngân hàng điện tử, là các dịch vụ đem lại nhiều ích lợi cho các nhà
đầu tư và sớm muộn cần được phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày
nay.

-

Điều chỉnh các chuẩn mức kế toán gần với các chuẩn mực quốc tế
Tồn tài một thực tế là hệ thống kế toán mà các tổ chức phát hành đang áp

dụng chưa thực sự tạo điều kiện dễ dàng cho các cổ đông có thể hiểu được một
cách đầy đủ và sáng sủa về tình hình sản xuất, kinh doanh của tổ chức phát hành.
Hệ thống kế toán này đang còn nhiều điểm không phù hợp với hệ kế toán quốc
25


×